|
Mặc Giao
Ông Mặc Giao
là một trong những
huynh trưởng đầu
tiên của Phong Trào
Thanh Sinh Công Việt
Nam, nguyên là dân
biểu Quốc Hội, Tổng
Thư Kư Hạ Nghị Viện,
Sứ thần ngoại giao
của Việt Nam Cộng
Ḥa tại Paris trước
1975. Đồng tác giả
cuốn "30 năm Công
Giáo Việt Nam dưới
chế độ cộng sản", và
tác giả sách khảo
luận "Một cái nh́n
khác về văn hóa Việt
Nam". Hiện nay, ông
là Chủ tịch Ủy Ban
Canada Tự Do Tôn
Giáo cho Việt Nam.
Chuyện thời sự trên đầu môi vào lúc này là cuộc nổi dậy thành công của nhân dân các nước Tunisia và Ai Cập, cũng như những cuộc biểu t́nh chống độc tài lây lan sang các nước Algeria, Yemen, Bahrain, Iran, Libya, đe dọa Saudi Arabica, Jordan và Syria. Những cuộc nổi dậy của nhân dân các xứ này xảy ra bất ngờ, lan rộng bất ngờ và cũng thành công bất ngờ. Quả thật đây là một hiện tượng, một biến cố lớn của lịch sử nhân loại vào tiền bán thế kỷ 21. Bộ mặt của vùng đất này trên thế giới sẽ thay đổi và sẽ có thể kéo theo những thay đổi trên những vùng đất khác.
Tuy nhiên, việc ǵ cũng có nhân có quả. Người dân các nước nói trên đă bị đàn áp, bóc lột, tước đoạt nhân phẩm và quyền làm người suốt một thời gian dài. Họ đă im lặng chịu đựng. Đôi khi bực bội vùng lên, nhưng chưa đồng loạt, nên dễ bị dập tắt. Dù vậy sự bất măn, căm phẫn vẫn c̣n đó, mỗi ngày mỗi tăng thêm. Đến lúc không thể chịu đựng được nữa, niềm phẫn nộ đă vỡ ̣a và quét sạch những chế độ gian tham, tàn ác, dù đầy tiền bạc và súng đạn trong tay. Con giun bị xéo lắm cũng quằn, huống chi con người.
Trước những biến cố này, nhiều người “hồ hởi” cho rằng phong trào nhân dân vùng dậy sẽ lan tới Việt Nam và kêu gọi dân ta hăy đứng lên hưởng ứng. Có người lại bi quan cho rằng cuộc đấu tranh tương tự chưa thể xảy ra tại nước ta, v́ t́nh h́nh các nước có biến cố không giống t́nh h́nh Việt Nam.
Điểm tương đồng quan trọng nhất giữa những nước có biến động và Việt Nam là những nước này bị cai trị bởi một chế độ độc tài, độc tài cá nhân, độc tài đảng phái, độc tài gia đ́nh, độc tài quân chủ. Bản chất của mọi chế độ độc tài là áp bức người dân, tước đoạt mọi quyền tự do và quyền công dân của họ, vơ vét tài nguyên quốc gia và tài sản tư nhân để làm giầu cho một đảng, một gia đ́nh, một cá nhân và đám bầy tôi. Ḷng tham quyền và tiền nảy sinh tham nhũng, sự tàn ác, những mánh khóe bóc lột.
Hậu quả là đại đa số nhân dân sống trong nghèo khổ, xă hội chậm tiến, văn hóa suy đồi, trong khi những kẻ giầu có bất chính sống xa hoa, phè phưỡn trên sự đau khổ của những người khác. Đó là mầm bất ổn của xă hội, là nguyên nhân của những cuộc vùng dậy để dân đ̣i lại quyền lợi và nhân phẩm. Tại những quốc gia có tự do, dân chủ, không có t́nh trạng này, dù đôi khi dân chúng xuống đường hàng ngàn hàng vạn người để phản đối chính phủ hoặc đ̣i hỏi những quyền lợi cá biệt của từng giới. Có giải tán biểu t́nh, có bắt nhốt những phần tử qúa khích phá hoại, nhưng luôn luôn kết thúc trong ḥa b́nh và chính phủ biết lắng nghe ư nguyện của dân.
