Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Đảng lệ đè pháp luật?
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ
Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương Nguyễn Văn Chi bảo kê
bỏ tù những người tố cáo Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá
Thanh tham nhũng hay Đảng lệ đè pháp luật?
Dù
muốn hay không, Ban lănh đạo Đảng cộng sản và Nhà nước Việt
Nam cũng đă phải thừa nhận “Tham nhũng là quốc nạn” với việc
lập ra cả một Ban chỉ đạo trung ương chống tham nhũng do Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng cầm chịch có chân rết trong tất cả các
Bộ, ngành và địa phương. Điều này không chỉ cho thấy tham
nhũng có phạm vi toàn Việt mà c̣n cho thấy cuộc chiến chống
tham nhũng là Một mất một c̣n.
Chỉ lấy ví dụ ở Đà Nẵng, đáng tiếc là các thế lực tham nhũng
và bao che tham nhũng đang thắng thế với việc những người tố
cáo hành vi “nhận hối lộ” của Bí thư thành ủy Đảng Cộng sản
Việt Nam, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, Đại biểu
Quốc Hội Nguyễn Bá Thanh, bị Hội đồng xét xử Ṭa phúc thẩm –
Ṭa án nhân dân tối cao do thẩm phán Trần Mẫn làm Chủ tọa bỏ
tù vào cuối tháng 12 năm ngoái do đă “Lợi dụng các quyền tự
do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân”?!
Mọi chuyện bắt đầu từ Công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000
của Viện KSND thành phố Đà Nẵng gửi Lănh đạo Viện KSNDTC và
Công văn số 77/KSĐT/KT ngày 01/11/2000 của Viện KSND thành
phố Đà Nẵng gửi Viện trưởng Viện KSNDTC và Bí thư Thành ủy
Đà Nẵng Phan Diễn đề nghị xử lư Nguyễn Bá Thanh về tội nhận
hối lộ của Phạm Minh Thông, Giám đốc Công ty hợp doanh xây
lắp và kinh doanh nhà Đà Nẵng, Nguyễn Hưng, Chỉ huy phó Công
tŕnh đường Bắc Nam.
Đặc biệt Công văn số 77/KSĐT/KT ghi rơ:
“Thông khai có đưa cho ông
Nguyễn Bá Thanh - Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng
nhiều lần số tiền là 4.425 triệu đồng theo yêu cầu của ông
Thanh là Công ty muốn được thanh toán vốn nhanh phải trích
lại cho ông 5% trên số vốn do công tŕnh xây dựng bằng vốn
ngân sách và 150.000đ/m2 trên số mét vuông đất do Ủy ban
nhân dân thanh toán bằng quỹ đất đường Bắc Na… Với các tài
liệu, chứng cứ nêu trên, vào chiều ngày 31/10/2000 sau khi
phân tích một cách sâu sắc và có trách nhiệm, th́ có 5/7
thành viên Ủy ban kiểm sát thống nhất Phạm Minh Thông,
Nguyễn Hưng phạm tội: Đưa hối lộ, Nguyễn Bá Thanh phạm tội:
Nhận hối lộ. Do đó nếu vụ án dừng lại chỉ xử lư quy buộc số
tiền trên cho Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng mà không điều
tra, xử lư đối tượng nhận tiền th́ sẽ oan cho người đưa
tiền, trong khi đó người đ̣i hối lộ th́ vô can, dư luận nhân
dân không đồng t́nh và vụ án không được giải quyết triệt để
và thỏa đáng”.
Do hai công văn này cùng với những lá đơn tố cáo hành vi
tham nhũng của Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh được
một công dân thành phố Đà Nẵng là Đinh Công Sắt lưu hành
trong dân chúng mà trong mắt Công an thành phố Đà Nẵng là
hành vi xâm hại đến uy tín, danh dự của Nguyễn Bá Thanh nên
vụ án “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”
đă được khởi tố. Trong số các bị can rồi tiếp đó là bị cáo
ngoài Thiếu tướng Trần Văn Thanh, Chánh Thanh tra Bộ Công
an, người đă tổ chức điều tra hành vi “nhận hối lộ” của
Nguyễn Bá Thanh, c̣n có một cán bộ công an khác là Trung tá
Dương Tiến, Trưởng Đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí
Minh.
Nếu như Thiếu tướng Trần Văn Thanh đă là nạn nhân của sự trả
thù tư pháp phi nhân chưa từng thấy trong lịch sử thế giới
hiện đại khi ông bị Chánh án Ṭa án nhân dân thành phố Đà
Nẵng Nguyễn Văn Quận điệu ra nơi xét xử khi đang hôn mê và
bị Ṭa phúc thẩm Ṭa án nhân dân tối cao xử 12 tháng tù
treo, Trung tá Dương Tiến bị Ṭa án thành phố Đà Nẵng kết án
17 tháng 5 ngày tù giam và bị Hội đồng xét xử phúc thẩm y
án, đúng bằng thời gian ông bị giam cầm trái pháp luật. Và
phân tích sau đây chỉ riêng những hành vi phản pháp luật thể
hiện trong bản án h́nh sự phúc thẩm đối với Trung tá Dương
Tiến cũng đă đủ cho thấy thế lực tham nhũng có tính hệ thống
trả thù những người chống tham nhũng điên cuồng và hèn hạ
đến mức nào.
