Video Tài Liệu Audio Tài Liệu Nhạc Tin Tức & Thời Sự B́nh Luận

 

Cuộc đổi đời

Từ di cư đến tỵ nạn. 1954-1975-2010

   Cuộc đổi đời

Giao Chỉ,

San Jose.

 

       Bây giờ nói đến chuyện 30 tháng 4 của Việt Nam Cộng Ḥa th́ đành phải đồng ư với nhau rằng tất cả là do định mệnh. Định mệnh của từng người dân Việt và định mệnh của cả một dân tộc. Cả hai phía Bắc Nam đều không sản xuất súng đạn và cả hai phe đều được vơ trang bằng các tư tưởng đến từ bên ngoài. Một bên là tiền đồn của thế giới tự do và một bên là tuyến đầu của phe cộng sản. Dù đă chiến thắng trận sau cùng nhưng chính thực dân miền Bắc đă trả giá bằng xương máu và cuộc sống lầm than cơ cực hơn dân miền Nam suốt thời kỳ chiến tranh. Hơn 35 năm sau, vào thời điểm của năm 2010, ảnh hưởng của chế độ cộng sản đè nặng lên cả nước, làm cho Việt Nam vẫn không đứng lên được.

      Trong suốt hơn 30 năm qua, tôi đă có dịp viết về cuộc đổi dời của hàng trăm hoàn cảnh. các bạn cũng hỏi về thân phận nổi trôi của chúng tôi. Để trả lời câu hỏi, xin phép lấy chuyện định mệnh cuộc đời cá nhân để nh́n lại lịch sử.

     Khi Pháp trở lại Việt Nam sau thế chiến 39-45, toàn quốc kháng chiến, tôi là cậu bé trên 10 tuổi tham gia nhi đồng cứu quốc. Chúng tôi đi khắp các xóm làng để làm công tác tuyên truyền và văn nghệ và tham gia cả chiến dịch chống nạn mù chữ. Đôi khi gặp cô Thái Thanh ở tuổi 16 đứng ca bản Cô Hàng Cà Phê. Cả toán thiếu nhi chúng tôi đều mê thần tượng của cả thế giới tản cư. Đám trẻ con chẳng hề biết đến những chiều sâu của chính trị.

     Sau đó, v́ may mắn thi đậu bằng tiểu học đứng đầu liên khu III, tôi được chính phủ Kháng chiến ngỏ ư cho đi học bên Nga hay bên Tàu ǵ đó. Cha tôi mất sớm, mẹ tôi nhất định không cho đi. Và định mệnh đời tôi bắt đầu định hướng.

     Tiếp theo, Tây nhảy dù Phát Diệm, kéo lính Đông Dương về đóng đồn ở làng B́nh Hải, huyệnYên Mô, tỉnh Ninh B́nh là quê ngoại. Mẹ tôi bán xôi ở cạnh đồn Tây lúc đó có nhiều lính Việt theo Pháp từ bên Tàu rút về. Phần tôi th́ làm trinh sát cho Việt Minh để vẽ bản đồ.

     Một hôm, Việt Minh nhắn tin sẽ thanh toán con mẹ tản cư bán xôi cho địch. Mẹ tôi sợ quá bèn dắt hai con hồi cư về Nam Định. Định mệnh lại bắt đầu rơ nét. Thằng bé 15 tuổi đă có cơ hội bỏ hàng ngũ kháng chiến để về phe quốc gia.

     Vào thời kỳ đó ngoài Bắc gọi là dinh tê hay về Tề. Chính Phạm Duy và cả ban hợp ca Thăng Long cũng bỏ Kháng chiến về thành vào các buổi giao thời như vậy.