Video các cuộc biểu t́nh sôi động trên thế giới
Sự khác biệt
nổi bật nhất giữa
Việt Nam và các chế
độ độc tài khác là
quyền lực ở những
nước kia thường được
thâu tóm trong tay
một cá nhân với
những tay chân dễ
sai khiến và với một
chính đảng bù nh́n
được dựng lên để làm
b́nh phong. Nói
chung là đám tay
chân lo suy tôn lănh
tụ và bảo vệ lẫn
nhau chỉ v́ muốn giữ
những đặc quyền, đặc
lợi.
Trong khi chế độ
cộng sản Việt Nam do
một đảng độc tôn nắm
giữ, có chủ thuyết,
có bài bản và kinh
nghiệm cướp chính
quyền, giữ chính
quyền và khủng bố
dân chúng để
không ai dám chống
lại.
Thêm vào đó, những con người cộng sản lại độc ác, mất nhân tính, coi đồng bào của ḿnh như kẻ thù, đầy đọa trong lao tù, đánh đập, giết chóc không nương tay. Staline đă giết hàng triệu người Nga khi đầy họ đi khổ sai ở vùng giá lạnh Sibérie. Đặng Tiểu B́nh đă ra lệnh tàn sát hàng ngàn sinh viên Trung Quốc trên quảng trường Thiên An Môn. Hồ Chí Minh cũng gây ra cái chết của hàng trăm ngàn nông dân trong những đợt cải cách ruộng đất… V́ vậy nhiều người bi quan cho rằng dân chúng sống dưới chế độ cộng sản khó vùng dậy v́ sợ hăi và v́ kỹ thuật khủng bố, đàn áp qúa tinh vi và dă man.
Nếu nh́n một cách
khách quan, sự so
sánh trên có phần
đúng.
Nhưng người ta sẽ
giải thích ra sao sự
tan ră của những chế
độ cộng sản vô cùng
hùng mạnh và gian ác
ở Đông Âu, đứng đầu
là Liên Xô?
Liên Xô là nước cầm
đầu khối cộng sản
thế giới, là thánh
địa để các nước cộng
sản khác đến học hỏi
và xin trợ giúp, là
một cường quốc có
binh hùng tướng
mạnh, vơ khí tối tân
hiện đại không thua
Hoa Kỳ, có guồng máy
gián điệp và công an
ch́m KGB khổng lồ
với kỹ thuật tân
tiến bậc nhất thế
giới.
Vậy mà chế độ Liên
Xô đă sụp đổ v́ sự
phẫn nộ của nhân dân
Nga, không phải v́
ông Gorbatchev. Ông
này chỉ muốn áp dụng
chính sách cởi mở và
đổi mới để cứu văn
nền kinh tế Liên Xô
đang trên đường
xuống dốc, không hề
có ư định giải tán
đảng cộng sản.
Nhưng khi cánh cửa
hé mở, nhân dân tràn
tới đạp tung. Rồi
như nước vỡ bờ, họ
cuốn trôi luôn căn
nhà chế độ.Guồng
máy kềm kẹp, đàn áp
của các nước cộng
sản khác, Đông Đức,
Bulgaria, Roumania,
cũng tinh vi và tàn
ác không kém Liên
Xô. Nhưng khi nhân
dân phẫn nộ vùng
lên, không có ǵ
cưỡng lại nổi.
Công an bất lực, lo
chạy trốn. KGB lo
thủ tiêu tài liệu
rồi lặn sâu. Quân
đội khoanh tay đứng
nh́n, không can
thiệp. Ông
Gorbatchev không c̣n
cách nào giữ đảng
ngoài việc giao
quyền cho ông Boris
Yeltsin, để ông này
theo ư nhân dân giải
thể chế độ cộng sản.
Điều đáng
quan ngại đối với
trường hợp
Việt Nam là dân ta
vốn có tính thụ
động, ít quan tâm
tới việc chung, chỉ
chú ư đến cái lợi
trước mắt cho
riêng ḿnh và cho
những người thân của
ḿnh. Dân Việt có
truyền thống đấu
tranh chống ngoại
xâm, nhưng lại ngoan
ngoăn đối với những
người cầm quyền bản
xứ, cam ḷng chịu
phận “con sâu cái
kiến”, dù luôn
bị “quan tha nha
bắt”.
Những người cộng
sản hiểu tâm lư này
của dân Việt. Họ áp
dụng triệt để chính
sách được gán là của
Hoa Kỳ “cây gậy và
củ cà rốt”.
