|
Tháng 10 năm 1974, anh trai
tôi nhập ngũ. Sau 2 tháng
học quân sự ở Hà Băc được
tăng viện cho chiến trường
Miền Nam. Gia đ́nh tôi bặt
tin anh từ đó. Sau này được
biết anh chưa vào đến nơi
th́ Sài G̣n "giải phóng".
Tháng 7-1975 gia đ́nh tôi về
Nam v́ ba tôi là người tập
kết.
Ô tô chạy mất 5 ngày. Đường
xá từ Vinh đến Tây Ninh c̣n
ngổn ngang xác đạn, xác xe
tăng. Từ Quảng Trị trở vào
đường đi hố bom lỗ chỗ, đất
cát trộn với mảnh bom đạn.
Tiếc là thời đó quá nghèo và
quá bé đă không có 1 tấm
h́nh nào để lại.
Tuổi thơ của chúng tôi với
những năm tháng đói nghèo ở
Miền Bắc. Đói và đói triền
miên,trên đầu th́ bom gào
đạn réo, đến lớp học ai cũng
phải đội mũ rơm (tự làm) để
tránh mảnh bom,đi sơ tán ra
khỏi Hà Nội, hết bom đạn lại
về. Cuộc sống ở những khu
tập thể trói buộc người ta
trong hạn chế tị hiềm và
ganh ghét. Hàng xóm sống với
nhau rất kín kẽ và thăm ḍ.
Gia đ́nh tôi dừng lại ở Huế
1 ngày 1 đêm. Huế với tôi
tháng 7 năm 1975 là Huế rất
thơ mộng. Những căn biệt thự
trên đường THĐ phủ đầy hoa
giấy màu trắng và màu hồng.
Buổi sáng từng đoàn học sinh
mặc áo dài trắng ngồi trên
những chiếc xe đạp mini đến
trường trong mùi hương thơm
tỏa của hoa dạ ly hương. Huế
như chưa từng có chiến tranh
đi qua đây.
Huế năm 2009 với tôi là Huế
buồn rầu, xơ xác : chợ Đông
Ba, lăng Tự Đức, lăng Khải
Định vẫn nằm im u uất, sông
Hương cạn kiệt nước và ô
nhiễm.
Ô tô qua cầu B́nh Triệu, vào
sân của cơ quan sở ngoại vụ
đằng sau nhà thờ Đức Bà, tôi
vội vă rời khỏi xe để ngắm
hết nhà thờ Đức Bà, lại đến
Dinh Độc lập. Cũng may Dinh
Độc Lập bị phá hủy nhiều và
vẫn c̣n giữ được nguyên bản
của nó.
Một góc Sài G̣n trước năm 75 |
Sài G̣n mở cho tôi hết ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên
khác: đường Pasteur, đường
Tự do, đại lộ Nguyễn Huệ rực
sáng ánh đèn neon về đêm,
rạp hát Ê đen, quán cà phê
Givral đă để lại bao nhiêu
dấu ấn cho người Sài G̣n.
Năm 2009, nhà hát lớn thấy
có thêm 2 bức tượng đá đỡ
quả cầu, công viên trước ṭa
đô chính không c̣n là công
viên mở rộng tầm mắt cho
người ta ra đến bến Bạch
Đằng, nó bị cắt vụn ra bỏi
những bưc tượng, những chậu
cây kiểng trông rất manh mún.
Đau đớn nhât là hàng ngày
với những mẩu tin: quán
Givral đă bị giật sập, khuôn
viên trường Lê Quư Đôn bị
thu hẹp bởi các dự án... nếu
chiều hướng cứ tiếp tục như
vậy không hiểu những thế hệ
tiếp theo sẽ c̣n ǵ để biêt
thêm về những trang sử đầy
hào hùng cũng đầy bi thương
của thế hệ cha anh chúng ta.