     Riêng tôi, sự thực vẫn chẳng hề mảy may có ư niệm ǵ về chính trị. Về thành, tôi có một vài người anh họ cùng lớp tuổi, sau một thời gian quen biết gần gũi. Rồi anh Vũ Văn Định thoát ly đi theo kháng chiến. Anh em mỗi người một ngả. Tại Nam Định lúc đó có lớp sĩ quan động viên đầu tiên. sau này tôi mới biết là khóa 1 Nam Định. Hầu hết các sinh viên sĩ quan trẻ thuộc lớp trí thức và rất được các cô thành thị chú ư. Thêm vào đó có một vài Thiếu Úy Đà Lạt mới ra trường về làm cán bộ. Nh́n các sĩ quan 20 tuổi, đeo lon Tây, đi xe Jeep, nói tiếng Pháp với các hạ sĩ quan Lê Dương. Anh em chúng tôi mê không chịu được. Thôi rồi, niềm mơ ước tương lai của tôi đă rơ nét.

     Sau khi đỗ trung học tại trường Nguyễn Khuyến, Nam Định, tôi lên Hà Nội học thêm rồi chờ đợi đi động viên. Và định mệnh đă in hằn dấu vết của sinh viên sĩ quan trừ bị Vũ Văn Lộc học khóa Cương Quyết Đà Lạt mà quư độc giả đă nghe chúng tôi ồn ào quảng cáo suốt bao năm qua vào dịp 50 năm gặp lại nhau tại Nam California rồi đến 55 năm tại San Jose.

 

Xuống tầu "há mồm" di cư vào nam

 

     Khi hiệp định Genève cắt đôi Nam Bắc. Mẹ tôi và cô em gái bỏ lại tất cả họ hàng để vào Nam. Cho rằng đi t́m tự do th́ quả thực là không phải, bà chỉ đi t́m con trai. Cả họ Vũ ở nhà đều nói rằng thím phải vào Nam kêu thằng Lộc về. Bây giờ ḥa b́nh rồi, vào Sài G̣n làm cu li đồn điền cao su th́ chỉ có sốt rét ngă nước rồi chết mất xác.

     Tuy nhiên, ông con trai 20 tuổi đeo lon Thiếu Úy kiểu Tây c̣n đang say sưa với bộ quân phục nên không chịu trở về Bắc mà lại giữ chân bà cụ và cô em gái ở trong Nam.

     Xem ra sự lựa chọn của một thanh niên vào thời đó cũng không phải là đă có những suy nghĩ trưởng thành. Đất nước như là một sân đá banh. Đang đứng ở phía nào th́ đá cho phe đó. Tất cả anh em chúng tôi từ Hà Nội ra đi, ngay như t́nh yêu cũng c̣n chưa chín nói ǵ đến lư tưởng và quốc gia dân tộc. Bây giờ đă 77 tuổi rồi, c̣n sợ ǵ nữa mà không nói thẳng ra như thế.

     Nhưng càng về sau, sống với miền Nam, lấy vợ Nam kỳ, hành quân Nam Căn Cà Mau qua Đồng Tháp Kiến Phong. Tư duy lớn theo tuổi. Dọc ngang sông Tiền sông Hậu. Trải qua các đơn vị. Suốt đời chỉ biết chuyện nhà binh. Anh sĩ quan trẻ tuổi lớn dần với binh nghiệp và ngày càng yêu thương quân đội, yêu thương binh sĩ, yêu thương chiến hữu. T́nh yêu lính trở thành t́nh yêu nước và lư tưởng thăng hoa. Cùng xây dựng sự nghiệp và xây dựng lư tưởng, rồi cũng học được những lẽ hơn thiêầt, cái xấu và cái tốt của binh đoàn. Lúc th́ đam mê bảo vệ, lúc th́ tức giận đả phá. Duy có điều may mắn là dù anh em thân quyến họ Vũ của gia đ́nh tôi bỏ lại miền Bắc năm 54 có nhiều người chiến đấu trong hàng ngũ cộng sản, nhưng chúng tôi chưa gặp nhau trong suốt cuộc chiến. Đôi khi t́m kiếm anh em nhưng không thấy trong danh sách sinh Bắc tử Nam cũng như danh sách bên bộ chiêu hồi. Phần tôi, con đường đi cứ miệt mài 21 năm cho đến 30 tháng 4-1975. Đầu tháng Tư năm nay, tôi dự cơm thân mật với hội Miền Tây đă có dịp thưa chuyện với bà con miền sông nước Cửu Long. Thưa rằng, tôi có 20 năm làm tuổi trẻ Bắc Kỳ nhưng lại có đến 21 năm ngược suôi ở trong Nam. Cuộc đời nhà binh, tham dự hành quân Tự Do với Khu chiến miền Tây, khi chuyển quân về Rạch Giá, đi theo cuộc t́nh thuận tiện bèn lấy vợ Kiên Giang. Khi nhà tôi theo ngành điều dưỡng làm việc tại thủ đô th́ tôi cũng được thuyên chuyển về Sài G̣n.

