Fax: +493046795841 Email: thongtinberlin@gmail.com Tel. +4917678132650
www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de

Huy Cận – Lửa vẫn c̣n thiêng

 

Trần Mạnh Hảo

 

Cù Huy Cận lửa thiêng đâu

Huy hoàng xưa mộng lá sầu tử tôn

Hà hơi thế sự vô hồn

Vũ đài ngất ngất biển cồn tang thương

 

T.M.H.

         

         

Từ độ Nguyễn Du lục bát hóa đời Kiều để ngự trên ngôi báu thi ca, chừng như long mạch thơ nước Việt đă mấy lần rót về Hà Tĩnh, khơi nguồn cho những ḍng thơ lớn khác xuất hiện : Nguyễn Công Trứ, Xuân Diệu và Huy Cận. Sau tám năm từ độ ra đời, Thơ Mới (1932-1945) đang cuồn cuộn chảy như một ḍng sông lắm ghềnh nhiều thác, lúc ẩn, lúc hiện, chợt bùng lên rồi lắng lại sững sờ,  như  ngẩn ngơ, như luyến tiếc cội nguồn? Kể cũng lạ, khi ḍng Thơ Mới cuộn chảy, gầm reo tới cao trào với Xuân Diệu th́ cũng là lúc nó chợt ph́nh ra giống một cái hồ cho mưa nguồn chớp bể trong hồn sông nước được nghỉ ngơi, trầm lắng, ưu tư mà hoài cổ. Khúc sông giống hồ nước của ḍng Thơ Mới ấy chính là Huy Cận với tập "Lửa Thiêng " gồm 50 bài thơ ra mắt năm 1940. 

Nếu không có khúc sông hóa hồ nước Huy Cận giúp Thơ Mới có cơ hội lắng xuống, thảnh thơi và điềm tĩnh, chùng ch́nh và mênh mông lại, biết đâu nó đă chẳng chảy tuột vào bề thẳm Tây phương ? Chừng như h́nh thức complet, cravate của Phương Tây Huy Cận khoác lên người không mang nổi hồn vía Đông phương u uẩn, thẳm vời trong ông? Sau khi nhà thơ từng thổn thức nỗi Verlaine, cái hồn ấy phiêu du ông về vạn cổ, kéo ông lạc vào Lư Bạch, Bạch Cư Dị, Nguyễn Trăi, Nguyễn Du... ngay giữa ḷng thế kỷ XX ồn ào phố xá...Thành ra, trong ḍng thơ mới sục sôi với tầng tầng lớp lớp thi nhân, Huy Cận tuy không khăn đống áo the như Đông Hồ, không nâu sồng dân dă như Nguyễn Bính, nhưng hồn ông đă  ràng buộc với thất ngôn và lục bát xưa.

 Ông hóa nỗi buồn xưa mà lênh đênh nguồn cội, một ḿnh bơ vơ ngay giữa "Hội trùng dương"Thơ Mới, bơ vơ ngay giữa hồn ḿnh. Có thể nói, Huy Cận cô đơn ngay cả trong niềm nồng cháy ban đầu Xuân Diệu. V́ sao một gă trai mười chín đôi mươi lại có một tâm hồn ngh́n tuổi, một niềm thơ vạn cổ rất tân thời như "Lửa thiêng "59 năm trước ?

