Việt
Nam, 35 năm sau chiến tranh: Những bài không chịu học
|
Bà Jackie Bông-Wright |
Những huyền
thoại về cuộc chiến
Đại Sứ John
Negroponte, Cựu Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đă đặt ra
một lô những chữ “Nếu” cho 150 người trong cử toạ, nhân
phát biểu tại cuộc Hội Nghị được tổ chức ở Câu Lạc Bộ
Army Navy Club tại Washington, nhằm lượng giá về Quân
lực Việt nam Cộng hoà 35 năm sau khi chiến tranh kết
thức.
“Nếu mà Tổng
Thống Roosevelt c̣n sống th́ nước Mỹ không ủng hộ cho
người Pháp trở lại Việt nam? Nếu mà chúng ta biết rơ hơn
về chuyện xích mích giữa Liên Xô và Trung quốc? Nếu mà
Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm không bị ám sát? Nếu mà Tổng
thống Nixon không bị dính líu vào vụ Watergate?” Nhưng
v́ do những cái trớ trêu bất thường cuả lịch sử đại loại
như vậy mà sự việc đă xẩy ra khác hẳn đi.
Năm diễn giả
chính yếu khác và 10 tham luận viên, cả người Việt và
người Mỹ, đă phân tích những trận chiến mà họ coi là
khúc quanh của cuộc chiến tranh Việt nam.
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968, những trận đánh lớn ở Huế, An Lộc, Quảng Trị; Quân lực Việt nam Cộng hoà, Hiệp định Hoà b́nh Paris, và nhửng bài học đă thu lượm đă được mổ xẻ trong các buổi thảo luận trong từng nhóm. Chủ ư cuả các tham luận viên rơ ràng là nhằm phục hồi lại danh dự cho Quân lực miền Nam Việt nam.
Tết Mậu
thân 1968
Tiến sĩ Erik
Villard, sử gia, là diễn giả đầu tiên đă tŕnh bày về
cuộc tấn công nầy. Ông nói: “Đây đích thực là một cuộc
nội chiến tại Nam Việt nam giữa người quốc gia Việt nam
với quân Cộng sản xâm lăng từ miền Bắc. Ông mô tả trận
chiến lừng danh này với quy mô và sự phức tạp trong kế
hoạch cuả Việt cộng và sự phản công lúc đầu coi như
tuyệt vọng, mà lại rất thành công của phía miền Nam và
Đồng minh. Nhưng ông nói: “Bi đát thay cái sự thắng lợi
nầy lại bị thế giới coi như là một thất bại.”
Đại tá Trần Minh
Công bổ túc thêm. Ông nói đến 50 phần trăm quân đội VNCH
được nghỉ phép ăn Tết giữa lúc quân Cộng Sản tấn công.
Ông ra lệnh cho tiểu đoàn cảnh sát tiến chiếm lại Dinh
Tổng Thống ở Sài G̣n, trong khi các đơn vị khác th́ hợp
nhau lại để tái chiếm những đồn bót vừa mới bị Cộng quân
chiếm giữ.
Tờ tuần báo Time tường thuật: “Quân lực Việt nam Cộng hoà phải gánh chiụ áp lực nặng nề lúc khởi đầu với sự dũng cảm và mau lẹ mà hầu như ít có ai lại có thể ngờ được.” Cố Đại sứ Ellsworth Bunker nói: “Chính phủ đă không sụp đổ. Trái lại, họ đă phản ứng mạnh bạo, mau mắn và quyết chí. Chính quyền đă tổ chức sự phục hồi với nỗ lực lớn lao.”
Đại tá Công phàn
nàn: “Ấy thế mà giới truyền thông người Mỹ lại coi vụ
Tết Mậu thân là ‘khởi sự cuộc chấm dứt chiến tranh’ Việt
nam (The beginning of the end of the Vietnam War).”