     Một lần nữa định mệnh đă ra tay. Nếu tôi vẫn nằm ở các đơn vị miền Tây với ông Nguyễn Khoa Nam hay miền Đông với ông Lê Nguyên Vỹ th́ phần số có lẽ cũng thay đổi. Tại các nơi này số sĩ quan ra đi 75 rất ít.

     Từ tháng 3-1975, tôi có nhiệm vụ công tác Quân Khu II rồi Quân Khu I để rồi cùng anh em tháo chạy trên các tuyến rút quân hỗn loạn và trên các quân vận hạm kinh hoàng. Chạy từ Nha Trang về Cam Ranh, từ Cam Ranh về Phú Quốc. Từ Phú Quốc về Vũng Tàu và từ Vũng Tàu về Sài G̣n. Cứ như người mê sảng cùng với toàn quân, không thể có lúc nào dừng bước đứng lại mà suy nghĩ. Quen chân rồi 30 tháng tư, chạy luôn theo tàu Mỹ mà bỏ lại anh em và cả một cuộc đời binh nghiệp.

     Một lần nữa, các ông anh bà chị, ông chú bà bác từ Hà Nội, Nam Định sau 75 đă vào Nam t́m lại thằng cháu với lời than thở. Bây giờ đất nước ḥa b́nh rồi, mà sao thằng Lộc nó c̣n chạy đi đâu. Lại sang Tân Thế Giới làm phu đồn điền hay sao?

 

Lên trực thăng di tản qua Hoa Kỳ

 

     Đó cũng là điều chúng tôi đă nghĩ đến khi di tản qua Mỹ. Chắc chắn là sẽ đi làm nông trại. Xem các phim Mỹ chỉ thấy di dân Nhật Bản và dân Mễ làm ruộng ngoài đồng. Dân Việt của ḿnh đến Mỹ th́ có khác ǵ đâu. Năm 1975 đă nghĩ như vậy.

     Nhưng sự việc đă không xảy ra như thế.

     Năm 1954, dân Bắc Kỳ di cư vào Nam đă không chết v́ sốt rét ở các đồn điền cao su Hớn Quản. Chúng ta đă cùng nhau xây dựng một Việt Nam Cộng Ḥa ngon lành hết sức.

Đi t́m Tự Do nơi miền đất Hứa

 

     Năm 1975, dân miền Nam tỵ nạn qua Hoa Kỳ không chết v́ lao động ở các nông trường Sacramento. Chúng ta đă tạo dựng các cộng đồng tốt đẹp phi thường bằng mồ hôi nước mắt. Đă xây dựng cuộc sống từ đống tro tàn.

     Từ 1954 cho đến 1975, nếu đă không chết ở biển Đông, không chết ở trại tù Việt Bắc th́ sẽ sống nhẹ nhàng êm đẹp ở miền đất tự do chan ḥa cơ hội.

     Sau cuộc chiến, nếu bạn thực sự là kẻ thua trận, là Ngụy thứ thiệt mà c̣n sống, là bạn đă ra đi hướng về chân trời mới với tương lai mở rộng cho con cháu đời đời. Định mệnh dường như đă xác định như vậy.

