|
(PHẦN II)
Nguyễn Quư Đại
Phan Châu Trinh công khai hoạt động làm cho người Pháp rất lo ngại. Louis Bonhoure toàn quyền Đông Dương nhận xét: “Phan Châu Trinh không tỏ ra bạo động như Phan Bội Châu nhưng nguy hiểm hơn cho sự thống trị của người Pháp tại Việt Nam”.
V́ xảy ra vụ chống thuế bùng nổ tại Quảng Nam, Công sứ Lévecque yêu cầu thống sứ Bắc kỳ Joseph de Mirabel bắt Phan Châu Trinh ngày 10.04.1908 tại Hà nội giải về Huế giam ở toà Khâm sứ, (khu vực trường Đại học Sư Phạm trước 1975). Người Pháp bề ngoài văn minh nhưng chẳng hơn ǵ triều đ́nh Huế về những điều hủ bại. Phan Châu Trinh phản đối chính phủ Pháp kiệt thực 7 ngày, Khâm sứ Lévecque là con cáo già thực dân, muốn ném đá dấu tay, trả cụ cho Cơ Mật Viện để toà An Nam xét xử, nếu xét theo luật Gia Long điều 223 tội nhân bị ghép làm loạn xách động bị xử trảm. Các quan lại Nam triều vốn thù ghét Phan Châu Trinh đă phê phán chế độ quân chủ làm tay sai, Nam triều lấy cơ hội nầy lên án tử h́nh, nhưng ở Hà Nội cụ Phan chơi thân Babut Ernest Chủ nhiệm tờ Đại Việt Tân Báo và có chân trong Hội Nhân Quyền Ligue des Droits de L’ Homme. Được Babut Ernest tận tâm can thiệp lên thẳng phủ Toàn quyền xin tái thẩm vụ án, yêu cầu chính phủ Pháp can thiệp giảm án. Tóa án An Nam không thể thi hành án tử h́nh đổi lại án chung thân khổ sai đày ra Côn đảo Cụ Phan phẩn nộ trước bản án và nói: “ “ “Một dân tộc nào có người tù về quốc sự như thế th́ dân tộc ấy càng thêm vẽ vang .Một dân tộc không có người ở tù về quốc sự th́ cái dân tộc ấy là khối dân tộc vô hồn thôi“(12).
Ngày 04. 4.1908 cụ Phan bị đày ra Côn đảo ứng khẩu bài thơ
Ra cửa thành nam mang xiềng rột rạt
C̣n lưỡi này ta hát ta ca
Dân hèn nước cũng tiêu ma
Chi c̣n chả sợ nữa là Côn lôn
Những năm tù Côn đảo, cụ Phan cảm xúc cho thân phận, man mát ḷng cố quốc làm thơ cho quên nỗi sầu xa xứ. Trong lúc dân tộc sống khổ đau dưới gót giày đinh của thực dân Pháp dẫm nát Quê Hương
Làm trai đứng giữa đất Côn lôn
Lừng lẫy làm cho lỡ núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm ḥn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan nào sá sự con con.
(Đi đập đá)
Cụ bị đày ra Côn đảo được báo chí Hội Nhân Quyền thân oan và vận động được tự do, chính phủ bảo hộ nhận thấy dư luận trong cũng như ngoài nước, muốn ngăn ngừa bớt phẩn nộ của sĩ phu Việt Nam. Chính phủ cử Thống đốc Nam Việt ra Côn đảo thẩm vấn cụ Phan cho về lại Mỹ Tho. Thủ tướng Pháp ông Poincaré kư lệnh tha, quan Toàn quyền Đông Pháp ông Klobukowsky (1908-1911) Tổng trưởng bộ thuộc điạ Trouillot cùng các quan khác tại Sàig̣n xét án và ân xá. Tuyên báo trả tự do nhưng cụ bị quản thúc, Cụ nhất định không chịu phản đối đến cùng. Chính phủ Pháp nhượng bộ cho tự do hoàn toàn. Ở Mỹ Tho thời gian thấy tinh thần đồng bào ở Nam Việt lụn bại hơn đồng bào ngoài miền Trung và Bắc. Cụ phải ngậm ngùi cho tŕnh trạng dân tộc bị đô hộ, các bạn thân chiến hữu của cụ Phan phần lớn bị, bắt đày ra Côn đảo. Thực dân Pháp theo dơi đàn áp khắp nơi, rất khó có thể hoạt động. Cụ Phan thoát được cảnh tù đày nhờ nhà báo Babut và Hội Nhân quyền can thiệp.