 Ta bắt gặp trong "Lửa Thiêng" một Huy Cận buổi "Tựu trường-Thơ Mới", tuy không mê đắm đến điên cuồng "Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi" như Xuân Diệu, nhưng cũng rất tinh khôi niềm yêu đời, một niềm cách tân cả ư tưởng đến hồn vía :"Tủ mới đánh và ḷng trai thơm ngát" ( Tựu trường). Chiếc tủ - h́nh - thức - Tây phương vừa đánh verni, tưởng chỉ có thể treo những bộ áo quần tân thời ư tưởng như câu thơ rất Tây trong bài "T́nh tự ":" Sáng hôm nay hồn em như tủ áo / Ư trong veo là lượt xếp từng đôi". Huy Cận đi giữa tủ, rương như đi giữa những thời đại bảo tàng, những thời đại ngọc ngà dễ vỡ, tưởng chừng ông toan biến đời ḿnh thành chiếc rương cất giữ vẻ tân kỳ hôm nay :" Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc" ( Tựu trường). Một cậu trai thuần khiết "Quần áo trắng đẹp như ḷng mới mẻ" thuở ấy ai ngờ lại có thể viết được những câu thơ rất mới, rất Tây :" Anh hăy bận hồn em màu sáng chói"( T́nh tự )..."Ḷng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng"( Đi giữa đường thơm ) ...hoặc " Bắt gặp mùa tươi lên rún rẩy" (Xuân)...Huy Cận ch́a câu thơ thất ngôn truyền thống ra như ch́a bàn tay ḿnh để bắt tay ngọn gió mới Tây phương, bằng cách đột ngột gieo một liên từ làm vần cuối câu thơ thứ hai, khiến câu thơ vừa đứt, vừa nối, vừa chênh vênh, hụt hẫng lại vừa an nhiên, tự tại :" Khi bóng hoàng hôn phủ núi xa / Khi niềm tư tưởng vướng chân, và..."(Em về nhà). Ta c̣n có thể bắt gặp trong "Lửa thiêng" nhiều vẻ đẹp Tây phương mới lạ của Huy Cận, nhất là trong 15 bài thơ 8 chữ khá phóng túng của ông như  bài "Tṛ chuyện " :"Phố không cây thôi sầu biết bao chừng "," Buồn vạn lớp trên mái nhà dợn sóng", "Chiều hiu hiu khêu gợi nhớ nhung hờ", "Hồn bơ vơ không biết tựa vào đâu / Mây không bay thương nhớ cũng không màu / Nắng không xế và ḷng sầu mất hướng"...Huy Cận thậm chí Tây không kém ǵ Xuân Diệu với nỗi sầu, nỗi chết ban đầu với tận cùng cảm giác kiểu "Tay bồng thân, và tay nữa ôm mồ "( Tŕnh bày ) ..."Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường" ..."Xương cọ vào xương bớt nỗi hàn" ( Ngủ chung)...hoặc " Ôi chiều buồn sao nắng quá mong manh"(Nhạc sầu). 

Ta có một Huy Cận hướng ngoại tới tận trời tượng trưng Verlaine cả trong buồn, vui, sống, chết, trong thế giới khả giác lúc nào như cũng muốn nổi da gà. Có khi, Huy Cận thử t́m tới tất cả, thử vồ vập tất cả nhưng v́ sao ông chưa thỏa nỗi rưng rưng, dù khi ông viết về t́nh yêu thời đi học với những câu thơ hay đến kinh ngạc :" Một hôm trận gió t́nh yêu lại / Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ "(Học sinh). "Trận gió t́nh yêu" mới mẻ phương Tây rất nồng nhiệt kia đă thổi bay đi tất cả niềm vui mong manh chớm hé. Chỉ c̣n lại nhà thơ "Đứng ngẩn trông vời..." hiện tại, dù hiện tại kia, t́nh yêu kia kỳ diệu tới mức, lăng mạn tới mức thần tiên :" Em lùa gió biếc vào trong tóc / Thổi lại pḥng anh cả núi non "(Áo trắng). Nhờ "Em", nhờ ngọn gió tóc kia mà căn pḥng anh được nới rộng ra cả đất trời? Hay chính là "Em" đă nhốt núi non, nhốt cái sừng sững cao vời vào căn pḥng thi ca anh để vô hạn hóa cái hữu hạn ? Niềm vui t́nh đầu Huy Cận đẹp thế, hay thế nhưng chỉ là gió thổi qua, chỉ là thoáng chốc. Trong thơ, Huy Cận cần một cách giải thoát khác Xuân Diệu.

 Huy Cận đi từ "Ngẩn " tới "Vời":"Đứng ngẩn trông vời...", đi từ tha nhân đến bản thân ḿnh, từ niềm vui đến nỗi cô đơn, như chiếc thuyền trong bài "Mưa" sau :" Ḷng êm như chiếc thuyền trên bến / Nghe rét thu về hạ bớt mui ". Câu thơ này mới đích thực thần thái Huy Cận; nó hay một cách hoang vắng, se se, tồi tội, khẽ khàng, hiu hắt. Tâm hồn Huy Cận là chiếc thuyền miền sơn cước thi ca, lặng lẽ "hạ bớt mui" khi rét thu về, lặng lẽ rút vào tranh thủy mặc xa xưa mà u tịch. Nếu Xuân Diệu nhảy bổ vào t́nh yêu như nai kia khát nước nhảy bổ vào nguồn suối, lăn xả vào đời sống con người mà choàng ôm tất cả, mà mê cuồng, say đắm tất cả th́ Huy Cận ngược lại, cứ một ḿnh thui thủi t́m về nơi hoang vắng, tránh xa nơi phồn hoa đô hội. Huy Cận tĩnh bên một Xuân Diệu động. 