Hội đồng xét xử phúc thẩm đă kết án Trung tá Dương Tiến với
lời buộc tội sau đây:
“Tại đơn kháng cáo kêu oan cũng như tại phiên ṭa sơ thẩm
trước đây và phiên ṭa phúc thẩm hôm nay, bị cáo chỉ thừa
nhận vào ngày 14/5/2007, tại Văn pḥng đại diện báo Công an
TP. Hồ Chí Minh tại Hà Nội, bị cáo có giao cho Đinh Công Sắt
tài liệu gồm: công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000 và công
văn số 77/KSĐT-KT ngày 01/11/2000 của VKSND TP. Đà Nẵng gửi
lănh đạo VKSNDTC và Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, nội dung công
văn có nêu kết quả điều tra vụ án Phạm Minh Thông, trong đó
có một số lời khai của Phạm Minh Thông có liên quan đến lănh
đạo thành phố Đà Nẵng; bị cáo không thừa nhận có bảo Đinh
Công Sắt đem tài liệu về phát tán cho dân Đà Nẵng đọc.
Xét thấy, vụ án Phạm Minh Thông và vụ án Nguyễn Hưng đă được
Ṭa phúc thẩm Ṭa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xét xử
phúc thẩm từ năm 2002, án đă có hiệu lực pháp luật, không có
cán bộ lănh đạo nào của thành phố Đà Nẵng liên quan đến bản
án đă xét xử. Do đó mọi hành vi nhằm xúc phạm đến uy tín,
danh dự lănh đạo thành phố Đà Nẵng trong vụ án trên là phạm
pháp.
Tại các biên bản ghi lời khai và tại các bản tường thuật
trong giai đoạn điều tra cho thấy bị cáo Dương Tiến khi cung
cấp hai công văn 73,77/KSĐT-KT nói trên đă bảo với Đinh Công
Sắt đem đi photocopy nhiều bản, mang về cho dân Đà Nẵng đọc.
Lời khai này phù hợp với lời khai của Đinh Công Sắt. Tài
liệu này cùng với một số tài liệu khác sau đó đă được Sắt
phát tán nhiều nơi, cho nhiều người tại địa bàn thành phố Đà
Nẵng vào các ngày 15,16,17,18/
Về việc bị cáo Dương Tiến và Luật sư cho rằng công văn 73,77
không có dấu mật, công khai, ai đọc cũng được là điều không
thể chấp nhận. Bởi lẽ bị cáo là công an, đồng thời giữ chức
vụ Trưởng Văn pḥng đại diện của một tờ báo ngành công an,
bị cáo phải nhận thức rơ nội dung 2 công văn trên có đề cập
đến cá nhân lănh đạo địa phương, v́ vậy chỉ có người có thẩm
quyền mới được biết.
Việc Dương Tiến đă chủ động gọi cho Đinh Công Sắt ra Hà Nội
để cung cấp 2 công văn trên, hỗ trợ tiền cho Sắt làm chi phí
đi lại, bảo Sắt mang về tán phát đă thể hiện rơ mục đích, ư
thức phạm tội của bị cáo. Do biết đây là hành vi vi phạm
pháp luật nên bị cáo đă dặn Sắt “Phải cẩn thận”. Sau đó ngày
17/5/2007, bị cáo vào Đà Nẵng gặp Đinh Công Sắt để nắm t́nh
h́nh dư luận Đà Nẵng sau khi Sắt tán phát tài liệu như lời
khai tại bút lục 912, ngày 04/3/2008. Trong vụ án này, Dương
Tiến và bị cáo Đinh Công Sắt là đồng phạm về hành vi tán
phát tài liệu 2 công văn 73,77/KSĐT-KT tại thời điểm gần đến
ngày bầu cử Quốc hội khóa 12, làm ảnh hưởng đến hoạt động
của Nhà nước, tổ chức xă hội địa phương về công tác bầu cử,
làm ảnh hưởng đến uy tín của người khác. Dương Tiến là đồng
phạm với Đinh Công Sắt về hành vi trên. Án sơ thẩm không quy
buộc bị cáo Tiến là đồng phạm với Trần Văn Thanh và Nguyễn
Phi Duy Linh.
Với những căn cứ trên, xét án sơ thẩm áp dụng Khoản 1 Điều
258 BLHS để xử phạt Dương Tiến về “Tội lợi dụng các quyền tự
do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân” là có căn cứ, đúng tội. Do
đó, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị
cáo cũng như quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo”.
Thế nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đă cố t́nh kết án oan
Trung tá Dương Tiến v́ vụ án h́nh sự này không có người bị
hại như chứng minh sau đây.
Điều 8 BLHS quy định:
“Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xă hội được quy định trong Bộ luật
h́nh sự, do người có năng lực trách nhiệm h́nh sự thực hiện
một cách cố ư hoặc vô ư, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
công dân…” , Điều 51 BLTTHS quy định:
“Người bị hại là người bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”
.
Rồi các Điều 68, 137 BLTTHS quy định về lời khai của người
bị hại, Điều 191 BLTTHS quy định sự có mặt của người bị hại
tại phiên ṭa… Như vậy, theo pháp luật h́nh sự, tội phạm
được xác định bởi người bị hại, không có người bị hại th́
không có tội phạm.
Chắc chắn “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân” không thuộc các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe
và v́ thế người bị hại bởi tội phạm này chắc chắn không chết
hoặc mất năng lực hành vi dân sự, đồng nghĩa với việc người
bị hại phải lên tiếng về tội phạm bằng cách này hay cách
khác.
Công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000 của Viện KSND thành
phố Đà Nẵng gửi Lănh đạo VKSNDTC và Công văn số 77/KSĐT/KT
ngày 01/11/2000 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng gửi Đ/c Viện
trưởng VKSNDTC và Đ/c Phan Diễn, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng đều
đề cập đến việc Nguyễn Bá Thanh, Chủ tịch UBND thành phố Đà
Nẵng đă nhận hối lộ của Phạm Minh Thông, Giám đốc Công ty
hợp doanh xây lắp và kinh doanh nhà Đà Nẵng, Nguyễn Hưng,
Chỉ huy phó Công tŕnh đường Bắc Nam.