Phan Châu Trinh cùng với người con trai làm đơn xin nhập cảnh Pháp. Toàn quyền Klobukowdky cho phép, nghĩ cụ là ông quan già không biết Pháp ngữ, có đến Paris cũng chẳng làm được ǵ bất lợi cho chính sách thuộc địa của Pháp. Nhưng Phan Châu Trinh tin tưởng đến Pháp có thể vận động rộng răi với chính khách Pháp văn minh tiến bộ, đ̣i hỏi chính phủ Pháp thay đổi chính sách thuộc địa tại Việt Nam và Đông Dương, kêu gọi Pháp trả tự do cho các tù nhân chính trị Việt Nam.
Xuất ngoại lần thứ 2
Năm 1911 Phan Châu Trinh theo Toàn quyền Klobukowsky sang Pháp, cụ biết trước các sĩ phu Việt Nam yêu nước xúc động mạnh với tin cuộc cách mạng Tân Hợi 19.08.1911, Trung Hoa lật đổ được chính thể chuyên chế, bước sang chế độ Dân chủ, tại Việt Nam các sĩ phu yêu nước sẽ tiếp tục nổi dậy chống Pháp dành độc lập, không tránh được cảnh chiến tranh, gây thêm khổ đau, vốn cụ chủ trương Pháp-Việt đề huề xem như nền tảng tư tưởng dân chủ xây dựng Việt Nam. Sử sách thế giới ca tụng Mohandas Karamchand Gandhi (1867-1948) đấu tranh bất bạo động với người Anh dành độc lập cho Ấn Độ, nhưng nước Việt Nam nhỏ bé thời ấy chí sĩ Phan Châu Trinh, đấu tranh dành độc lập với thực dân Pháp bất bạo động trước Gandhi. Chủ trương của Cụ Phan: «không nên trông người ngoài trông người ngoài là ngu, không nên bạo động, bạo động là chết. Tôi chỉ có một lời để nói với đồng bào, không ǵ bằng học...vv Chỉ nên đề xướng dân quyền, dân đă biết có quyền th́ việc khác có thể làm» (13)
Cựu Hoàng Duy Tân |
Tàu đến cảng Marseille, cụ Phan và con trai được đón lên tàu lửa về Paris, ở trọ trên đường Gay Lussac, sau về số 32 Vouillé quận 15. Cụ tiếp xúc với Messimy, Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa và Albert Sarraut sắp sang làmToàn quyền tại Đông Dương. Ông Jules Roux đại úy từng làm việc tại Ṭa án binh ở Bắc Bộ từ năm 1904-1909, rất ngưởng mộ cụ Phan đến tiếp xúc giúp đỡ và dịch các thư sang Pháp văn, gởi cho Bộ Thuộc Địa Pháp và ông Phan Văn Trường (1875-1933), nhỏ hơn cụ Phan 3 tuổi lúc ở Hà Nội làm việc cho ṭa Khâm sứ Bắc Kỳ. Cuối năm 1908 được tuyển sang Paris làm phụ giảng tiếng Việt ở trường Ngôn Ngữ Phương Đông và tiếp tục học đỗ cử nhân luật, có quốc tịch Pháp. Từ năm 1910 ông thuê nhà số 6 Villa des Gobelins. Nơi đây như trụ sở của người Việt yêu nước, cụ Phan cùng đến ở chung thời gian dài, Việt kiều, sinh viên sống tại Paris lúc bấy giờ khoảng hơn 100 người(14)
Cụ Phan và Phan Văn Trường trở thành cột trụ của phong trào Việt Kiều tại Pháp, Phan Châu Trinh viết các bản điều trần gởi cho chính phủ Pháp, nêu lư do Việt Nam được Pháp bảo hộ, nhưng không có tự do, công dân Việt Nam yêu nước chỉ trích chính sách cai trị, đều bị kết án tử h́nh và bỏ tù, vv.. cụ viết „Trung Kỳ Dân Biến Thỉ Mạt Kư“, Jules Roux dịch sang Pháp văn. Tài liệu nầy binh vực, kêu oan cho Trần Quư Cáp và nỗi oan ức của người Việt bi áp bức gây dư luận tại Paris (gởi kèm đến Albert Sarraut chuẩn bị sang làm toàn quyền tại Đông Dương) gởi thư phản đối chính sách đô hộ tại Việt Nam. Khâm sứ Mahé muốn đào lăng vua Tự Đức (1913) t́m vàng, cụ viết báo phản đối việc làm thiếu đạo đức, đi diễn thuyết trong tập thể Kiều bào, kêu gọi ḷng yêu nước hướng về Quê hương và thường tiếp xúc với người Pháp có ḷng nhân đạo, bác ái bày tỏ nỗi ḷng và chỉ trích chính sách cai trị tàn ác của Pháp ở Đông Dương của Sarraut: «Cách cai trị rộng răi bên An Nam của ông ấy thế nào?. Nói những sự cải cách giả dối, như viện tư vấn, pháp luật, học hành, sự đầu độc dân ta bằng rượu, bằng thuốc phiện, và sự đoạt quyền tự do của nhân dân ta...“
