Fax: +493046795841 Email: thongtinberlin@gmail.com Tel. +4917678132650
www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de

T́m hiểu về khái niệm công b́nh của Amartya Sen
qua tác phẩm The Idea of Justice

Đỗ Kim Thêm

 

1. Đại ư

Công b́nh một đề tài tranh cải quen thuộc trong đời sống gia đ́nh hằng ngày, thí dụ như chuyện ba đứa trẻ, Anne, Bob và Clara, cùng đ̣i làm chủ một cây sáo. Anne nhất quyết dành cây sáo cho riêng ḿnh với lư do khá thuyết phục v́ là người duy nhất trong gia đ́nh biết chơi sáo, Bob lại dành phần là v́ ḿnh không có tṛ chơi nào và Clara phản đối v́ là ngựi đă bỏ công làm ra cây sáo mà lại không có quyền hưởng. Bố mẹ phải giài quyết làm sao đem laị công b́nh cho cả ba? Nhưng sâu xa hơn, công b́nh là một luận đề triết học xa xưa, mà nhận xét chua chát của Thomas Hobbes trong tác phẩm Levithian từ năm 1651đến nay vẩn c̣n giá trị: „Đời người là sống khốn khổ như thú vật và ngắn ngủi“, th́ c̣n t́m đâu ra công b́nh cho kiếp người?

Với hai khởi điểm này Sen đă đưa người đọc đi vào thế giới suy tưởng của ông về công b́nh, một công tŕnh tổng hợp nhiều luận thuyết của Thomas Hobbes, John Lockes, Immanuel Kant, Adam Smith, Condorcet, Mary Wollstone, Karl Marx, Stuart Mill, đặc biệt nhất là phê b́nh thuyết công b́nh của John Rawls. V́ là ngựi gốc Ân Độ, ông cũng không quên đem giáo lư của Phật giáo và Ấn Độ giáo để giới thiệu và so chiếu. Mục đích của ông không xây dựng một học thuyết mới về công b́nh mà đưa ra một phương cách hành động thực tiển làm cho thế giới bớt bất công hơn. Theo ông, lập luận và phản biện công khai trong một môi trường xă hội dân chủ là một điều kiện tiên quyết để đạt được công b́nh. Đó là nội dung chủ yếu của Sen trong tác phẩm mới nhất The Idea of Justice và sẽ được giới thiệu trong bài viết này.

Sen hiện là giáo sư đại học Harvard và đă đoạt giài Nobel về Kinh tế năm 1998. Một tác phẩm nổi tiếng của ông trước đây là Development as Freedom, nhằm đề cao vai tṛ kinh tế thị trường trong công cuộc phát triển tại các nước chậm tiến.

Sách được chia làm bốn phần và có 18 chương. Phần một đưa ra những đ̣i hỏi về công b́nh, phần hai giới thiệu những h́nh thức biện luận, phần ba đề cập đến những khà năng thực hiện và phần cuối cùng phân tích mối quan hệ giửa những biện luận công khai và phát triển dân chủ   

 

2. Định nghiă công b́nh trong môt hoàn cảnh cụ thể

Phần một gồm có sáu chương đề cập những vấn đề mối quan hệ giửa tri thức và tính khách quan,  phê b́nh lư thuyết công b́nh của Rawls, vai tṛ của định chế đối với con người, sự phản kháng trong xă hội và tính trung dung trong các phương cách lập luận.Trong phần này ông đưa ra định nghiă về công b́nh trong một hoàn cành cụ thể để t́m hiểu vấn đề.

Trước tiên, ông dựa trên một định nghiă công b́nh theo quan điểm luật Ấn Độ thời xưa để thảo luận.Công b́nh gồm có hai khiá cạnh chủ yếu cần phân biệt là nitinatya. Niti xét đoán về vai tṛ của các định chế và các thái dộ đúng đắn chung, trong khi natya là một khái niệm bao quát hơn để đánh giá về sự thực hiện công b́nh trong thực tế. Ân Độ đă biết tôn trọng natya hơn niti, và thuật ngử matsyanyaya là một lối diễn đạt bất công do cá lớn nuốt cá bé đă có đă có từ thời kỳ này.

