Fax: +493046795841 Email: thongtinberlin@gmail.com Tel. +4917678132650
www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de

Anh Hùng và Phản Bội

Huy Phuong


Anh hùng có sá chi thua được,
Tiết nghĩa nào phai với đất trời.”

(Thủ Khoa Huân)


Chúng ta đă biết một nước Nhật anh hùng, người Nhật có trách nhiệm với quần chúng và tổ quốc. Trong chính quyền, các viên chức gây ra sự tổn thất hay tai nạn trong phần trách nhiệm của ḿnh đều tự xử bằng cách nhận lỗi và từ chức.

Seppuku (切腹, “stomach-cutting”) – harakiri (腹切り) mổ bụng Những sĩ quan Nhật lúc sa cơ thất trận biết chọn cái chết cho ḿnh để tṛn khí tiết. Trận Okinawa với quân đội Mỹ kéo dài 82 ngày, kết thúc vào tháng 6, 1945, trong những giờ phút cuối cùng biết không giữ nổi đất đai của tổ quốc, ngày 15 tháng 6, trong một hang động lớn, Đại Tá Kanayama, trung đoàn trưởng Trung Đoàn 27BB tập hợp 102 người c̣n lại của trung đoàn. Ông ta làm lễ đốt quân kỳ trung đoàn và nói: “Trong ba tháng vừa qua, anh em đă cùng tôi chiến đấu. Ḷng dũng cảm, chí hy sinh, sức chịu đựng của anh em, lịch sử sẽ khắc sâu. Nay tôi nói lời cám ơn anh em đă phục vụ quên ḿnh. Giờ đây, tôi tuyên bố giải thể trung đoàn. Từ nay trở đi, anh em không c̣n bị ràng buộc, tôi lănh trách nhiệm về việc này. Riêng tôi, tôi sẽ vĩnh viễn ở lại đây. Nhưng tôi cấm anh em theo tôi. Ra lệnh cho anh em phải sống để kể lại cho hậu thế biết quân đội Nhật Bản đă anh dũng chiến đấu như thế nào ở Okinawa.” Đoạn Đại Tá Kanayama rút gươm mổ bụng. Đại Úy Sato chặt đầu người chỉ huy theo đúng nghi thức rồi hô to TennMheika banzai! (Thiên Hoàng vạn tuế), dứt tiếng hô, ông chĩa súng lục vào đầu bóp c̣ tự sát. Cũng trong ngày 21 tháng 6, trong chỉ huy sở của ḿnh tại Mabumi, Tướng Ushijima và mọi người đều hớt tóc, cạo râu. Sau đó ông viết thư tŕnh lên Thiên Hoàng Hiro Hito báo cáo về t́nh h́nh chiến sự tại Okinawa và tạ tội không giữ được đảo. Thư được điện về Bộ Tổng Tham Mưu quân đội Hoàng Gia tại Tokyo. Cuối cùng, ông nói với Đại Tá Yahara: “Đại Tá Yahara, ông cũng như tôi lẽ ra phải tự sát. Nhưng tôi ra lệnh cho ông ở lại. Nếu ông chết, sau này c̣n ai có thẩm quyền để kể lại về trận chiến Okinawa này. Mặc dù sống sau khi thua trận là nhục nhă, nhưng tư lệnh của ông ra lệnh cho ông phải chịu cái nhục này.” Yahara do đó là sĩ quan cao cấp bên phía Nhật sống sót sau trận đánh và về sau ông đă cho xuất bản cuốn sách mang tựa đề “Trận Đánh V́ Okinawa.” Chiều ngày 22 tháng 6, Tướng Ushijima và Tướng Cho quỳ gối hướng về phía Bắc (hướng Hoàng Cung) vái ba vái và tiến hành lễ tự sát. Tướng Cho đưa cổ cho Đại Úy