Vua Khải Định |
Tháng 9.1914 chiến tranh Đức Pháp bùng nổ. Đức tổng tấn công mặt trận La Somme, vua Duy Tân (Vĩnh San) nổi dậy chống Pháp ngày 6.5.1916 thất bại bị truất phế đày sang đảo Réunion... Pháp t́nh nghi Việt Kiều có tinh thần chống Pháp liên hệ với Đức, Phan Văn Tường bị giam ở lao Cherchemidi và Phan Châu Trinh bị giam ngục Santé (Prison de la Santé) Bên quê nhà người vợ hiền bị bệnh qua đời ngày 12.5.1914. Cuộc đời của bà đă hy sinh lo gia đ́nh để chồng hoạt động cách mạng.(chúng ta cần phải vinh danh người đàn bà lư tưởng nầy!). Hai người con gái: Phan Thị Châu Liên (tức cô Đậu 1901- ?) chồng là ông đốc học Lê Ấm (1897-1976) ông bà Lê Ấm ở nhà thờ cụ Phan gần ngă năm Hoàng Diệu Đà Nẵng Ông bà Lê Ấm có con trai Lê Khâm (1930-1995) tập kết ra Bắc theo học Đại học tổng hợp Hà nội là một nhà văn đă qua đời) và người con gái là Lê Thị Minh. Phan Thị Châu Lan (tức cô Mè 1904 -1944) chồng là ông Nguyễn Đồng Hợi làm tham tá công chánh (Agent technique) là thân sinh của bà Nguyễn Thị B́nh (các cháu không theo thuyết Dân Quyền của ông ngoại, ngược lại theo cộng sản Marxismus).
Các ông Marius Moutet, Jules Roux bênh vực, căi với viên đại lư Ṭa án binh Đệ nhất tại Paris đến tháng 7-1915 chính phủ Poincaré trả tự do cho cụ Phan. Các quan Bộ Thuộc Điạ coi về Đông Pháp, cắt tiền phụ cấp 450 quan gây đời sống cụ càng khó khăn hơn. Cụ học nghề rưả h́nh mỗi ngày được 30 quan nuôi con trai là Phan Châu Dật học trung học, dù hoàn cảnh khó khăn không muốn lệ thuộc đồng tiền mua chuộc, cụ sống với lư tưởng cao đẹp : „ phú qúy không tham lam, nghèo khổ không thay đổi ḷng dạ, sức mạnh không khuất phục“.(15)
Năm 1917 Phan Châu Trinh bị bệnh nặng điều trị lâu, Phan Châu Dật (1897-1921) không muốn nhận giúp đỡ của gia đ́nh ông Roux, t́m việc đưa hàng ở hăng Au Bon Marché để nuôi cha. V́ vất vả và thiếu thốn bị nhiểm bệnh, anh phải bỏ học về nước ngày 27.09.1919 và qua đời tại Huế 14.02.1921 thi hài được đem về mai táng cạnh mộ Mẹ tại Tây Lộc.
Vào khoảng cuối năm 1916 sang đầu năm 1917 Nguyễn Ái Quốc đến Paris được Phan Châu Trinh giúp đỡ. Nguyễn Ái Quốc viết: ” Cụ Phan đă giúp ḿnh rất nhiều, thực sự là người đỡ đầu cho ḿnh trong một thời gian khi ḿnh ở Paris”(16). Năm 1920 tư tưởng hoạt động Nguyễn Ái Quốc khác Phan Châu Trinh, ông ta theo chủ nghĩa cộng sản quốc tế, tham dự đại hội Tours và sang Liên Xô năm 1923? nếu Nguyễn Ái Quốc tiếp tục theo đường lối hoạt động của Phan Châu Trinh th́ lịch sử Việt Nam đă thay đổi
Pháp tổ chức cuộc triển lăm quốc tế tại Marseille năm 1922 vua Khải Định (1916-1925) sang tham dự, lối phục sức cho đến việc tiếp xúc ngoại giao những điều chướng tai gai mắt. Cụ viết bằng chữ Hán gởi đến vua Khải Định “Kư Khải Định Hoàng Đế Thư “ ngày 15-7-1922 kể bảy tội là “ tôn bậy quân quyền, lạm hành thưởng phạt, thích chuộng sự qùy lạy, xa xỉ qúa độ, ăn bận không phải lối, tội chơi bời, chuyến đi có ám muội “.