Để thí dụ, Sen nêu lên trựng hợp Kautilya là quân sư của Chandragrupta, vị vua đầu tiên của Ấn Độ, cũng là nội tổ của vua Ashoka. Kautilya luôn đề cao vai tṛ định chế và những cấm đoán nghiêm minh để đạt đến công b́nh xă hội.Trong khi vua Ashoka của Ân Độ lại cho rằng giáo dục mới cải thiện thái độ của con ngựi, và quan trọng hơn là nghiêm cấm qua định chế và luật lệ. Thấm nhuần lời Phật dạy về ḷng khoan dung, vua Ashoka đề cao sự công b́nh giửa các tôn giáo. Ông cho rằng người nào chỉ biết tôn trọng tôn giáo ḿnh mà bất kính tôn giáo khác th́ thái độ này là bất kính với tôn giáo ḿnh. Cả hai khuynh hướng này bổ sung cho nhau trong hoàn cảnh của Ấn Độ lúc bấy giờ.

Để tránh chủ quan, cục bộ và  địa phương khi nhận chân giá trị công b́nh, Sen đề nghị nên sử dụng khái niệm „nhà quan sát độc lập“ của Adam Smith. Adam Smith cho rằng phải lấy quan điểm của đa số làm chuẩn và dựa trên các sự dị biệt về kinh nghiệm để phán đoán. Sự khác biệt giữa Ralws và Sen là Ralws theo quan niệm về định chế (trancendental institutionalism), trong khi Sen thiên về thực tế và theo khảo hướng đối chiếu (realization-focused comparison). Trong khi Rawls đề xuất về công b́nh bằng cách suy diễn dựa trên một định chế độc nhất và khô cứng, th́ Sen cho rằng con ngựi dầu có những vị thế khác nhau vẫn có thể theo đuổi mục tiêu riêng, nên không thể đưa tất cả vấn đề vào những khuôn mẩu đă định h́nh trước để trước để suy luận.Theo Rawls, công b́nh là khởi điểm để thiết lập định chế cho xă hội, nhưng Rawls đă đơn giản hoá tối đa một vấn đề cực kỳ phức tạp nhằm đem lại sự hài hoà của công b́nh và thái độ của con người.Theo Sen, điểm yếu của Ralws là giải thích vấn đề một chiều v́ định chế chỉ là một phần của vấn đề và cũng không đưa ra một phương thức kiểm chứng nào cho thấy thuyết công b́nh này sẽ đưa tới kết quả tốt hơn. Sen cho rằng phải kiểm nghiệm lâu dài những t́nh trạng xă hội phát sinh trong thực tế để có thể so sánh  những ǵ đă xảy ra rồi t́m những tiêu chuẩn công b́nh, thay v́ đề ra một lư thuyết chung. Ông thí dụ nếu đưa ba t́nh trạng X, Y và Z để xét về công b́nh, khi xác định đưọc X là tốt nhất th́ không nên tiếp tục so sánh giửa Y và Z. 