Họ vừa hăm dọa, giữ
dân trong sự sợ hăi
thường xuyên, vừa
đưa mồi ra nhử.
Họ cũng áp dụng
chính sách này với
các đoàn thể và tôn
giáo. Họ làm cho dân
nhụt hết ư chí, đa
số chỉ lo kiếm tiền
và hưởng thụ, không
nghĩ ǵ đến đất
nước, đến công ích
xă hội.
Giới trẻ th́ thả
cửa ăn chơi sa đọa
trong một xă hội vô
luân lư. Các tôn
giáo th́ bể thành
nhiều mảnh do âm mưu
chia rẽ và phá hoại
của cộng sản. Phật
Giáo thành 3 mảnh,
Cao Đài, Ḥa Hảo mỗi
đạo thành hai mảnh,
Tin Lành thành nhiều
mảnh, Công Giáo tuy
chỉ có một mảnh rưỡi
(nửa mảnh là Ủy Ban
Đoàn Kết CGVN) nhưng
hàng giáo phẩm thân
thiện cộng tác với
nhà cầm quyền theo
kiểu “úm ba la
hai ta cùng lợi”.
Trông chờ nhân
dân vùng dậy có vẻ
khó.
Tuy khó khăn như vậy, chúng ta cũng không mất niềm hy vọng. Khó th́ phải kiên tŕ hơn. Khó th́ cần nhiều thời giờ hơn để hội đủ những điều kiện cho một cuộc đấu tranh dứt điểm. Dân Việt Nam vẫn chưa mất hết ư chí quật cường. Trí thức Việt Nam vẫn c̣n những bộ óc biết suy nghĩ. Tuổi trẻ Việt Nam chưa đánh mất nhiệt tâm yêu nước và yêu tự do công lư. Bằng cớ là càng ngày càng có nhiều lời nói và hành động công khai phê phán và chống đối chế độ. Những cá nhân lănh đạo cũng bị chỉ đích danh với những lỗi lầm và yếu kém của họ. Sự sợ hăi vẫn c̣n nhưng càng ngày càng giảm bớt. Nhà cầm quyền có thể bắt vài chục người hay một trăm người chống đối nổi bật nhất nhưng không thể bắt hết hàng triệu người âm thầm hay công khai chống chế độ.
Chúng ta hăy thử nh́n tương quan lực lượng giữa nhân dân Việt Nam và guồng máy cầm quyền tại Việt Nam để dự đoán những ǵ có thể xảy ra khi một cuộc vùng dậy bộc phát
* Phiá nhân dân:
Không phải tất cả 86 triệu người Việt Nam đều tích cực chống đối cộng sản và sẵn sàng tham gia một cuộc vùng dậy. Nhưng thực tế, tuyệt đại đa số dân Việt Nam đă chán chế độ cộng sản lắm rồi. Họ hoan nghênh bất cứ một sự thay đổi nào, dù chưa chắc họ sẽ tham gia việc tạo nên sự thay đổi. Có thể coi họ như một đa số thầm lặng, không hành động nhưng sẽ đi theo.
Mọi biến cố chỉ có thể xảy ra khi có một thiểu số năng động, tức là những thành phần tham gia trực tiếp biến cố. Chế độ Hosni Mubarak sụp đổ không cần 80 triệu dân Ai Cập xuống đường. Chỉ cần vài trăm ngàn đến cao điểm một triệu người tại quảng trường Tahrir ở thủ đô Cairo, vài chục ngàn ở Alexandrie và Port Said. Đám đông sẽ lôi kéo đám đông. Khi cao trào nổi lên, những người khác sẽ đi theo.
Những thành
phần dân chúng có
thể tham gia một
cuộc đấu tranh vùng
dậy:
-
Giới trẻ,
giới sinh viên
- Nạn nhân bị cướp đất, cướp nhà (dân oan khiếu kiện)
- Nông dân bị cướp đất canh tác
- Công nhân bị bóc lột
- Tín đồ các tôn giáo (quan trọng nhất)
Giới trẻ đă có nhiều
dịp thao tác trong
các cuộc biểu t́nh
chống Trung Quốc.
Dân oan đă có kinh
nghiệm đấu tranh
trường kỳ. Công nhân
đă có kinh nghiệm tổ
chức đ́nh công. Nông
dân đă có kinh
nghiệm đấu tranh giữ
đất như ở Cồn Dầu
(Đà Nẵng), Vụ Bản
(Nam Định).