Đặc biệt Công văn số 77/KSĐT/KT ghi rơ:
“Thông khai có đưa cho ông
Nguyễn Bá Thanh - Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng
nhiều lần số tiền là 4.425 triệu đồng theo yêu cầu của ông
Thanh là Công ty muốn được thanh toán vốn nhanh phải trích
lại cho ông 5% trên số vốn do công tŕnh xây dựng bằng vốn
ngân sách và 150.000đ/m2 trên số mét vuông đất do Ủy ban
nhân dân thanh toán bằng quỹ đất đường Bắc Nam… Với các tài
liệu, chứng cứ nêu trên, vào chiều ngày 31/10/2000 sau khi
phân tích một cách sâu sắc và có trách nhiệm, th́ có 5/7
thành viên Ủy ban kiểm sát thống nhất Phạm Minh Thông,
Nguyễn Hưng phạm tội: Đưa hối lộ, Nguyễn Bá Thanh phạm tội:
Nhận hối lộ. Do đó nếu vụ án dừng lại chỉ xử lư quy buộc số
tiền trên cho Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng mà không điều
tra, xử lư đối tượng nhận tiền th́ sẽ oan cho người đưa
tiền, trong khi đó người đ̣i hối lộ th́ vô can, dư luận nhân
dân không đồng t́nh và vụ án không được giải quyết triệt để
và thỏa đáng”.
Như vậy, theo quan điểm của Hội đồng xét xử phúc thẩm, việc
Trung tá Dương Tiến, cung cấp 02 công văn 73,77/KSĐT-KT của
Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng cho Đinh Công Sắt
là hành vi “xúc phạm đến uy tín, danh dự” của Nguyễn Bá
Thanh, Bí thư Thành ủy ĐCSVN thành phố Đà Nẵng, Đại biểu
Quốc hội, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng và do đó
Nguyễn Bá Thanh là “người bị hại”. Thế nhưng, trong toàn bộ
hồ sơ của vụ án phần liên quan đến Trung tá Dương Tiến không
có bất cứ dấu vết nào dù là nhỏ nhất cho thấy Nguyễn Bá
Thanh là “người bị hại”, chẳng hạn như: đơn tố cáo, lời khai
của chính Nguyễn Bá Thanh tại Cơ quan điều tra về hành vi
phạm tội của Trung tá Dương Tiến. Mà đă không có “người bị
hại” th́ không thể có việc Trung tá Dương Tiến phạm tội.
Tóm lại, chỉ riêng việc không có “người bị hại” trong vụ án
h́nh sự này cũng đă đủ chứng minh Trung tá Dương Tiến hoàn
toàn vô tội. Do đó, việc Hội đồng xét xử phúc thẩm đưa vụ án
ra xét xử mà lẽ ra phải đ́nh chỉ theo Khoản 2 Điều 239
(Kháng cáo kháng nghị những quyết định của Ṭa án cấp sơ
thẩm) Bộ Luật TTHS và hơn thế nữa, kết án Trung tá Dương
Tiến dứt khoát là hành vi phạm “Tội truy cứu trách nhiệm
h́nh sự người không có tội” quy định tại Điều 294 và “Tội ra
bản án trái pháp luật” quy định tại Điều 295 Bộ Luật H́nh
sự!
Như vậy, người viết bài này đă chứng minh xong sự vô tội của
Trung tá Dương Tiến cũng như chứng minh xong tội phạm “Truy
cứu trách nhiệm h́nh sự người không có tội” của Hội đồng xét
xử phúc thẩm – Ṭa án nhân dân thành phố Đà Nẵng do Thẩm
phán Trần Mẫn làm Chủ tọa. Tuy nhiên,
điều nghiêm trọng hơn rất nhiều là
Hội đồng xét xử phúc thẩm kết án oan Trung tá Dương Tiến
không hẳn do dốt nát về nghiệp vụ hoặc do có vấn đề về tâm
thần mà là do cố ư hăm hại người vô tội nhằm bao che hành vi
“nhận hối lộ” của Bí thư Thành ủy Đảng cộng sản Việt Nam,
Đại biểu Quốc hội, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng
Nguyễn Bá Thanh.
Thực vậy, có cả một loạt chứng cứ chứng minh nhận định này.
1. Hội đồng xét xử phúc thẩm bịa đặt căn cứ để kết tội
Pháp luật quy định các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có thể
điều tra, kiểm sát, xét xử trên cơ sở các quy định của pháp
luật. Thế nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đưa ra ít nhất 02
căn cứ không có trong bất kỳ văn bản pháp luật nào để kết
tội Trung tá Dương Tiến.
Tại bản án phúc thẩm có ghi:
“Xét thấy, vụ án Phạm Minh Thông và vụ án Nguyễn Hưng đă
được Ṭa phúc thẩm Ṭa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xét
xử phúc thẩm từ năm 2002, án đă có hiệu lực pháp luật, không
có cán bộ lănh đạo nào của thành phố Đà Nẵng liên quan đến
bản án đă xét xử. Do đó mọi hành vi nhằm xúc phạm đến uy
tín, danh dự lănh đạo thành phố Đà Nẵng trong vụ án trên là
phạm pháp”.