Thật ra, bất măn trước một bất công hay cần xác định một cứu cánh cho công b́nh là đề tài đă được Jean-Charles de Borda và Condorcet, hai nhà toán học người Pháp, nghiên cứu từ thế kỷ XVIII. Họ dùng phương thức toán học để t́m ra cách tính gộp lại các ưu tiên cá nhân, dựa vào cách so sánh do các cá nhân đưa ra, t́m ra các kết quả đối nghịch, rồi từ đó có thể t́m ra những kết quả chấp nhận đưọc gọi là những ưu tiên của đa số. Nghịch thuyết của Condorcet đă được nhà kinh tế học Kenneth Arrow triển khai thành định lư về sự bất khả. Đề nghị này có những khuyết điểm v́ theo kiểu định mẩu cũng không hề quan tâm đến những nhu cầu thực tế của từng nhóm khác biệt nhau trong xă hội. Nạn đói nghèo, thất học, bệnh tật, kỳ thị, quyền của nử giới đ̣i hỏi cần phải có những tiêu chuẩn về công b́nh khác nhau. Arrow thú nhận ngoài những thảo luận lư thuyết, thực tế cho thấy chưa có một mô h́nh chọn lưạ về công b́nh nào có thể thoả măn cho đa số và đựơc coi là thuần lư và dân chủ. Condorcet cũng đă thấy điểm khó khăn chủ yếu khi xét đoán công b́nh là thiếu thông tin. Ông nhấn mạnh vai tṛ giáo dục nử giới và những cuộc thảo luận công khai.

Đồng quan điểm với Condorcet, Sen cho rằng hiện nay các triết thuyết về công b́nh chỉ dựa trên sư phân loại trong một hệ thống nào đó rồi so sánh nên bất b́nh xảy ra là chuyện đương nhiên. Quan điểm bất toàn và cục bộ cố hữu này chính là khởi điểm để Sen t́m ra một giải pháp toàn bộ cho vấn đề công b́nh, mà theo Sen, thông tin và thảo luận công khai là phương tiện để giải quyết. Nhưng lập luận như thế nào đó là chủ đề mà ông đề cập trong phần hai.   

 

3. Những h́nh thức lập luận

Phần hai gồm có bốn chuơng nhằm giới thiệu những h́nh thức lập luận cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể để đạt đươc công b́nh. Thực ra, ông đă dùng giáo lư vị tha và tương thuộc của Phật giáo để phê b́nh các thuyết duy lư và duy lợi của phương Tây.

Theo ông, trong thời đại toàn cầu hoá th́ quan điểm về một nhà quan sát độc lập của Adam Smith càng cần hơn bao giờ hết, v́ nó giúp ta tránh được tinh thần cục bộ, địa phương, chạy theo tư lợi mà quên ḿnh đang sống trong một thế giới đại đồng. Sen cho rằng thuyết duy lư và duy lợi đă đưa con ngựi đến những thái độ cực đoan trong lúc chọn lưạ: người tiêu thụ ch́ muốn mua hàng tốt nhất mà giá lại rẻ nhất, nhà sản xuất muốn tạo ra sản phẩm ít vốn nhất mà bán lời nhiều nhất và doanh nghiệp t́m cách tăng thu doanh lợi bằng cách bớt đi phức lợi của công nhân. Thái độ duy lợi tối đa phản ảnh một sự giới hạn của lư trí trong lập luận, v́ không chú ư tới những lập luận khác cũng như những lối chọn lựa khác có thể hợp lư hay công b́nh hơn mà thiện cảm và vị tha là điều kiện thiết yếu để ta quan tâm đến tha nhân và đóng góp hữu ích cho xă hội.

Ông phân biệt có hai mối quan hệ: trong mối quan hệ tương thuộc cá nhân th́ vấn đề đối xử sao cho công b́nh tưong đối dể giải quyết, nhưng khi đặt vấn đề này trong tinh thần trách nhiệm th́ chuyện bất công có thể xảy ra, nhất là khi trách nhiệm đi kèm với quyền lực. Vấn đề càng rỏ nét hơn khi đặt mối quan hệ bất cân xứng giửa con ngựi với thú vật, v́ chúng ta luôn tự hào thông minh và trách nhiệm nhiều hơn so với thú vật, từ đó mà chúng ta có lư do để  đối xử bất công không những đối với thú vật mà c̣n với đồng chủng yếu kém hơn. Trong mối quan hệ xă hội hiện nay có quá nhiều bất công, mà chủ yếu bắt nguồn từ việc lạm quyền. Ông dùng lời Phật dạy trong kinh Sutta Nipata và các tác giả phương Tây để soi sáng vấn đề nhân quyền. Ông nhấn mạnh đến bổn phận của cá nhân trong việc để giảm bớt bất công,

nhưng xác định khả năng để hành động đó là chủ đề mà ông thảo luận trong phần ba.