Tín đồ các tôn giáo
đă có kinh nghiệm
đấu tranh đ̣i tự do
tôn giáo, đ̣i đất
đai và cơ sở bị
chiếm hữu. Đây là
những lực lượng sung
kích đầu tiên.
Dù đă có lực lượng
quần chúng nhưng vấn
đề quan trọng là ai
sẽ phát động cuộc
đấu tranh?
Có thể một tổ chức,
một đoàn thể hay một
nhóm công dân sẽ làm
việc này. Nhưng cũng
rất có thể một biến
cố nhỏ hay một hành
động đàn áp vô ư
thức của nhà cầm
quyền sẽ châm mồi
cho đám cháy lớn.
Cuộc cách mạng Hoa
Nhài ở Tunisia bùng
lên từ việc tự thiêu
của Mohamed
Bouazizi, một thanh
niên thất nghiệp đi
làm chui, không thể
chịu nhục v́ bị một
nữ cảnh sát viên
chửi rủa, đánh đập
khi xét giấy tờ.
Cuộc vùng dậy ở Ai
Cập khởi đầu bằng
việc đàn áp một số
không đông những
người biểu t́nh ôn
ḥa, trong số đó anh
Khalid Sayid bị cảnh
sát đánh chết. Việc
này khiến anh Wael
Ghonim phẫn nộ. Anh
Wael Ghonim là một
thanh niên 30 tuổi,
có tài đặc biệt về
kỹ nghệ thông tin,
đang giữ chức giám
đốc điều hành
(executive manager)
của công ty Google ở
Dubai. .
Anh bắt đầu cuộc đấu tranh ôn ḥa bằng kỹ thuật computer. Anh lập hàng loạt twitter, blog, website, mở facebook có tên “Tất cả chúng tôi là Khalid Sayid” để truyền những bản tin và những h́nh ảnh đàn áp. Anh thông báo ngày giờ, địa điểm tập họp. Đám đông cứ việc làm theo những thông tin của anh, chẳng cần theo một lănh tụ chính trị hay tôn giáo nào. Những lănh tụ này mấy ngày sau mới lẽo đẽo theo đám đông đi biểu t́nh để kiếm điểm.
Kỹ thuật thông tin hiện đại là một đe dọa sinh tử cho những chế độ độc tài. Họ không c̣n có thể bóp méo thông tin và bưng bít nhân dân được nữa. Những tội ác của họ được phơi bầy. Kế hoạch và ngày giờ đấu tranh lật đổ họ được thông báo cho hàng ngàn hàng vạn người cùng một lúc. Dù họ biết cũng trở tay không kịp. Có thể kỹ thuật thông tin liên lạc qua computer ở Tunisia và Ai Cập phát triển hơn ở Việt, nhưng số lượng người dùng computer ở Việt Nam cũng không phải nhỏ, có thể ước lượng hàng triệu.
Chúng tôi biết một tổ chức người Việt ở Hoa Kỳ có ba triệu địa chỉ email tại Việt Nam, một cá nhân ở Úc có vài chục ngàn địa chỉ. Họ vẫn thường xuyên gửi tin tức, h́nh ảnh và những bài viết về những địa chỉ này. Tường lửa do nhà cầm quyền dựng lên bị vượt qua dễ dàng đối với những người muốn vượt. Kỹ thuật thông tin qua computer chắc chắn là một lợi khí cho cuộc đấu tranh chống cộng của nhân dân Việt Nam.
*Phiá guồng máy cầm quyền:
Dĩ nhiên guồng máy cầm quyền hiện có nhiều lợi thế. Họ có 3 triệu đảng viên, có tiền, có chính quyền, công an và quân đội. Tuy nhiên trong cái mạnh vẫn có cái yếu:
- Trong số 3 triệu đảng viên, có bao nhiêu người trung thành với đảng, sẵn sàng hy sinh v́ đảng đến giọt máu cuối cùng? Có bao nhiêu người vào đảng v́ lư tưởng cộng sản hay chỉ v́ cơ hội tiến thân và kiếm tiền? Có bao nhiêu đảng viên đang uất ức, bất măn v́ không được ban bổng lộc, chức tước như họ mong muốn? Có bao nhiêu đảng viên đă phản tỉnh về sự sai lầm của đảng nhưng chưa dám rút chân ra v́ c̣n bị kềm kẹp trong guồng máy và c̣n dính dáng tới quyền lợi? ?