Sự bịa đặt của Hội đồng xét xử phúc thẩm được thể hiện như
sau:
Thứ nhất
, không có bất cứ văn bản pháp luật nào quy định bản án h́nh
sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật đối với người không phải
là bị cáo. V́ vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm muốn bản án
h́nh sự phúc thẩm vụ án Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng có
hiệu lực pháp luật với Nguyễn Bá Thanh th́ nhân vật này bắt
buộc phải là bị cáo trong vụ án này. Thế nhưng Nguyễn Bá
Thanh không phải là bị cáo trong vụ án v́ chưa bị Công an
thành phố Đà Nẵng khởi tố bị can để điều tra để rồi bị Viện
kiểm sát truy tố ra Ṭa án để xét xử về “Tội nhận hối lộ”
quy định tại Điều 279 Bộ Luật H́nh sự!
Nói cách khác, muốn pháp luật xác nhận Nguyễn Bá Thanh không
phạm “Tội nhận hối lộ” của Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng
th́ cách duy nhất là phải khởi tố bị can và truy tố Nguyễn
Bá Thanh ra Ṭa án để rồi Hội đồng xét xử tuyên Nguyễn Bá
Thanh không phạm tội sau khi bác bỏ những chứng cứ buộc tội
của đại diện Viện kiểm sát thực hiện công tố đối với nhân
vật này. Đó chính là điều mà Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà đă
không dưới 2 lần cấp thiết đề nghị ngay giữa phiên ṭa trước
một cử tọa đông đảo nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đă cố
t́nh lờ đi.
Thứ hai
, không có bất cứ quy định pháp luật nào cấm công dân tiếp
tục tố cáo hành vi phạm pháp của lănh đạo thành phố Đà Nẵng
nói chung, hành vi phạm pháp của Nguyễn Bá Thanh nói riêng
với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ngay cả trong trường
hợp Nguyễn Bá Thanh với tư cách bị cáo được Ṭa án tuyên vô
tội như giả thiết nêu trên.
Nhân đây cần khẳng định rằng chống tham nhũng là sự nghiệp
của toàn dân chứ không phải là việc riêng của chính quyền và
các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng nghĩa hoạt động của các
cơ quan này phải chịu sự giám sát chặt chẽ của người dân và
của xă hội thông qua báo chí. Để nói việc Trung tá Dương
Tiến đưa cho Đinh Công Sắt xem hai công văn số 73 và
77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng là hoàn toàn
chính đáng và cần thiết, không chỉ trao đổi thông tin để
chống tham nhũng có hiệu quả hơn mà c̣n để giám sát chính
quyền nói chung, cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng trong
đấu tranh chống tham nhũng!
Theo Khoản 3 Điều 8 BLHS th́ “Tội nhận hối lộ” là tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm
h́nh sự đối với tội phạm này quy định tại Điểm d Khoản 2
Điều 23 BLHS là 20 năm. Do Nguyễn Bá Thanh chưa bị Công an
thành phố Đà Nẵng khởi tố để điều tra về hành vi nhận hối lộ
như Viện KSND thành phố Đà Nẵng đề xuất tại 02 công văn 73
và 77/KSĐT-KT nên việc công dân phẫn nộ, tiếp tục tố cáo
hành vi phạm pháp này của Nguyễn Bá Thanh không những là
b́nh thường mà c̣n rất cần thiết để các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xử lư Nguyễn Bá Thanh một cách triệt để bằng biện
pháp tư pháp.
Tóm lại, tố cáo là quyền công dân được Hiến pháp và Luật
khiếu nại, tố cáo bảo hộ. Do đó việc Hội đồng xét xử phúc
thẩm xét xử và kết án những người liên quan đến việc tố cáo
Nguyễn Bá Thanh nhận hối lộ rơ ràng là hành vi cản trở việc
tố cáo và cản trở việc xử lư ông Thanh theo pháp luật và v́
vậy phạm “Tội xâm phạm quyền khiếu nại tố cáo” quy định tại
Điểm a Khoản 1 Điều 132 Bộ Luật H́nh sự.
Ngoài ra, tại bản án phúc thẩm c̣n ghi: “bị cáo Dương Tiến
và Luật sư cho rằng công văn 73,77 không có dấu mật, công
khai, ai đọc cũng được là điều không thể chấp nhận. Bởi lẽ
bị cáo là công an, đồng thời giữ chức vụ Trưởng Văn pḥng
đại diện của một tờ báo ngành công an, bị cáo phải nhận thức
rơ nội dung 2 công văn trên có đề cập đến cá nhân lănh đạo
địa phương, v́ vậy chỉ có người có thẩm quyền mới được
biết”.
Sự bịa đặt của Hội đồng xét xử phúc thẩm được thể hiện như
sau:
Thứ nhất
, không có bất cứ quy định pháp luật nào cấm công dân đọc
công văn có dấu “Mật” của các cơ quan Nhà nước huống chi
công văn không có dấu “Mật” như hai công văn số 73 và
77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Thứ hai
, không có bất cứ văn bản pháp luật nào quy định công văn đề
cập đến cá nhân lănh đạo chính quyền địa phương chỉ người có
thẩm quyền mới được biết.
Tóm lại, chỉ trong trường hợp tài liệu có dấu “Mật” bị lọt
ra ngoài xă hội th́ mới có thể truy cứu trách nhiệm và người
bị truy cứu trách nhiệm là người có thẩm quyền đă để lọt tài
liệu đó ra ngoài chứ tuyệt nhiên không thể truy cứu trách
nhiệm người dân hay người không có thẩm quyền đă đọc tài
liệu đó.