Huy Cận xưa bên một Xuân Diệu nay. Huy Cận buồn bên một Xuân Diệu vui, dù cả hai đều " Hai chàng thi sĩ choáng hơi men " ( T́nh trai-X.D.). Những bài thơ hay nhất trong "Lửa thiêng" là những bài Huy Cận thu hồn về ở ẩn trong một thiên nhiên hoang vắng, thẫn thờ, như thể ông đă bị cuộc đời dồn đến trước lầu "Ngưng Bích", cùng Thuư Kiều lẫn vào "Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung "(Kiều). Trong 50 bài "Lửa thiêng", chỉ có 8 bài thơ lục bát :" Buồn đêm mưa", " Trông lên", "Chiều xưa", "Đẹp xưa", " Thuyền đi", "Xuân ư ", "Thu rừng" và "Ngậm ngùi". Nhưng nếu không có 8 bài thơ lục bát này, "Lửa thiêng " dù có nhiều bài thất ngôn hay ví như "Tràng giang" th́ cũng chưa thể làm nên một Huy Cận vượt thời gian như đă có. Nguyễn Du đại thiên tài lục bát, đă đưa nhịp sáu tám Việt Nam lên tới đỉnh mây trời nhân loại. Nguyễn Du từng ít nhiều ảnh hưởng lục bát ca dao, ảnh hưởng lục bát của Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều để làm ra hàng ngh́n câu thiên thu tuyệt diệu riêng ḿnh. Thấm đẫm hồn thơ cha ông, Huy Cận đă hiện đại hóa câu thơ sáu tám Việt Nam. Ông như người kế thừa trung thành của phả hệ lục bát Nguyễn Du rồi phát triển nó về u tịch. Đọc thơ lục bát Huy Cận, cơ hồ như hồn Nguyễn Du phảng phất đâu đây, như thể bút thần xưa được hậu thế cầm lên viết tiếp, như bài " Đẹp xưa":

"Ngập ngừng mép núi quanh co

Lưng đèo quán dựng, mưa ḷ mái ngang...

Vi vu gió hút nẻo vàng

Một trời thu rộng mấy hàng mây nao

Dừng cương nghỉ ngựa non cao

Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon

Đi rồi khuất ngựa sau non

Nhỏ thưa tràng đạc tiếng c̣n tịch liêu

Trơ vơ buồn lọt quán chiều

Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người..."

Câu thơ "Lưng đèo quán dựng, mưa ḷ mái ngang" trên của Huy Cận làm ta nhớ đến "Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia "của Tố Như xưa. Huy Cận lấy hồn muôn năm trước mà hiện đại hóa câu thơ lục bát bây giờ, như gió xưa vàng đẫm lá thu nay :" Vi vu gió hút nẻo vàng ". Ngọn gió Huy Cận mặc áo vàng ngh́n thu mà hun hút, mà nghiêng nghiêng mái chữ, mái-hiên-người, cũng là mái thơ :" Mái nghiêng nghiêng gởi buồn theo hút người". Cũng như bài "Đẹp xưa", bài lục bát "Buồn đêm mưa" và bài "Chiều xưa" hay đến từng câu từng chữ. Cái buồn Huy Cận nơi đây đẹp đến rụng rời, đẹp đến ngơ ngác, hoang vu.

 Viết về nỗi bơ vơ kiếp người, về nỗi buồn bản thể, nỗi buồn xa vắng, mù tăm tưởng không ai bằng Huy Cận :"...Ḷng run thêm lạnh nỗi hàn bao la / Tai nương nước giọt mái nhà / Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn ( Buồn đêm mưa).Tưởng chừng Huy Cận phải đội trên đầu cả ṿm "Trời nặng nặng" mà nghe "Ta buồn buồn", rồi thơ thẩn đi hết cơi "Lửa thiêng", để nghe trọn vẹn trong hư không :" Những chân xa vắng dặm ṃn lẻ loi", "Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ ". Huy Cận gom ḿnh về thành quách xưa mà cô đơn một thuở với trời đất; tuy ông vẫn để ngỏ các cửa thành cho gió ngàn năm bơ phờ cư ngụ :" Gió về, ḷng rộng không che". Thổi hiu hiu, thổi u u trong lục bát Huy Cận loài gió hạc vàng, gió tùng bách, gió khói sóng. Những hồn gió liêu trai từng thổi qua Đường thi, Tống thi, thổi qua sao Khuê ở ẩn Nguyễn Trăi, qua vầng trăng xẻ nửa Nguyễn Du mà thành bờ "lau thưa" Huy Cận :

"Buồn veo theo gió bên hồ

Đèo cao quán chật, bến đ̣ lau thưa

Đồn xa quằn quại bóng cờ

Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về

Ngàn năm sực tỉnh, lê thê

Trên thành son nhạt - Chiều tê cúi đầu..." (Chiều xưa)