Sakaguchi chém đầu. Tướng Ushijima lấy gươm tự mổ bụng, tiếp theo đó bảy sĩ quan tham mưu cùng tự sát. Ngày 2 tháng 7, trận Okinawa chính thức chấm dứt. Hai tháng sau trận Okinawa, trong giai đoạn cuối cùng của Đệ II Thế Chiến, Mỹ đă thả hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima and Nagasaki của Nhật Bản, sáu ngày sau, 15 tháng 8, 1945, Nhật Hoàng mới dứt khoát chấp nhận Tuyên ngôn Potsdam, đồng ư đầu hàng. Biết tin này, một số sĩ quan trẻ trong quân đội Nhật định làm đảo chính, định tiêu diệt phái chủ hàng và buộc nhà vua chấp nhận quyết chiến đến cùng. Nhưng cuộc đảo chính đă không xẩy ra, khi lệnh đầu hàng ban ra, nhiều tướng lĩnh và sĩ quan đă tự sát, trong đó có Bộ Trưởng Lục Quân Anami, Đại Tướng cựu Tổng Tham Mưu Trưởng Sugiyama, Đại Tướng Tư Lệnh miền Đông Tanaka… Vào tháng 4 năm 1975, khi quân đội Cộng Sản đang trên đường tiến vào Nam Vang, người Mỹ đă mời Thủ Tướng Sirik Matak và toàn bộ chính phủ Miên nên ra đi, v́ ở lại th́ sẽ bị Khờ Me Đỏ sát hại. Ngày 16 tháng 4 năm 1975, Thủ Ttướng Sirik Matak đă viết một lá thơ vô cùng cảm động gởi cho đại sứ Mỹ tại Nam Vang là ông John Gunther Dean. Lá thư đầy nghĩa khí và tiết tháo của một người anh hùng “sinh vi tướng, tử vi thần,” nhưng cũng đầy cay đắng như sau: “Tôi chân thành cám ơn lá thư của quư ông, và ngỏ lời đưa tôi đến bến bờ tự do. Tôi th́ không thể rời bỏ nơi này một cách hèn nhát đến thế. Đối với quư ông và nhất là đối với đất nước nhân hậu này, tôi chưa hề tin rằng quư ông có ư nghĩ từ bỏ một dân tộc muốn t́m chọn tự do. Quư ông đă từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi đành bó tay. Quư ông đă rời bỏ chúng tôi, chúng tôi thật ḷng ao ước quư ông và quư quốc sẽ t́m thấy hạnh phúc dưới bầu trời này. Nhưng hăy nhớ rơ điều này, nếu tôi có chết ngay bây giờ, trên mảnh đất mà tôi yêu mến, th́ cũng chỉ v́ mọi người sinh ra rồi sẽ có ngày trở về cát bụi. Tôi chỉ có một lỗi lầm là đă tin vào người Mỹ các ông.
Xin ngài, người bạn quư, nhận nơi đây ḷng biết ơn chân thành của tôi.” (Hoàng Tử Sirik Matak) Khi Khờ Me Đỏ vào toàn bộ chính phủ Miên đều bị giết, riêng gia đ́nh ông Sirik Matak, từ con cháu đến các người giúp việc trong nhà ông đều bị Khmer Đỏ sát hại. Trong những ngày cuối cùng của VNCH, trước khi người Mỹ quyết định bỏ mặc cho VNCH tự chiến đấu chống cộng sản, Đại Sứ Martin của Hoa Kỳ đă chính thức gặp Tổng Thống Trần Văn Hương và mời tổng thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào, cũng như hứa sẽ bảo đảm cho tổng thống một đời sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho đến ngày trăm tuổi.