2. Hội đồng xét xử phúc thẩm tự mâu thuẫn khi một mặt, mặc
nhiên thừa nhận Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam,
nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội
Nguyễn Bá Thanh có hành vi “nhận hối lộ” như kết luận của
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại 02 công văn số
73 và 77/KSĐT-KT nhưng mặt khác, lại kết luận việc lưu hành
02 công văn này xúc phạm danh dự, uy tín của Nguyễn Bá Thanh
Nếu Hội đồng xét xử cho rằng việc lưu hành 02 công văn số 73
và 77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng
là hành vi xúc phạm danh dự, uy tín của Bí thư Thành ủy Đảng
Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng,
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thanh th́ người có hành vi này
phải biết rơ những điều mà họ loan truyền, lưu hành là bịa
đặt, tương tự hành vi của người phạm “Tội vu khống” quy định
tại Điều 122 Bộ Luật H́nh sự.
Thế nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đă không đả động một
chút nào đến nội dung của 02 công văn này, tức mặc nhiên
thừa nhận việc Nguyễn Bá Thanh nhận hối lộ không phải là bịa
đặt, tức có thực.
Điều đáng lưu ư là ngoài hai công văn 73,77 của Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, theo Thiếu tướng Trần Văn
Thanh, Chánh Thanh tra Bộ Công an tại Bản tŕnh bày ngày
03/11/2008 làm theo yêu cầu của tổ công tác liên ngành kèm
theo công văn 3429/VKSTC-V2 ngày 30/10/2008 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, c̣n có nhiều văn bản của các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền khác xác nhận các đơn tố cáo về hành
vi tham nhũng của Nguyễn Bá Thanh của một số công dân thành
phố Đà Nẵng (trong đó có đơn tố cáo của Đinh Công Sắt) là có
cơ sở và đề xuất xử lư h́nh sự Nguyễn Bá Thanh như:
- Báo cáo số 73/BC-VPBCĐ ngày 26/10/2007 của Văn pḥng Ban
chỉ đạo Trung ương về pḥng chống tham nhũng gửi Thủ tướng
Chính phủ và Thường trực Ban bí thư và Báo cáo số
38/BC-VPBCĐ ngày 07/4/2008 của Văn pḥng Ban chỉ đạo Trung
ương về pḥng chống tham nhũng gửi Ban Bí thư Trung ương
Đảng đề xuất xử lư Nguyễn Bá Thanh theo quy định của pháp
luật.
- Kết luận thanh tra số 524/KLTT-BCA (V24) ngày 06/6/2008
của Bộ Công an xác định có đủ căn cứ để khởi tố vụ án và bị
can đối với Nguyễn Bá Thanh và việc Công an thành phố Đà
Nẵng không khởi tố để điều tra là vi phạm Điều 103, 104
BLTTHS, có dấu hiệu vi phạm Điều 294 BLHS.
3. Hội đồng xét xử phúc thẩm cố ư vi phạm tố tụng h́nh sự do
đă không triệu tập ông Nguyễn Trịnh Thăng tham gia tố tụng
với tư cách nhân chứng duy nhất cuộc gặp giữa Đinh Công Sắt
và Trung tá Dương Tiến, ngày 14/5/2007 tại Văn pḥng đại
diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội.
Ngày 11/01/2010, ông Nguyễn Trịnh Thăng, thường trú tại Tổ
42 An Ḥa, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng đă viết Đơn gửi Chánh án Ṭa án nhân dân tối cao tố cáo
Hội đồng xét xử sơ thẩm – Ṭa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
do Thẩm phán Nguyễn Thành làm Chủ tọa và Hội đồng xét xử
phúc thẩm – Ṭa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng do thẩm phán
Trần Mẫn làm Chủ tọa đă cố ư gạt bỏ ông Thăng với tư cách
nhân chứng để kết án oan Trung tá Dương Tiến cho bằng được.
Nội dung Đơn tố cáo như sau:
“Vào ngày 14/05/2007, ông Sắt gọi điện thoại cho tôi báo ông
Sắt đă ra đến Hà Nội và đề nghị tôi cùng đến gặp ông Dương
Tiến tại Văn pḥng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí
Minh tại Hà Nội. Khoảng 5 đến 6 giờ tối cùng ngày tôi và ông
Sắt được ông Dương Tiến tiếp tại pḥng khách của Văn pḥng
và ông Sắt có đưa cho ông Dương Tiến một tập tài liệu (nội
dung tài liệu th́ tôi không được biết). Do thấy hai người
nói chuyện cho nên tôi xin phép ra ngoài khoảng 15 phút. Khi
quay lại th́ tôi thấy ông Sắt đang đọc hai tài liệu. Sau đó
ông Sắt có đưa cho tôi xem qua th́ tôi được biết đây là 02
Công văn số 73,77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Đà Nẵng đề nghị xử lư ông Nguyễn Bá Thanh, Chủ tịch UBND
thành phố Đà Nẵng lúc đó, do đă nhận hối lộ của Phạm Minh
Thông. Đọc xong tôi trả lại hai tài liệu này cho ông Sắt.
Lúc này ông Sắt nói với ông Dương Tiến cho ông Sắt mượn 02
Công văn số 73,77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Đà Nẵng để đi photocopy và ông Dương Tiến đồng ư. Sau đó
ông Sắt rủ tôi cùng đi đến một cửa hàng photocopy thuộc
phường Cát Linh nhưng do cửa hàng đó đóng cửa nên ông Sắt
bảo tôi vào quán uống nước đợi ông. Khoảng 20 phút sau ông
Sắt quay lại và bảo tôi đi cùng để trả hai tài liệu trên cho
ông Dương Tiến. Sau khi trả hai tài liệu, ông Sắt nói với
ông Dương Tiến rằng ông Sắt không có tiền để về Đà Nẵng th́
ông Dương Tiến đưa cho ông Sắt một triệu đồng để hỗ trợ. Sau
đó tôi đưa ông Sắt ra ga Hà Nội để về Đà Nẵng, c̣n tôi th́
vẫn ở lại Hà Nội.