Nhà ẩn sĩ của nỗi buồn xưa để tâm hồn ḿnh trôi qua hai bờ lục bát như bóng cờ kia quằn quại trôi qua đôi bờ trời chiều và " Thành son nhạt", càng trôi càng sững lại, càng phải vật vă với gió mà níu lấy hồn xưa ngơ ngẩn. Phải chăng tinh thần của "Lửa thiêng " là tinh thần của lá cờ quá văng ăn toàn gió xưa mà tồn tại, mà nghi ngút khói mây :"Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về " ? Huy Cận mang hồn Nguyễn Du để làm nên giọng điệu lục bát rất riêng, rất mới của ḿnh như  bài "Thu rừng " sau đây:

"...Nai cao gót lẫn trong mù

Xuống rừng nẻo thuộc nh́n thu mới về

Sắc trời trôi nhạt dưới khe

Chim đi lá rụng cành nghe lạnh lùng..."

 Hai cặp lục bát trên đều đi nhịp đôi khe khẽ, rón rén, thi thoảng, theo kiểu cứ một bước sương lại một bước khói, như trời thu theo nai xuống núi, theo "chim đi" v́ không nỡ bay sợ làm động vỡ hồn thu. Huy Cận mượn bút vẽ Tề Bạch Thạch mà vẽ bức thuỷ mặc lục bát "Thu rừng" có một không hai. Chỉ thấy nai, thấy chim, thấy sắc trời, thấy lá rụng, tuyệt nhiên không thấy người đâu, mà không đâu không ám ảnh hồn người. Cảm giác, ấn tượng của những câu thơ trên mạnh tới nỗi rùng ḿnh, người đọc chợt được ḥa tan vào từng câu chữ, khiến bài thơ như chợt vượt ra ngoài trang giấy mà  hóa vô biên thu, hóa vô tận rừng, hóa mênh mông hồn thu Huy Cận.

 Nói đến lục bát Huy Cận, không thể không nhắc tới "Ngậm ngùi". Bài "Ngậm ngùi " tuy không tuyệt bích như các bài "Thu rừng", "Đẹp xưa", "Buồn xưa", "Buồn đêm mưa"; nhưng nó mang  yếu tố mới của thơ t́nh,  trước đó thơ ta chưa có chuyện người đàn ông "hầu quạt" ru người con gái ngủ. Bài thơ mang được phẩm chất sầu mộng của thời đại, được phổ nhạc thành bài hát rất hay, rất quen thuộc nên người ta dễ nhớ hơn những vần lục bát thần diệu trên. Thơ thất ngôn Huy Cận đạt tới tuyệt đỉnh với "Tràng Giang", với nỗi buồn hoài cổ tầng tầng lớp lớp sóng, lớp lớp mây tâm trạng, như thể nhà thơ đă kéo dài mạch chảy của những ḍng sông thi ca Vương Bột, Thôi Hiệu ..., những ḍng sông thi ca "Trông vời trời nước mênh mang" Nguyễn Du xưa mà trải hồn ḿnh ra ngh́n dặm xưa sau. Huy Cận là nỗi buồn tiếp nối ông cha :"Vạn lư sầu lên núi tiếp mây", như thể ngàn xưa c̣n vọng măi nỗi niềm rơm rớm nắng mưa nay :"Nắng đă xế về bên xứ bạn / Chiều mưa trên băi nước sông đầy"(Vạn lư t́nh). Hăy đọc thất ngôn Huy Cận lên để nghe không gian chùng xuống đến tận cùng dây tơ thời gian :" Ôi ! nắng vàng sao mà nhớ nhung / Có ai đàn lẻ để tơ chùng ?"( Nhớ hờ ).

 Huy Cận với "Lửa thiêng" c̣n ở bên trời "đàn lẻ", là nỗi buồn xưa, hồn xưa lưu lạc tới hôm nay vẻ hiu hắt, ngậm ngùi kiếp người. Ông mang đến cho thi đàn một nỗi buồn đẹp như quê hương, như nước mắt trời xanh. H́nh như sự vĩnh cửu từng níu lấy áo Huy Cận mà kéo ông về bất tử thi ca ngay từ thuở vừa ngoài tuổi đôi mươi. "Lửa thiêng " có lẽ  là tập thơ toàn bích nhất trong  các tập thơ ra đời từ 1932-1945 trong phong trào Thơ Mới ? Cây cổ thụ Huy Cận sẽ c̣n xanh tươi măi trong vườn thơ dân tộc như câu thơ ông từng viết trong bài "Họa điệu" :"Cây không đi mà t́nh cũng nghiêng nghiêng".

 

Trần Mạnh Hảo


<<trở về đầu trang>>
free counters