     Bây giờ sau hơn 30 năm, anh em họ Vũ của chúng tôi ở lại miền Bắc không c̣n bày tỏ ḷng thương hại cho đứa em lưu lạc của phe chiến bại. Các ông anh họ của tôi, sau khi mang quân hàm tướng tá đă về hưu trong sự nghèo túng oán hận và qua đời lặng lẽ.

     Phần tôi bây giờ đang t́m cách viết lại lịch sử của 30 tháng 4 một cách nghiêm chỉnh và công b́nh. Để sau này chính các thế hệ tương lai tại Việt Nam và ở khắp nơi trên thế giới khi cần sẽ tham khảo.

     Con cháu có thể t́m đến để hiểu về nguồn gốc của người Việt Nam tại hải ngoại. Họ là ai? Đă ra đi v́ lư do nào? Vào thời điểm nào? Tại sao người Bắc lại vào Nam năm 54 và tại sao miền Nam lại ra đi năm 75? Tại sao lại ra đi khi quê hương ḥa b́nh? Tại sao lại ra đi khi đất nước thống nhất? Và trên khắp năm châu bốn bể, người Việt đă đứng dậy như thế nào từ sau ngày đau thương tháng 4, 35 năm về trước.

     Đặc biệt ở một nơi nào đó trong viện bảo tàng của Việt Nam Cộng Ḥa sẽ có một khu dành cho 30 tháng 4-1975. Bên cạnh những h́nh ảnh di tản đau thương hỗn loạn sẽ có các bản minh họa về những cái chết phi thường của các tướng lănh Việt Nam Cộng Ḥa.

     Ông Lê Nguyên Vỹ gốc Sơn Tây, Bắc Việt ngày 28 tháng 4-1975 đă b́nh tĩnh tiễn chân vợ và 4 con nhỏ tại Tân Sơn Nhất. Trưa ngày 30 tháng 4-1975 sau khi nghe lệnh đầu hàng, dặn ḍ ba quân, ngồi ăn cơm với các sĩ quan, rồi cáo từ vào pḥng riêng. Một phát súng vào đầu. Vị Tư Lệnh Sư Đoàn 5 ra đi vào cơi vô cùng. Hai tháng sau ở Mỹ vợ mới biết tin. Đó là câu chuyện vị Tư Lệnh miền Đông Nam Phần. Mới đây, năm 2010, đầu tháng tư, 35 năm sau, bạn Đỗ đ́nh Vượng, trung đoàn trưởng cùa ông Vỹ ngồi tại San Jose kể cho tôi nghe thêm một lần nữa về bữa cơm cuối cùng với ông tư lệnh.

     Tại miền Tây, tướng Nguyễn Khoa Nam sinh trưởng ở Huế khi nghe lệnh đầu hàng vẫn c̣n b́nh tĩnh ra các chỉ thị cần thiết. Ông cho hủy bỏ sơ đồ hành quân trận cuối cùng. Không cho phá các cây cầu trên quốc lộ. Chỉ thị cho các đơn vị chấm dứt giao tranh tránh thương vong vô ích. Ông đi thăm các thương binh ở Quân Y Viện. Trở về giao các di vật cho tùy viên. Lui vào pḥng niệm Phật rồi nằm xuống nghỉ ngơi. Cho đến sáng 1 tháng 5-1975, ông mới bắn súng vào đầu để ra đi. Tư Lệnh Phó là tướng Lê Văn Hưng, người miền Nam cũng đă tự vẫn trước đó mấy giờ đồng hồ, bỏ lại vợ con. Cái chết của cả hai ông, tháng tư năm nay tôi có dịp đọc lại hai câu chuyện hết sức chi tiết của hai vị sỹ quan tùy viên. Thực vô cùng xúc động.