Vào ngày 16-17/05/20007, ông Dương Tiến vào Đà Nẵng và ở tại
khách sạn Xanh và có nhờ tôi chở đi xem một số dự án, công
tŕnh mà các công dân Đà Nẵng đang khiếu kiện mà ông Tiến đă
phản ánh qua bài báo “Nguyên nhân nào một số công dân Đà
Nẵng khiếu kiện gay gắt” đăng trên báo Công an thành phố Hồ
Chí Minh ngày 10/05/2007. Tôi có chở ông đi một số nơi trong
đó có dự án sân vận động Chi Lăng, dự án thủy sản Thọ Quang
đường Liên Chiểu, Thuận Phước… Trong thời gian ở khách sạn
Xanh, ông Dương Tiến nhận được một bản fax bài viết của ông
Trần Đ́nh Bá và có cho tôi và ông Sắt xem ngay tại quán cà
fê của khách sạn. Xem xong, chúng tôi trả lại ông Dương Tiến
bản fax đó.
Kết luận lại, tôi, Nguyễn Trịnh Thăng, một lần nữa khẳng
định ông Dương Tiến không hề:
1. Bảo chúng tôi, Nguyễn Trịnh Thăng và Đinh Công Sắt phát
tán 02 Công văn số 73 và 77 của Viện kiểm sát thành phố Đà
Nẵng cho nhân dân Đà Nẵng đọc;
2. Vào Đà Nẵng chỉ để theo dơi, nắm t́nh h́nh dư luận về bài
báo của ông viết về Đà Nẵng;
3. Cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của ông Trần Đ́nh Bá
với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng
cho mục đích khiếu nại, tố cáo.
Là người có mặt trong các cuộc gặp giữa ông Dương Tiến và
ông Đinh Công Sắt nhưng tôi không hề được cấp Ṭa sơ thẩm
cũng như cấp Ṭa phúc thẩm triệu tập tham gia tố tụng với tư
cách nhân chứng. Điều này cho thấy cả hai cấp Ṭa đă chủ
định kết án oan ông Dương Tiến nên mới gạt tôi, Nguyễn Trịnh
Thăng, nhân chứng chứng minh ông Dương Tiến vô tội, ra khỏi
thành phần tham gia tố tụng trong vụ án “Lợi dụng các quyền
tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
4. Thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên Ṭa phúc thẩm đă vi
phạm nghiêm trọng Điều 218 (Đối đáp) Bộ Luật tố tụng h́nh
sự.
Điều 218 (Đối đáp) Bộ Luật h́nh sự quy định:
“Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác
có quyền tŕnh bày ư kiến về luận tội của Kiểm sát viên và
đưa ra đề nghị của ḿnh; Kiểm sát viên phải đưa ra những lập
luận của ḿnh đối với từng ư kiến.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ư kiến của người
khác. Chủ tọa phiên ṭa không được hạn chế thời gian tranh
luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận
tŕnh bày hết ư kiến, nhưng có quyền cắt những ư kiến không
có liên quan đến vụ án.
Chủ tọa phiên ṭa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp
lại những ư kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác mà những ư kiến đó chưa
được Kiểm sát viên tranh luận”.
Thế nhưng Thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên Ṭa phúc thẩm đă
liên tục vi phạm quy định tố tụng h́nh sự này:
Ø Khi Luật sư Nguyễn Thị Dương bắt đầu tranh luận th́ ngăn
Luật sư bằng cách nói là chưa đến phần tranh luận. Khi Luật
sư đ̣i tranh luận, đối đáp với đại diện Viện kiểm sát th́
lại nói là phần tranh luận đă qua rồi, Luật sư không được
tranh luận nữa?!
5.- Nhiều lần cắt ngang, ngăn cản Luật sư Nguyễn Thị Dương
Hà thực hiện bào chữa thô bạo đến mức Luật sư phải tuyên bố
thẳng thừng là Chủ tọa phiên ṭa đă vi phạm nghiêm trọng
Điều 218 Bộ Luật tố tụng h́nh sự th́ mới chịu để Luật sư
tiếp tục công việc của ḿnh.
Ø Không yêu cầu Kiểm sát viên đáp lại những ư kiến có liên
quan đến vụ án của Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà mà những ư
kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
6.- Nhiều lần trực tiếp tranh luận với Luật sư thay cho đại
diện Viện kiểm sát, vi phạm tính khách quan của Hội đồng xét
xử!!!
7.-Ra lệnh cho nhân viên kỹ thuật tắt micro mỗi khi Luật sư
Nguyễn Thị Dương Hà thực hiện công việc bào chữa nhằm ngăn
cử tọa nghe được nội dung bào chữa liên quan đến hành vi
“nhận hối lộ” của ông Nguyễn Bá Thanh!!!
8. Thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên Ṭa phúc thẩm đă vi
phạm nghiêm trọng tố tụng h́nh sự khi cho phép vị đại diện
Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng - không phải là người
tham gia tố tụng h́nh sự theo quy định tại Chương IV Bộ Luật
tố tụng h́nh sự - lên án các bị cáo ngay giữa phiên ṭa để
bênh ông Nguyễn Bá Thanh.