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, học giả và cựu giảng viên tại Đại học George Mason kể lại: “Trong dịp tấn công Tết Mậu thân, cố đô Huế là nơi duy nhất quân Cộng sản đă thiết lập được một chính quyền dân sự. Họ phát động cuộc tàn sát, giết hại hàng ngàn người mà họ gọi là ‘kẻ thù của Cách mạng’ trong suốt 25 ngày chiếm đóng thành phố vào tháng Hai năm 1968.”
“Họ tàn sát đến 6,000 thường dân vô tội, bất kể đó là giáo sư đại học, giới kinh doanh, phụ nữ, người già và cả đến trẻ em, tạo ra viễn cảnh kinh hăi cuả chế độ Cộng sản. Hàng ngàn người bị coi là “tay sai Mỹ ngụy” đă bị tra tấn, giết hại và cả bị chôn sống do lệnh của Toà án Nhân dân Việt cộng mà gồm những cán bộ và dân làng được lựa chọn một cách ngẫu nhiên.”
Vẫn theo lời
giáo sư Bích, “Vụ thảm sát ở Huế tương tự như ‘cánh đồng
giết người’ (killing fields) dưới chế độ Pol Pot ở
Cambodia, hay Ḷ Thiêu Người hồi thế chiến thứ hai cuả
Đức quốc xă.”
Hội nghị cũng phản ánh quan điểm cuả các chuyên gia khác. Ông Lewis Sorley, sử gia chuyên về chiến tranh Việt nam và là giáo sư tại West Point và tại Học Viện Chiến tranh cuả Lục quân Mỹ, nói là hồi năm ngoái tại Đại học Texas Tech rằng những cái nh́n lệch lạc phát xuất từ chiến dịch bôi nhọ toàn thể chế độ miền Nam Việt nam và cuộc chiến đấu lâu dài và khó khăn cuả họ, cho đến lời tố cáo vô liêm sỉ cuả Jane Fonda cho rằng: “Các tù nhân Mỹ khi hồi hương mà đă tố cáo bị người Cộng sản tra tấn hạ nhục đều là những ‘kẻ nói dối’ và ‘giả h́nh’.”
Cuộc tấn
công dịp Lễ Phục sinh 1972
Trong ba tháng
mà tỉnh An Lộc bị vây hăm vào tháng Tư 1972 cũng bị giới
truyền thông Mỹ bóp méo sự thật. Tiến sĩ James Willbanks
cho cử toạ thấy là: “Kết quả là cả hai bên đối chiến đều
bị tổn thất kinh hoàng, nhưng cuối cùng th́ quân đội
kiên cường của miền Nam đă kiểm soát được thành phố, sau
khi kết thúc trận chiến đẫm máu”.
Đại tá Phan Văn Huấn, Chỉ huy Lữ đoàn 81 Biệt cách Dù và Trung tá Nguyễn Lân phụ tá chỉ huy, kể lại họ đă đảy lui được quân đội Bắc Việt và ngăn chặn hướng tiến công cuả Cộng sản vào thủ đô Saigon, lập ra được ṿng đai pḥng thủ vững mạnh chống lại quân số lớn hơn hẳn cuả địch quân. Họ đă cầm cự được cuộc tấn công liên tục của Bắc quân, đẩy lui được ba vụ xung phong tấn công tới tấp từ phía địch quân.
Trận chiến ở Quảng
Trị
Ba
nhân vật sau đây thảo luận về trận chiến nầy. Đó là Đại
tá Phạm Văn Chung, Đại uư Nguyễn Việt và ông Dale
Andrade, một sử gia và tác giả cuả ba cuốn sách về cuộc
chiến tranh Việt nam. Các vị này tường tŕnh rằng Sư
đoàn 308 và hai trung đoàn độc lập cuả Quân đội miền Bắc
vượt qua khu vực phi quân sự để tiến vào miền Nam, trong
khi Sư đoàn 304 th́ từ phiá Lào ở phiá Tây cũng xâm nhập
vào. Đại quân đó quét sạch cả hệ thống căn cứ nhỏ của
quân đội miền Nam có nhiệm vụ canh giữ quốc lộ 9, và
tiến chiếm vùng thung lũng Quảng trị.