dịch ra Việt ngữ và Pháp văn đăng trên báo chí gây dư luận xôn xao tại Pháp, vua Khải Định nhận thư về nước thời gian ngắn băng hà.
Phan Châu Trinh ở Paris 14 năm, gây ảnh hưởng ḷng yêu nước sâu rộng trong giới Việt Kiều và sinh viên, người Pháp kính nể xem cụ Phan là chính trị gia, đại diện cho người Việt tại thủ đô Paris và các nhà cách mạng Việt Nam: “ Ông vừa thể hiện tính kiên quyết, thẳng thắng, vừa biết thận trọng cân nhắc lời lẽ, thông minh nhạy bén trong hiểu và đoán ư người khác, có quan điểm đạo nghĩa sâu sắc, coi thường mặt vật chất kinh tế”.
Phan Châu Trinh về nước bị bệnh mất
Phan Châu Trinh xuống tàu Fontainebleau, ngày 29.5.1925 sau một tháng, cụ Phan và Nguyễn An Ninh về tới Sài G̣n 26-6-1925. Nguyễn An Ninh đưa Phan Châu Trinh về thẳng khách sạn Chiêu Nam Lầu(*). Cho đến 29-6-1925 được Nguyễn An Ninh đưa về nhà cha của ông, là cụ Nguyễn An Khương, ở Mỹ Hoà để tiện việc tiếp đón bạn bè đến thăm hỏi, trao đổi công việc; đồng thời cũng để tiện cho cụ Nguyễn An Cư (Chú ruột của Nguyễn An Ninh, một lương y nổi tiếng ở Nam Kỳ) chăm sóc sức khoẻ cho Phan Châu Trinh đang thời kỳ suy yếu nhất. Thời gian ở Chiêu Nam Lầu và tại nhà cụ Nguyễn An Khương, Phan Châu Trinh tiếp xúc với các nhân vật như: Trần Quang Nghiêm, Nguyễn Kim Đính, Khánh Kư, Lâm Hiệp Châu, De Jean de la Bâtre, Paul Monin, Malraux... Trong các cuộc tiếp xúc nầy, cụ Phan bày tỏ tâm t́nh:”Một khi đă trở lại sống trên quê hương xứ sở, tôi nguyện đem hết nghị lực b́nh sinh mà thức tỉnh dân khí ba miền đồng tâm, hiệp lực đạp đổ cường quyền áp chế”.
Chính v́ tâm quyết phụng sự cho dân quyền, nên dù sức khỏe c̣n yếu, cụ Phan cùng Nguyễn An Ninh (với vợ chồng người con gái là ông bà Lê Ấm) đi xuống các tỉnh Trà Vinh, Mỹ Tho... để vận động tài chánh cho việc tái bản tờ "La Cloche Fêlée". Nhờ vậy, ngày 26-11-1925, báo "La Cloche Fêlée" số 20 được tái bản. Thời gian bị bệnh nhưng cụ cố gắng diễn thuyết thêm hai đề tài
- Đạo đức và luân lư đông tây
- Quân trị chủ nghiă và dân trị chủ nghiă
Bài diễn văn cuối cùng Phan Châu Trinh nói chuyện tại Hội Thanh Niên Sàig̣n “Tôi nghĩ rằng v́ cái độc quân chủ nó giết hẳn cái ḷng ái quốc của dân tộc Việt Nam ta.. Nói theo đạo Nho đó kỳ thật không có thi hành một chút đạo Nho nào, chỉ c̣n sót lại một hai điều trong gia đ́nh mà thôi. kỳ dư là những điều mấy ông Vua chuyên chế đựa vào đạo Nho để đè nén dân”.
Về Đạo Đức và Luân Lư Đông Tây
“Xem như thế th́ xưa nay nước ta không có quốc gia luân lư, chỉ có một cái luật via tôi bắt buộc dân phải theo vua với dân không có luân lư ǵ dính nhau, chẳng qua vua và tôi tớ của vua hiệp lại với nhau lấy sức mạnh để đè lên dân mà thôi .. Nay muốn một ngày kia nước Việt nam được tự do độc lập th́ trước hết dân Việt nam phải đoàn kết“.