Chưa kể những đảng viên lăo thành như ông Nguyễn Văn An, cựu chủ tịch Quốc Hội, nguyên ủy viên trung ương đảng, cũng như nhiều đảng viên tai mắt khác, đă công khai phê phán đảng, đ̣i cải tổ tận gốc rễ, nhiều người thẳng thừng đ̣i dẹp bỏ chế độ cộng sản. Chắc chắn đảng không phải là một khối thuần nhất và không phải là một khối sức mạnh vô địch có thể đập tan mọi cuộc nổi dậy chống đảng. Người ta nghĩ rằng nếu có một biến cố xảy ra, sẽ có vô số đảng viên mau lẹ nhảy tầu để khỏi bị đắm chung.
- chính quyền chỉ được xử dụng khi có lănh đạo. Khi lănh đạo bị cô lập, chính quyền sẽ tê liệt. Nhân viên chính quyền các cấp bất cứ ở đâu, bất cứ thời nào cũng có truyền thống án binh bất động, khoanh tay ngồi chờ khi có biến động dẫn đến việc thay đổi quyền hành. Họ muốn được vô can và chờ nhận lệnh khi t́nh h́nh ngă ngũ.
- Công an là lực lượng chính bảo vệ chế độ. Nhân viên công an được tuyển chọn trong hàng ngũ thân tín và trung thành, được đăi ngộ đặc biệt và được giao quyền sinh sát. V́ vậy người chỉ huy công an mới hiệu triệu thuộc cấp bằng bằng khẩu hiệu “C̣n đảng c̣n ḿnh”.
Điều này có nghiă
nếu không bảo vệ
đảng, để đảng mất là
ḿnh cũng tiêu luôn.
Chỉ biết có đảng
thôi, không cần biết
tới đất nước và đồng
bào.
Công an ư thức rất
rơ là họ đă gây
nhiều ân oán với
nhân dân, bị nhân
dân thù ghét. Khi có
cơ hội, dân sẽ “hỏi
thăm sức khỏe” của
công an trước tiên.
Do đó, khi được hiếp đáp dân th́ công an hùng hổ ra tay, khi có tiếng nổ lớn như ở Sài G̣n ngày nào là công an trốn biệt, sợ bóng viá biến cố, sợ nhân dân hỏi nợ. Bất cứ một cuộc đấu tranh vùng dậy nào cũng sẽ bị công an đàn áp. Máu sẽ phải đổ. Nhiều hay ít là do mệnh lệnh của những người nắm quyền, và cũng do chiến thuật đấu tranh của nhân dân. Vùng dậy ít nơi, người tham dự không đông, công an dễ đánh đập, bắn giết, bắt nhốt.
Nhưng nếu sự việc xảy ra nhiều nơi cùng một lúc với số người tham dự đông đảo, công an sẽ bị phân tán lực lượng và sẽ bị số đông áp đảo, tràn ngập. Sự thiệt hại về phiá nhân dân sẽ rất ít. Khi máu đă đổ, máu sẽ gọi máu. Quần chúng sẽ phẫn nộ, sẽ nôn nóng trả thù. Dù có hàng sư đoàn công an cũng không thể đương đầu với hàng trăm ngàn, hàng triệu người đang say sưa khí thế đấu tranh và căm phẫn trước việc đồng bào bị tàn sát. Diễn tiến này luôn luôn xảy ra cùng một bài bản ở khắp nơi có những cuộc vùng dậy.
- Khi công an đă bất lực trong việc đàn áp nhân dân, quân đội sẽ được gọi tới. Nếu một quân đội sẵn sàng bắn giết dân lành không một tấc sắt trên tay theo lệnh đảng như ở Thiên An Môn th́ đảng đă thành công trong việc biến quân đội thành cầm thú, tàn sát đồng loại không gớm tay.
Nhưng không phải lúc nào cũng xảy ra như vậy. Toàn thể lực lượng quân sự hùng mạnh của Khối Varsovie đă khoanh tay đứng nh́n dân chúng đấu tranh lật đổ hàng loạt chính phủ cộng sản. Nhiều tướng lănh Liên Xô đă từ chức hoặc tuyên bố không tuân lệnh bộ quốc pḥng và ra lệnh cho lính không được bắn vào dân.