Dường như những người du
nhập vào Sài G̣n cũng chỉ
muốn Sài G̣n như một chỗ
nghỉ lưng và khai thác. Sài
G̣n không được chăm bẵm tu
bổ, Sài G̣n ngày càng xuống
cấp, con đường Duy Tân “cây
dài bóng mát“ ngày xưa nay
c̣n đâu, vỉa hè những con
phố th́ khập khiễng tróc lở,
dây điện giăng mắc khắp nơi,
dọc theo ṭa đô chính phía
thư viện quốc gia vào những
ngày trời nắng mùi xú uế bốc
lên nồng nặc.
Ba tôi và những người cô,
ngừơi bác tập kết ra Bắc trở
về thấy t́nh cảm với cô và
chú tôi ở Sài G̣n cũng không
sâu đậm lắm. Chú tôi nhỏ
tuổi hơn ba nhiều v́ vậy sau
khi những người lớn đi vào
rừng và tập kêt ra Bắc, chú
tôi chọn lên Sài G̣n lập
nghiệp. Là hiệu trưởng 1
trường tư thục nhưng chú
thím tôi có cuộc sống khá
giả, thím không phải đi làm,
các em đựoc chăm sóc và nuôi
dạy rất tốt. Một thời gian
sau tôi trở lại căn nhà bên
trường PĐP có mảnh sân có
cây mận tỏa bóng th́ biết
được chú thím và các em tôi
đă vượt biên và đến Uc Định
cư. Đến nay th́ các em tôi
đều rất thành đạt, chẳng
biết chú thím tôi có yêu quí
những đứa cháu từ Miền Bắc
trở về hay không`?
Từ năm 1975 đến 1979 tôi học
trường Gia Long sau này đổi
tên trường Nguyễn Thị Minh
Khai. Tôi vô cùng thán phục
nền giáo dục của SG. Thầy cô
th́ rât cao cả và các bạn
hữu của tôi được giáo dục
một cách tỉ mỉ về kiến thức
và đạo đức. Phần lớn các bạn
đều đang có ba bị đi "học
tập cải tạo" ?!
Và mỗi ngày. mỗi ngày là
những trang nhật kư được lưu
lại, mỗi ngày đến lớp lại
vắng đi một người, làn sóng
người di tản ngày càng nhiều
lên sau ngày được... giải
phóng. Cho đến bây giờ đă 36
năm trôi qua, tôi chưa hề
có1 cuôc hội ngộ nào với các
bạn nữ sinh Nguyễn Thị Minh
Khai thuở trước. Không biết
cô Tỵ hiệu trưởng, cô Mỹ
Hạnh dạy anh văn có c̣n ở đó,
những cây phượng ở góc sân
trường có c̣n nở đều đặn mỗi
khi hè về.
36 năm đă qua đi, về lại Sài
G̣n tôi vẫn thây rất nhiều
người nghèo khổ lầm lũi đi
t́m kế mưu sinh trong những
núi rác của thành phố.
Sài G̣n giàu có chỉ là của
một số ít rất ít người.
30 ttháng 4 theo tôi chỉ có
đau đớn, chia ly và mất mát,
với từ 3 đến 5 triệu người
việt chết và mất tich, với
bao nhiêu bà mẹ miền Bắc đến
nay đă 60, 70 tuổi hàng năm
mỗi độ xuân về vẫn ngóng xem
người thân có trở về. Bởi ở
nghĩa trang quân đội có phần
mộ của họ, nhưng hài cốt th́
không có, họ vẫn cố tin rằng
người thân của họ vẫn ở đâu
đó. Với những mộ phần của
các chiến sĩ VNCH vẫn nằm cô
đơn lạnh lẽo trong nghĩa
trang Quân đội Biên Ḥa
Chiến tranh đă qua đi 36
năm,chừng nào th́ chúng ta
mới có một ngày vui tươi
chung cho 86 triệu người dân
ở trong nước và hơn 3 triệu
người Việt Nam hải ngoại?
Câu trả lời nằm ở sự bao
dung trong môi chúng ta.
Ḥa B́nh
<<trở về đầu trang>>