 

4. Lượng giá khà năng hành động

Phần ba có bốn chương đào sâu các vấn đề tự do, hạnh phúc, công b́nh và đánh giá khả năng để thực thi công b́nh.

Ông phê b́nh các lư thuyết về phát triển kinh tế trước đây khi quá đề cao vai tṛ các chỉ số về gia tăng tổng sản lượng quốc dân và lợi tức tính theo đầu ngựi, cách này không những không diễn đạt được thực trạng xă hội mà c̣n lầm lẩn giữa mục tiêu và phương tiện. Theo ông, đă đến lúc chúng ta phải thay đổi khái niệm phúc lợi xă hội mà các chỉ số khác quan trọng và  trực tiếp ảnh hưởng hơn là phẩm chất cuộc sống, phúc lợi chung và tự do cá nhân. Tuy nhiên, ông cảnh báo không nên quá nghiêng về thuyết duy lợi cá nhân của Jeremy Bentham, v́ chỉ lấy mức hưởng thụ tối đa của cá nhân làm thước đo hạnh phúc chung xă hội, trong khi đó khà năng chuyên môn, mức thu nhập lợi tức, nhất là sự may mắn của từng cá nhân vẫn c̣n quá dị biệt nhau trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Theo Sen, điều quan trọng trong việc đạt đến công b́nh làm thế nào để xoá bỏ mọi chướng  ngại cho cá nhân trong việc thực hiện tự do để mưu cầu hạnh phúc. Lượng giá khả năng không chỉ là mơ mộng và chờ đợi mà t́m những tiêu chuẩn hành động cụ thể trong môi trường riêng biệt, nhất là dám chọn những lối sống khác biệt, để từ đó t́m may mắn của đời ḿnh, có thể là công danh, tiền tài hay địa vị xă hôi. Dĩ nhiên, nổ lực tối đa của cá nhân trong thể hiện tự do là điều chủ yếu, nhưng môi trường xă hội phù hợp cũng góp phần cho sự thành đạt. Khi phân tích khả năng của từng cá nhân, ông so sánh đến những vấn đề nổi bật trong một vài nhóm ngựi bị phân biệt đối xử, thí dụ như người khuyết tật hay phụ nử tại các xă hội c̣n theo chế độ phụ quyền.

Ộng sử dụng khái niệm agency để diễn đạt khà năng và tư cách hành động để chuyển hoá tự do của từng cá nhân, khái niệm này không thể dịch chính xác trong tiếng Việt mà phải hiểu trong ngữ cảnh mà Sen lập luận. Thực ra, ông phê b́nh các lư thuyết về kinh tế phúc lợi trước đây đă không quan tâm đến khả năng hành động và những nổ lực nhằm thoát ra những nghịch cảnh, thí dụ như công nhân bị bóc lộc trong xă hội tư bản, nông dân trong xă hội nông nghiệp và gia nhân trong xă hội phong kiến. Vấn đề là làm sao để họ hưởng công b́nh hơn và có một đời sống đáng sống hơn, nhưng khi họ an tâm chiụ đựng và cố thích nghi với nghịch cảnh th́ bất công sẽ kéo dài.