Các bài diễn thuyết của cụ Phan gây ảnh hưởng sâu xa đến thế hệ trẻ văn minh tại Sàig̣n, tiêu biểu trong đó có nhà cách mạng Tạ Thu Thâu (1906-1945) Trong thời gian trở về Sài g̣n cụ bị bệnh được cả gia đ́nh nhà cách mạng Nguyễn An Ninh (1900-1943) lo giúp đỡ thuốc men, tiếp đón thân nhân và khách đến thăm và cho đến những ngày cuối cùng. T́nh thần gia đ́nh Nguyễn An Ninh thật đáng quư lưu danh cho hậu thế, nhưng thương tiếc thay. Phan Châu Trinh đang thoi thóp trên giường bệnh lại hay tin Nguyễn An Ninh đă bị bọn mật thám Pháp bắt tại nhà. Vào lúc 11 giờ 30 trưa 24-3-1926. Phan Châu Trinh trút hơi thở cuối cùng vào lúc 21 giờ 30 tối 24.3.1926) tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại nhà số 54 đường Pellerin, nhà của ông Huỳnh Đ́nh Điển (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai tức đường Pasteur trước 30-4-1975)
Ủy Ban tổ chức lễ quốc táng nhà yêu nước Phan Châu Trinh đă được h́nh thành ngay trong đêm 24-3-1926. Những thành viên của ủy ban tổ chức tang lễ nhà chí sĩ Phan Châu Trinh gồm nhiều nhân sĩ, trí thức. tang lễ được đại diện thân hào nhân sĩ Sài G̣n tổ chức cử hành theo nghi thức quốc tang. Hai người con gái đă có mặt bên linh cữu của cha, tại Sài G̣n không phân biệt chính trị, đảng phái, tôn giáo đều tham dự, đưa linh cữu cụ Phan đến nơi an nghỉ cuối cùng lúc 6 giờ sáng 4.4.1926 tại nghiă trang của hội G̣ Công tương tế. Hàng ngàn câu đối, trướng, la liệt bàn phúng điếu các Sư chùa Nam Sơn tỉnh Sóc trăng gởi mấy câu đối.
Tiên sinh thật là vị cao tăng trong giác thế, gồm đủ từ bi và trí huệ
Người đời sau ngưỡng trông ṭa pháp Cộng Ḥa, biết bao nhiêu công đức như cát sông Hồng Hà
Hai mươi năm trống sớm chuông chiều, khua tỉnh ái hà con ma chuyên chế, nh́n muôn dặm mưa ḍn gió dập, kêu gọi người ngủ mê trong biển trần
Phan Bội Châu đang được an trí ở Huế thay mặt cho đồng bào Huế gởi 2 câu đối
Thương hải vi điền, Tinh vệ hàm thạch
Chung Kỳ kư một, Bá Nha đoạn huyền(17)
Huỳnh Thúc Kháng thay mặt cho anh em Trung-Việt đă đọc một bài điếu văn mang ư nghĩa lịch sử rơ nét nhất về quan điểm chính trị
„Một đoạn lịch sử của tiên sinh hơn hai mươi năm trời, nào bị tù đày, ở nước này sang nước khác, trải bao nhiêu phen nguy hiểm, trong giây phút này không thể lược thuật lại cho được; chúng tôi xin tóm tắt lại mà nói sơ: Chủ nghĩa tiên sinh đệ nhất là đánh đổ chuyên chế, làm cho dân quyền tự do, c̣n cái phương pháp tiến hành th́ tiên sinh thường nói rằng
-T́nh h́nh trong nước ta bây giờ đang vào nguy ngập, nếu muốn cải cách th́ cần liên lạc đoàn thể mới được. Tiếc cho người nước ḿnh c̣n đang mê mộng, đồng chí với tiên sinh chẳng được mấy người . V́ vậy mà tấm ḷng bị phân hóa ra uất ức, uất ức hóa nên đại bệnh huống ǵ những điều mắt thấy tai nghe dể làm cho tiên sinh cảm xúc mà đau được, chết được, thương ôi!