Việc thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên ṭa phúc thẩm cho
phép đại diện Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng không phải
là người tham gia tố tụng phát biểu ư kiến trong khi lại
ngăn cản Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà là người tham gia tố
tụng thực hiện quyền bào chữa được pháp luật tố tụng h́nh sự
bảo hộ là bằng chứng không thể chối căi về việc Hội đồng xét
xử phúc thẩm cố ư làm trái luật pháp nhằm bao che hành vi
“nhận hối lộ” của Nguyễn Bá Thanh và nhằm bao che hành vi
“truy cứu trách nhiệm h́nh sự người không có tội” và hành vi
“ra bản án trái pháp luật” của Ṭa án nhân dân thành phố Đà
Nẵng do thẩm phán Nguyễn Thành làm Chủ tọa.
Cũng cần nói thêm rằng việc thay Thẩm phán trước đó đă được
giao nhiệm vụ Chủ tọa Hội đồng xét xử phúc thẩm bằng thẩm
phán Trần Mẫn chuẩn bị nghỉ hưu và việc Thẩm phán họ Trần
này đă phải tập dượt xử án v́ đă lâu không ngồi ṭa theo một
nguồn tin đáng tin cậy càng chứng tỏ Thẩm phán này không có
vai tṛ nào khác là tuyên một bản án “bỏ túi” hay được định
sẵn để bỏ tù những người đă “dám” tố cáo hành vi tham nhũng
của Nguyễn Bá Thanh!
Ngoài những hành vi cố ư xâm phạm pháp luật tố tụng nói
trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm c̣n cố ư lờ đi những phản
bác của Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà đối với hành vi “viết
bài không đúng sự thật về t́nh h́nh Đà Nẵng nhằm gây ảnh
hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lănh đạo cũng như chính
quyền thành phố Đà Nẵng” và hành vi “cung cấp cho Đinh Công
Sắt bài viết của nhà báo Trần Đ́nh Bá với những nội dung
không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu
nại, tố cáo” mà Ṭa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đă buộc
cho Trung tá Dương Tiến. Nói cách khác, Hội đồng xét xử phúc
thẩm t́m mọi cách để bao che Bản án trái pháp luật của Ṭa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Kết luận lại, bằng việc xâm phạm trắng trợn pháp luật tố
tụng h́nh sự, bịa đặt chứng cứ để kết tội Trung tá Dương
Tiến như trên đă chứng minh, Hội đồng xét xử phúc thẩm – Ṭa
án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng do thẩm phán Trần Mẫn làm
Chủ tọa là điển h́nh xâm phạm hoạt động tư pháp, khép tội
oan công dân nhằm bao che tham nhũng và trả thù người chống
tham nhũng!
Không chấp nhận Bất công tột bậc này của những kẻ nhân danh
Công lư tại Đà Nẵng, ngày 19/5 vừa qua, đúng sinh nhật lần
thứ 120 của Hồ Chí Minh, người khai sáng Đảng Cộng sản và
Nhà nước Việt Nam, Trung tá Dương Tiến đă chính thức gửi
Chánh án Ṭa án nhân dân tối cao Trương Ḥa B́nh và Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trần Quốc Vượng “Đơn
đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Bản án h́nh sự
số 78/2009/HSPT ngày 07/12/2009 của Ṭa phúc thẩm – Ṭa án
nhân dân tối cao tại Đà Nẵng liên quan đến việc “nhận hối
lộ” của Bí thư Thành ủy ĐCSVN, nguyên Chủ tịch UBND thành
phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thanh” với yêu cầu
không ǵ rơ ràng hơn:
Thứ nhất, tuyên Trung tá Dương Tiến, tức Dương Ngọc Tiến,
không phạm “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân”, đ́nh chỉ vụ án và phục hồi cho Trung tá Dương
Tiến mọi quyền và lợi ích hợp pháp.
Thứ hai, yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án h́nh sự và
khởi tố bị can đối với các thành viên Hội đồng xét xử sơ
thẩm - Ṭa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên ṭa ngày
6-7/8/2009 và Hội đồng xét xử phúc thẩm – Ṭa án nhân dân
tối cao tại Đà Nẵng tại phiên ṭa ngày 07/12/2009 về “Tội
truy cứu trách trách nhiệm h́nh sự người không có tội” quy
định tại Điều 295 Bộ Luật h́nh sự về “Tội ra bản án trái
pháp luật” quy định tại Điều 295 Bộ Luật H́nh sự.
Thứ ba, yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án h́nh sự, khởi
tố bị can đối với ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đảng
Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng về
hành vi “nhận hối lộ” như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Đà Nẵng tại Công văn số 73/KSĐT-KT ngày
31/10/2000.
Cũng chính việc Ṭa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và Ṭa
phúc thẩm – Ṭa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đă đạp lên
luật pháp để bao che tham nhũng nghiêm trọng của Nguyễn Bá
Thanh và đàn áp một cách tàn bạo những người tố cáo đă gây
phẫn nộ cao độ trong nhân dân thành phố Đà Nẵng. Liên tục từ
cuối năm ngoái khi phiên ṭa phúc thẩm kết thúc, công dân Đà
Nẵng đă liên tiếp viết Đơn tập thể gửi các cấp lănh đạo Đảng
và Nhà nước tố cáo và yêu cầu xử lư theo quy định của pháp
luật h́nh sự cả Nguyễn Bá Thanh lẫn các thế lực bao che nhân
vật này mà cụ thể là Thẩm phán Nguyễn Thành, Phó chánh án
Ṭa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, Chủ tọa Hội đồng xét xử
sơ thẩm và và thẩm phán Trần Mẫn, Chánh ṭa phúc thẩm Ṭa án
nhân dân tối cao tại Đà nẵng, Chủ tọa Hội đồng xét xử phúc
thẩm vụ án “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công
dân”.
Nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền là không bỏ lọt tội phạm
nhưng cũng không được làm oan người vô tội nên người viết
bài này thấy không có lư do ǵ để Chánh án Ṭa án nhân dân
tối cao Trương Ḥa B́nh và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao Trần Quốc Vượng có thể chần chừ trong việc kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Bản án h́nh sự phúc thẩm để
minh oan Trung tá Dương Tiến, Thiếu tướng Trần Văn Thanh -
những sĩ quan công an xứng danh “V́ nhân dân phục vụ” - và
các bị cáo khác trong cùng vụ án “Lợi dụng các quyền tự do,
dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, công dân” là Nguyễn Phi Duy Linh và Đinh
Công Sắt cũng như để trừng trị nghiêm khắc những kẻ đă dựng
đứng lên vụ án này!
Mặc dầu vậy, ai cũng thấy rơ là việc trừng trị đến nơi đến
chốn tham nhũng cũng như những thẩm phán “coi Pháp luật bằng
vung” như Trần Mẫn là “bất khả thi” nếu như không vạch ra
được thế lực “ô, dù” bao che cho cái lũ “thù trong” này. Bởi
thế nhiều người cho rằng chính ông Nguyễn Văn Chi, Ủy viên
Bộ chính trị, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương của Đảng
là một trong số vai vế đă “bảo kê” ông Nguyễn Bá Thanh tham
nhũng và do đó “bảo kê” luôn việc bỏ tù Trung tá Dương Tiến,
Thiếu tướng Trần Văn Thanh… theo đúng nguyên tắc “Một mất
Một c̣n” với 2 chứng cứ không dễ ǵ bác được:
Một là, kể từ sau Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy
ban kiểm tra trung ương có thể nói là “độc quyền” hay “múa
gậy vườn hoang” theo cách nói dân gian trong việc xử lư các
cán bộ “có vấn đề” thuộc “diện Trung ương quản lư”, tức từ
Phó chủ tịch tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp
tương đương trở lên, sau khi những cơ quan khác của Đảng có
cùng chức năng là Ban Nội chính trung ương, Ban bảo vệ chính
trị nội bộ đă bị “xóa sổ”, hay nói đúng hơn là bị sáp nhập
vào Văn pḥng Trung ương Đảng.
Nói cách khác, Chủ nhiệm Nguyễn Văn Chi một khi “lắc đầu”
th́ dù Ban chỉ đạo trung ương về pḥng, chống tham nhũng do
Thù tướng đứng đầu có muốn xử lư cũng phải chào thua. Bằng
chứng là Báo cáo số 73/BC-VPBCĐ ngày 26/10/2007 của Văn
pḥng Ban chỉ đạo Trung ương về pḥng, chống tham nhũng gửi
Thủ tướng Chính phủ và Thường trực Ban bí thư và Báo cáo số
38/BC-VPBCĐ ngày 07/4/2008 của Văn pḥng Ban chỉ đạo Trung
ương về pḥng chống tham nhũng gửi Ban Bí thư Trung ương
Đảng đề xuất xử lư ông Nguyễn Bá Thanh theo quy định của
pháp luật cũng đă không “đè” nổi, “đánh xuôi” nổi Thông báo
số 94TB/KTTW ngày 25/4/2007 của Ủy ban kiểm tra trung ương
do Phó Chủ nhiệm Nguyễn Thị Doan, nay là Phó Chủ tịch Nước,
kư thay Chủ nhiệm Nguyễn Văn Chi “thổi ngược”, phủi sạch
trơn mọi tố cáo đối với ông Nguyễn Bá Thanh!
Hai là, Thẩm phán Trần Mẫn là em ruột bà Trần Thị Thủy mà bà
Thủy lại chính là… vợ Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương
Nguyễn Văn Chi!
Đó chưa kể “thâm giao” khó có thể không có giữa Nguyễn Bá
Thanh và Chủ nhiệm Chi bởi ông Chi là Bí thư Quảng Nam – Đà
Nẵng trong gần cả chục năm, từ 1986 đến 1994.
Để nói rằng, vẫn theo những ư kiến trên, oan khuất tày trời
mà Trung tá Dương Tiến, Thiếu tướng Trần Văn Thanh và hai bị
cáo khác của vụ án “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân” khó có thể được giải quyết chừng nào Chủ
nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương Nguyễn Văn Chi vẫn c̣n tại
vị, chừng nào Nhà nước nói chung, các cơ quan bảo vệ pháp
luật nói riêng, vẫn c̣n đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi
ích của Tổ Quốc và Nhân Dân, tóm lại chừng nào Đảng lệ vẫn
c̣n đè Pháp luật!
Thế nhưng tôi vẫn tin rằng lũ “nội xâm” như Nguyễn Bá Thanh
và các thế lực “bảo kê” không thể tiếp tục tồn tại bởi Nước
Nam này Hào Kiệt đời nào chẳng có, mảnh đất Đà Nẵng kia đâu
có thiếu Anh Hùng, mà bắt đầu bằng tác giả của hai công văn
73,77/KSĐT-KT giờ đă thành huyền thoại: Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng Nguyễn Quốc Dũng.
Rất có thể tôi bị thuyết phục bởi bộc bạch này của người
Viện trưởng – cựu chiến binh quả cảm ấy: “Tôi đă kư lệnh bắt
nó rồi… Tôi đă nói thẳng với Nguyễn Bá Thanh rằng nếu mày
không có quá nhiều tiền th́ mày đă xanh cỏ với tao từ lâu
rồi”!!