Ông dùng agency để phân tích hai mối quan hệ. Một là mối quan hệ giữa khà năng hành động của từng cá nhân và phúc lợi chung, hai là mối quan hệ giữa tự do và kết quả thực hiện. Về mối quan hệ đầu tiên, ông cho rằng cần t́m hiểu mục tiêu cá nhân theo đuổi, dĩ nhiên mục tiêu này nhằm phản ảnh ước muốn cá nhân, có gắn liền với phúc lợi chung hay không. Về mối quan hệ giửa tự do hành động và kết quả đạt được đem so chiếu với phúc lợi chung và khà năng đạt đưọc mục tiêu riêng. Tổng hợp hai lối suy luận này chúng ta sẽ có bốn khái niệm khác biệt để có thể đánh giá đưọc toàn bộ vấn đề công b́nh 1) phúc lợi chung thu hoạch được, 2) phúc lợi riêng cho cá nhận qua hành động của riêng ḿnh, 3) tự do qua phúc lợi và 4) mức độ tự do trong hành động.

Phân tích của ông đưa đến những suy luận mới hơn và có lẽ quan trọng nhất là đề cao tự do cá nhân trong hành động. Đây là điểm mà các nhà hoạch định chính sách phải ưu tiên chú ư, v́ cá nhân không chỉ là người nhận phúc lợi xă hội, mà nên xem họ là một con người có ư thức trách nhiệm hành sử trong tự do và sẽ mang đến phúc lợi chung. Hơn thế nửa, hành động này c̣n góp phần việc mở rộng dân chủ. Đó là đề tá mà ông dẩn chứng ở phần bốn.           

 

5. Biện luận công khai là thực thi dân chủ

Phần bốn gồm có bốn chương bàn về các vấn đề thực thi dân chủ, nhân quyền và  công b́nh trên toàn thế giới. Ông cho rằng lập luận công khai sẽ là điều kiện thực hiện công b́nh và dân chủ. 

Sen định nghiă rất đơn giản về dân chủ. Dân chủ, theo ông, không ǵ khác hơn là thực tập việc lâp luận và phản biện công khai trong mọi sinh hoạt xă hội. Chính những cuộc thảo luận các vấn đề chung một cách công khai th́ các tiếng nói, dù cô thế hay dị biệt, đều được quan tâm và phân tích, có như thế th́ xă hội sẽ dễ đạt đến công b́nh hơn. Nhưng thực thi các quyền dân sự và chính trị của ngựi dân rất cần đến báo chí. Chính một nền báo chí độc lập và tự do sẽ hổ trợ thiết thực cho việc thực thi dân chủ, v́ báo chí không những đóng góp thuần túy trong vai tṛ thông tin mà c̣n là phương tiện tranh đấu cho ngựi cô thế và hướng dẫn dư luận. Ông dẫn chứng nạn đói không hề xảy ra trong một nước dân chủ nào trên thế giới, mà chỉ có ở các nưóc bị ngoại thuộc, mà nạn đói Bangal, Ấn Độ năm 1943 là một thí dụ điển h́nh, nguyên nhân là báo chí Anh và Ấn độ đều im tiếng. Nhiều nạn đói khác tại như Liên Xô, Trung Quốc, Cambodia, Ethopia, Somalia và Bắc Hàn, mà bưng bít thông tin là lư do giải thích.