-Thôi, đất vàng một nắm, giấc mộng ngàn thu, sự nghiệp anh hùng, ngày nay hết cuộc. Chúng tôi chỉ mong mai sau này những người kế chí tiên sinh, làm cho vẻ vang dân tộc Việt Nam ta. Th́ linh hồn tiên sinh sẽ được yên ổn mà ngậm cười nơi suối vàng
Phan Châu Trinh tranh đấu bất bạo động với chủ thuyết Dân Quyền, Phong Trào Duy Tân làm thay đổi lịch sử Việt Nam dưới thời thuộc điạ, từ đó người Pháp phải thay đổi chính sách cai trị. Phan Châu Trinh một v́ sao sáng trên ṿm trời Việt Nam của đầu Thế kỷ 20.
-Chủ trương chính trị của Phan Châu Trinh có thể được xem là nền tảng của hệ tư tưởng dân chủ Việt nam ngày nay. Trước Phan Châu Trinh, tại Việt nam chưa có ai nghĩ đến dân chủ, dân quyền..Chẳng những Phan Châu Trinh là người đầu tiên thổi một luồng gió mới vào chính trường Việt nam, Ông cũng là người Việt nam đầu tiên gây được uy tín lớn lao với chính trường nước Pháp là nước đang đô hộ Việt Nam.(18).
Phan Châu Trinh sống phục vụ đất nước, cống hiến cuộc đời cho tổ quốc Việt Nam. Cụ mất để lại tấm gương sáng cho nhiều thế hệ noi theo. Dân Quyền và Nhân Quyền là giấc mơ của toàn dân Việt nam cuộc đời Phan Châu Trinh gắn bó với công cuộc cách mạng để khai trí dân tộc, để lại những tác phẩn văn chương
Đầu Pháp chính phủ thư (1906)
Hợp quần doanh sinh thuyết quốc am tự (1907)
Tỉnh quốc hồn ca I & II (1907)
Tuồng Trưng nữ Vương soạn chung với Hùynh thúc Kháng,Phan thúc Duyện (1910)
Trong thời gian sống ở Paris và về nước viết các tác phẩm
Trung kỳ dân biến thỉ mạt kư (1911)
Giai nhân kỳ ngộ (1913-1915)
Tây Hồ và Santé thi tập ! (1914-1915)
Khải Định Hoàng Đế thư (1922)
Bức thư trả lời cho người học tṛ tên Đông (1925)
Đông Dương Chính trị luận (1925)
Xin mượn lời sau, để kết thúc bài viết kỷ niệm ngày giỗ thứ 85 của cụ Phan, Phan Châu Trinh là «một nhà yêu nước nồng nhiệt, một nhà dân chủ nồng nhiệt, một con người có con tim và t́nh cảm vĩ đại… » (Jules Roux nhà trí thức PCT. kỷ yếu Hội Nhân quyền số 9 Paris 1926, Nguyễn Quyết Thắng dịch)
Nguyễn Quư Đại
12/ Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân
13/ Lam Giang trang 211
14/ Những hoạt động của Phan Châu Trinh Ts Thu Trang
15/ Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân trang 172
16/ Những hoạt động của Phan Châu Trinh Ts Thu Trang trang 125
17/ Phan Chu Trinh Thế Nguyên
18/ Quảng Nam trong lịch sử tác giả Trần Gia Phụng
Tài liệu tham khảo
Quảng Nam trong lịch sử tác giả Trần Gia Phụng Nxb Non Nước Toronto 2000
Phan Châu Trinh (1872 - 1926) Tác giả Thế Nguyên tủ sách Tân Việt
Phong Trào Duy Tân tác giả Nguyễn Văn Xuân Nxb Lá Bối
Thành Thái người điên thế kỷ tác giả Thái Vũ Nxb Văn Học
Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925 Tác giả Thu Trang Nxb Văn Học
Từ Hi Thái Hậu cuốn 2 tác giả Mộng B́nh Sơn Nxb Xuân Thu
Bộ Quân sử do bộ tổng tham QLVNCH mưu xuất bản
Quảng Nam đất nước và nhân vật 1 &2 Nguyễn Quyết Thắng
* Khách sạn Chiêu Nam Lầu do chính bà Nguyễn Thị Xuyên (bí danh Chiêu Nam Lầu) là cô quản, nhằm làm nơi liên lạc, đưa đón, học tập và an dưỡng các sĩ phu đương thời; c̣n là nơi đưa rước du ruột của Nguyễn An Ninh, cùng bà Nguyễn An Khương (mẹ của Nguyễn An Ninh) tổ chức và cai học sinh sang Nhật trong phong trào Đông Du. Địa điểm khách sạn tại số 49 Nguyễn Huệ ngày naỵ
<<trở về đầu trang>>