     Những cái chết của tướng Vỹ, tướng Nam, tướng Hưng và các vị khác vào những giờ phút cuối rất lẫm liệt và b́nh thản, không hề có sự rối loạn, không hề có sự tức giận hay sợ hăi. Những người như ạ Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Lê văn Hưng chính là Mặt trời tháng 4 của chúng ta. Những người vượt lên trên định mệnh. Những người đă đứng ra quyết định về định mệnh của ḿnh.

Sau đây là trang cuối cùng xin dành riêng cho Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam: Tư Lệnh Quân Đoàn 4 đă dùng súng lục tự sát vào lúc 7 giờ sáng ngày 1 tháng 5-1975. Ông là người đă sống một ngày dài nhất từ lúc Tổng thống Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng sáng 30 tháng 4-1975 cho đến sáng 1 tháng 5-1975.

     Ngay sau khi có lệnh đầu hàng ông đă gặp các đại diện phía cộng sản hai lần vào Dinh Tư Lệnh nhưng cả hai lần phía cộng sản đều ra đi trong buổi chiều 30 tháng 4. Cũng trong chiều 30 tháng 4, tướng Nguyễn Khoa Nam đă đi thăm Quân Y Viện Phan Thanh Giản lần cuối cùng. Ông cử Đại Tá Thiên vào chức vị Tỉnh Trưởng Cần Thơ thay cho người đă ra đi. Ông ra lệnh không được phá cầu Long An và chấm dứt giao tranh để bảo toàn tính mạng các binh sĩ và dân chúng.

     Trước khi quay vào pḥng tự vẫn, sĩ quan tùy viên kể lại tướng Nam đă thắp nhang trên bàn thờ Phật, thỉnh chuông rồi đứng lên lan can ṭa lầu nh́n xuống thành phố Cần Thơ lúc đó vắng lặng. Lúc đó vào sáng sớm 1 tháng 5-1975.

     Vùng 4 chiến thuật gồm toàn thể miền Tây Nam Phần với 3 Sư đoàn 21 (Bạc Liêu), Sư đoàn 9 (Sa Đéc) và Sư đoàn 7 (Mỹ Tho) cùng với 11 tiểu khu (Long An, Mỹ Tho, Kiến Ḥa, Kiến Phong, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Chương Thiện, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau). Cho đến ngày 29 tháng 4-1975 vẫn c̣n gần như nguyên vẹn. Vị Tư Lệnh Quân Đoàn vẫn liên lạc hàng ngày với các đơn vị gồm cả Hải Lục Không Quân thuộc Vùng 4. Toàn thể quân số chính quy và địa phương trên 200 ngàn quân đă tan hàng trong trật tự. Một số lớn hiện đă có mặt tại hải ngoại.

     Trong buổi sáng cuối cùng 1 tháng 5-1975, tướng Nguyễn Khoa Nam đă đứng nhỏ lệ trên lan can của Dinh Tư Lệnh cùng với hai sĩ quan tùy viên cấp úy. Sau đó ông quay vào pḥng tự sát bằng súng lục.

     Hành động vừa can trường vừa nhân đạo của tướng Nguyễn Khoa Nam đă nêu cao gương trách nhiệm uy dũng đồng thời cũng đă cứu cho sinh mạng của dân chúng và binh sĩ tại miền Tây không bị chết đau thương hỗn loạn như đă diễn ra tại Quân Khu I và Quân Khu II.

*   *   *   *

     Như đă ghi lại ở phần trên khi chiến tranh chấm dứt, tại khắp nơi có nhiều anh hùng VNCH đă tự quyết định đời ḿnh không chịu sa vào tay giặc. Tuy nhiên chúng tôi không thể ghi lại được đầy đủ.

     Nhân ngày 30 tháng 4 naam 2010, 35 năm sau, xin thắp một nén hương ḷng gửi về cho tất cả các anh hùng liệt sĩ.

     V́ những gương hy sinh cao cả đó, chúng ta cùng viết lại lịch sử của ngày 30 tháng 4 năm 1975.

 

     Giao Chỉ - San Jose


<< trở về đầu trang >>
free counters