Sen cho rằng chính thảo luận công khai các dị biệt giúp chúng ta t́m hiểu và thông cảm nhau nhiều hơn trước những vấn đề phức tạp như tôn giáo, chủng tộc hay bản sắc. Đây là một điều kiện giúp chúng ta có cơ hội đạt được đồng thuận, khoan dung, nhân ái, và nhất là giảm đi mọi đạo đức giả mang danh tôn giáo, mà Ấn Độ có nhiều kinh nghiệm này. Những cuộc thảo luận của dân chúng tại thành Athens Hy Lạp thời xưa về các vấn đề công cộng là một thí dụ lư tưởng. Theo Sen, từ xa xưa thảo luận công khai là một đặc điểm tại các nưóc Á Đông. Truyền thống tốt đẹp trong các cuộc hội luận của  Phật giáo ngay sau khi Đức Phật nhập niết bàn là những bài học về dân chủ. Trong ba cuộc họp tại Rajagriha, Vaisali và Patna để thảo luận về việc kết tập kinh điển, Phật giáo đă chứng tỏ tinh thần thảo luận công khai, khoan dung và tôn trọng dị biệt giửa các tăng đoàn, đây là một điểm son trong quá khứ. Một thí dụ khác của Nhật Bản cũng chứng minh tương tự. Năm 604 sau Công nguyên, Thái tử Shotoku, một Phật tử thuần thành, khi nhiếp chính đă soạn thảo hiến pháp với 17 điều khoản, cũng đề cao tinh thần thảo luận. Ông viết trong điều 7 của hiến pháp là „Mọi quyết định quan trọng không được phép do một người tạo ra, mà cần có sự thảo luận của nhiều người. Đừng bất b́nh khi người khác bất đồng quan điểm với ḿnh. Mổi người đều có một tấm ḷng, mà mổi tấm ḷng đều có những lư lẻ riêng. Nếu cái đúng dành cho họ th́ cái sai là của chúng ta, và cái đúng dành cho ta th́ cái sai là của họ“. Các nhà luật học cho rằng hiến pháp của Nhật nhờ thấm nhuần giáo lư Phật giáo là bước đầu tiên để phát triển dân chủ.

 

6.  Nhận xét

Tác phẩm của Sen là một công tŕnh không những có giá trị về mặt tư tưởng mà c̣n là một phương châm hành động và đem lại nhiều thú vị cho nhiều giới khác nhau.

Đối với độc giả chưa đọc Sen bao giờ th́ đây là một cơ hội hiểu rỏ tư tưởng cơ bản của Sen đă tŕnh bày trước đây, thí dụ như nạn đói tại các quốc gia không có tự do, phê b́nh các lư thuyết cổ điển về phát triển kinh tế và đề cao vai tṛ của thị trựng và báo chí cho các nước chậm tiến. Đối với người đă đọc Sen rồi, th́ đây là một công tŕnh bổ sung, nhất là ông đi sâu vào việc phê b́nh thuyết công b́nh của Ralws.

Đối với đọc giả phương Tây đang được sống trong môi trường tự do, quen thuộc với tinh thần duy lư và văn hóa tranh luận th́ điều mới lạ mà Sen mang lại là giáo lư Phật giáo và triết học Ấn Độ. Khi hiểu được tinh thần vị tha trong một thế giới tương thuộc, nhất là các mối quan hệ đến thú vật, tha nhân và môi trựng sống, họ có cơ hội để xét lại về khái niệm công b́nh và cảm thấy trách nhiệm hơn là tiếp tục theo đuổi duy lư và duy lợi.

Nhưng quan trọng và đặc sắc nhất của Sen là đưa ra một chương tŕnh hành động cho người đọc đang sống trong các chế độ độc tài. Những luận điểm chính của Sen là:

- kinh tế thi trường là phương cách tốt nhất để phát triển kinh tế   

- tự do báo chí là nền tảng để thực thi dân chủ

- chấp nhận tranh luận công khai các dị biệt để thuyết phục và đồng thuận là phương tiện để đạt được công b́nh xă hội.

Sen thú nhận đây là một tham vọng khó thực hiện trên toàn thế giới. Người Việt có thể thất vọng v́ Sen không đề cập đến tinh thần dân chủ của hội nghị Diên Hồng và nạn đói năm Ất Dậu trong lịch sử Việt Nam cũng như t́nh trạng báo chí và nhân quyền ở Việt Nam hiện tại, nhưng hy vọng phương cách của Sen là nguồn cảm hứng bố ích và trở thành một thông điệp thời đại giúp cho những người đang tha thiết muốn đóng góp cho Việt Nam hôm nay và mai sau được công b́nh và dân chủ hơn.

 

The Idea of Justice, Amartya Sen, ISBN: 978-0-141-03785-1, Penguin Books, 2010.


<<trở về đầu trang>>
free counters