 

 

 Tổng Thống Trần Văn Hương đă trả lời: “Thưa ông đại sứ, tôi biết t́nh trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đă đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi bỏ nước ra đi, tôi rất cám ơn ông. Nhưng tôi đă suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhă sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lănh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi t́nh nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông đại sứ đă đến viếng tôi.” Ngày 30 tháng 4, 1975, Saigon thất thủ sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng quân Bắc Việt, Quân Đội Việt Nam chúng ta không thiếu anh hùng: bốn tướng lănh VNCH đă tự sát, đó là Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Vùng 2 Chiến Thuật, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Vùng 4 Chiến Thuật, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh SĐ21BB, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh SĐ5BB. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đă dùng độc dược, và ba tướng lănh sau dùng súng ngay tại Bộ Chỉ Huy của ḿnh.

 


Tướng PhạmVănPhú   Tướng LêVănHưng  Tướng Lê Nguyên Vỹ

 


Tướng NguyễnKhoaNam  Tướng Trần Văn Hai

 


Đại Tá Hồ ngọc Cẩn đă anh dũng chiến đấu tới cùng và không chịu đầu hàng.

Đại Tá Cẩn đă bị quân cộng sản đem ra xử trước công cộng và sau đó bị xử bắn tại chỗ.

 

Cũng như Đại Tá Kanayama, trung đoàn trưởng Trung Đoàn 27BB của trận Okinawa, Tướng Vỹ của B́nh Dương đă triệu tập một phiên họp bất thường, thật ngắn ngủi, để giải thích cho mọi người rơ lệnh đầu hàng. Ông nói: “Lệnh bắt chúng ta buông súng bàn giao cho địch, nói thẳng ra là đầu hàng… V́ tôi là một tướng chỉ huy mặt trận, tôi không thể thi hành được lệnh này. Tôi nghĩ thân làm tướng là phần nào đă hưởng vinh dự và ân huệ của Quốc Gia hơn các anh em, nên tôi phải chọn lấy con đường đi riêng cho tôi.” Cảm thấy nỗi nhục thất trận, không phải chỉ hàng tướng lănh, cấp tá như Trung Tá CSQG Nguyễn Văn Long, đă tự bắn vào đầu, chết dưới chân tượng TQLC trước Quốc Hội, Trung Tá Trần Đ́nh Chi, An Ninh Quân Đội đă tự sát tại văn pḥng ông ở Biên Hoà. Một hạ sĩ quan Quân Cảnh đă kết liễu đời binh nghiệp của ḿnh tại Biệt Khu Thủ Đô, và nhiều binh sĩ Nhảy Dù đă choàng vai vây ṿng tṛn với nhau trên đường lui ở Ngă Ba Ông Tạ, cũng như những toán TQLC trên băi biển Tư Hiền, với những quả lựu đạn mở chốt để cùng chết với nhau. Quyết định chọn cái chết là khó, nhưng cái chết diễn ra rất nhanh, chọn sự sống là dễ, nhưng sự sống kéo dài làm người ta tủi nhục. Trong khi đó ngày 7 tháng 5, 1954, Điện Biên Phủ thất thủ, tướng chỉ huy De Castries đă ra đầu hàng, bị bắt làm tù binh và được trao trả sau Hiệp Định Genève. Ông rời quân ngũ năm 1959 và qua đời năm 1991 tại Paris, Pháp. Ông có trở lại thăm chiến trường xưa nhưng không hề ca tụng kẻ thù. Trái lại Đại Tá Bigeard, bị bắt tại Điện Biên Phủ, sau 50 năm đă ca tụng kẻ thù và chê quân đội Pháp. Tương tự như vậy, bên cạnh những hào kiệt đă tuẫn tiết, quân đội chúng ta cũng có những mạt tướng không chịu chết cho đời thương tiếc, mà sống để lại ô danh và tủi nhục cho đồng đội đă hy sinh xuơng máu cho sự nghiệp, chạy về quị lụy ôm chân kẻ thù xưa. Bên cạnh những anh hùng, cũng có những kẻ phản bội. Chúng ta liên tưởng đến hai câu thơ của Cụ Phan Bội Châu: Dù lịch sử, cha ông thây kệ
Nhục hay vinh họ kể ǵ đâu!
Người xưa đă nói: “Không lấy thành bại mà luận anh hùng.” Nếu hôm nay chúng ta mỗi năm đến ngày 30 tháng 4 c̣n ngẩng mặt nh́n đời được là nhờ hào quang của những người đă chết, rửa mặt cho miền Nam. C̣n chúng ta sống, kéo dài cuộc sống làm sao để cho khỏi hổ thẹn.

 

Huy Phương


<<trở về đầu trang>>
free counters