Chúng ta đừng quên rằng, cũng như ở Việt Nam, quân đội của các quốc gia cộng sản này bị hệ thống quân ủy của đảng kiểm soát và điều động, quyền của một chính ủy nhiều khi c̣n lớn hơn quyền một chỉ huy trưởng. Vậy mà quân đội vẫn không theo lệnh đảng. Tại Tunisia, quân đội đă đứng ngoài ṿng tranh chấp. Quân đội Ai Cập được lệnh đưa chiến xa đến bố trí ở quảng trường Tahrir. Quân đội đă thi hành lệnh, nhưng án binh bất động, binh lính nắm tay múa hát với người biểu t́nh.
Sau chiến thắng,
quân đội Ai Cập lănh
nhiệm vụ giữ an ninh
và tạm thời điều
hành quốc gia trong
6 tháng để tổ chức
một cuộc bầu cử tự
do. Qua những tiền
lệ trên, không ai
dám tin chắc quân
đội “nhân dân” Việt
Nam sẽ giết dân theo
lệnh đảng.
Điều cần là chúng ta
phải tiến hành ngay
công tác vận động
quân đội để họ nhận
thức rơ rệt rằng
quân đội có nhiệm vụ
bảo vệ tổ quốc và
nhân dân,
không phải là công
cụ của một đảng, nên
không thể chiă súng
bắn vào đồng bào,
trong đó có cha mẹ,
anh em, bạn bè của
ḿnh.
Cuộc tranh đấu của dân Việt Nam có hai lợi điểm khác mà dân Tunisia và Ai Cập không có: Một là lực lượng chống cộng của người Việt ở hải ngoại, dù chưa quy tụ thành một mối, rất mạnh, đấu tranh kiên tŕ không mệt mỏi suốt 36 năm qua, đă tiếp tay yểm trợ anh chị em đấu tranh cho dân chủ trong nước qua nhiều đường dây và nhiều h́nh thức mà cộng sản không kiểm soát nổi.
Hai là dân Việt Nam, kể cả nhiều đảng viên cộng sản, có một mục tiêu tranh đấu chung rất rơ rệt: đó là chống lại những người bán nước, dâng đất, dâng biển cho ngoại bang, cắt những phần đất mầu mỡ và có địa thế chiến lược của tổ quốc cho kẻ thù truyền kiếp thuê để khai thác. Ngoài những tội khác, tội này rất dễ gây căm phẫn trong nhân dân và dễ khích động tuổi trẻ tràn đầy nhiệt huyết yêu nước đứng lên hỏi tội thủ phạm.
Dể kết luận,
tôi nhận thấy những
yếu tố cho một cuộc
nổi dậy tiêu diệt
độc tài tại Việt Nam
đă hội đủ, dù
vẫn c̣n nhiều khó
khăn. Những tổ chức
trong nước, những
đường dây nối kết từ
ngoài vào trong, nếu
chưa đến lúc kết hợp
thành một, hăy t́m
cách phối hợp với
nhau trong những
công tác cụ thể,
đồng bộ thực hiện
một chiến dịch chung,
nắm bắt cơ hội hay
tạo ra cơ hội để
châm ng̣i cho cuộc
nổi dậy bùng lên.
Hăy chuẩn bị việc hướng dẫn cuộc nổi dậy đi đến thành công mong muốn, ngăn chặn những phần tử cộng sản trá h́nh và những nhóm hoạt đầu lợi dụng để hướng lái cuộc đấu tranh theo mục tiêu riêng của họ. .
Hăy ḥa ḿnh với cao trào nhân dân vùng dậy tiêu diệt độc tài áp bức ở Bắc Phi và Trung Đông để giải phóng dân tộc Việt Nam.
Hăy rút kinh nghiệm từ những cuộc đấu tranh này để thực hiện cho chính ḿnh. Thế giới đang ngạc nhiên và ủng hộ cao trào tự giải phóng đang diễn ra. Những tính toán của các cường quốc cũng phải nhường bước trước ư chí của nhân dân các nước này.
Không một nước nào bênh vực những chế độ độc tài đang dẫy chết. Nhân loại đang dành cảm t́nh cho những dân tộc dám vùng lên để tự cứu ḿnh. Dân tộc Việt Nam đừng bỏ lỡ cơ hội.
Mặc Giao
<<trở về đầu trang>>