Mục tiêu cuả
giới lănh đạo Hà Nội là “tạo được một chiến thắng quyết
định trong năm 1972 và bắt buộc cho đế quốc Mỹ phải
thương thuyết việc chấm dứt chiến tranh từ vị thế cuả kẻ
thất bại.” Quân đội miền Nam bị phân tán và rút lui,
nhường đất cho Cộng quân. Nhưng Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng, một tướng lănh xuất sắc cuả miền Nam đă được nắm
quyền chỉ huy và lần hồi đă tái chiếm được miền Nam
Quảng trị và cả thủ đô.
Quân đội Bắc Việt bị thương vong đến 100,000 quân là phân nửa tổng số lực lượng của họ, kể cả 40,000 quân bị tử trận, và c̣n bị mất phân nữa số chiến xa và trọng pháo. Kết quả là chính Tướng Vơ Nguyên Giáp, người anh hùng đă đánh thắng người Pháp ở Điện Biên Phủ, đă bị loại ra khỏi vị trí chỉ huy quân đội Bắc Việt. Kết quả này đă không được giới truyền thông Mỹ tường thuật chính xác.
Có một
bài học nào được rút ra chăng?
Nhiều người tin
rằng người Mỹ hiểu biết rất ít về cuộc chiến tranh Việt
nam, mặc dầu nó đă chấm dứt trên ba thập niên rồi. Trong
một bài báo nhan đề “Lịch sử chứng minh kẻ thắng trận ở
Việt nam đă sai lầm” được đăng tải trên Báo Wall Street
vào tháng Tư năm 2000, Nghị sĩ James Webb đă liệt kê
giới truyền thông báo chí, giới hàn lâm đại học và
Hollywood là những nhóm “đă có trách nhiệm rất lớn cho
thấy cuộc chiến được tưởng nhớ là vừa không cần thiết và
vừa không thể chiến thắng được.”
Hàng ngàn bài
báo, cuốn sách, bản phúc tŕnh quân sự, bài nghiên cứu
trận đánh và các hồi kư về cuộc chiến tranh 10 năm vẫn
tiếp tục không bị đem ra thách đố hay được chấp nhận như
là những sự kiện mà không hề có sự phân tích chiều sâu
trong giới sử gia. Người quá cố Douglas Pike là nhà phân
tích chính trị đă viết rất nhiều về Việt nam, đă b́nh
luận rằng: “đó là những người bị lừa bịp bởi giới kư giả
ngu dốt của loại truyền h́nh thương mại và giới hàn lâm
theo phe tả thiên lệch về một sứ mệnh ư thức hệ.”
Ông George Veith
là một tác giả chuyên viết về Việt nam, mà hiện đang
hoàn thành cuốn sách – Tháng Tư Đen: Cuộc Thất Trận cuả
Nam Việt nam1975 – nói về những huyền thoại về sự sụp đổ
của miền Nam Việt nam.
Ông nói Hà Nội
trông đợi chánh quyền Nam Việt nam sụp đổ một khi người
Mỹ rút khỏi năm 1972. Nhưng sự việc đó đă không xẩy ra,
và quân đội Việt nam lại mỗi ngày một mạnh hơn lên, như
được chứng tỏ trong trận An Lộc và Quảng Trị vừa nêu
trên. Thế rồi, từ năm 1973 cho đến tháng Ba năm 1975,
quân đội miền Nam đă gây những thất bại nặng nề cho quân
đội Bắc Việt, khiến cho Tướng Vơ Nguyên Giáp bị mất
chức. Ông Veith xác tín rằng quân lực Việt nam Cộng hoà
không hề yếu kém và hèn nhát như giới truyền thông báo
chí Mỹ thường tô vẽ ra.
V́ coi việc Tổng
thống Nixon từ chức như là một dấu hiệu rằng người Mỹ sẽ
bỏ rơi miền Nam, nên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Hà Nội
mới quyết định ‘giải phóng’ miền Nam trong thời hạn 2
năm 1975-76 bằng cách tung ra những cuộc tấn công đại
quy mô.
Họ đă vi phạm
Hiệp định Đ́nh chiến Paris mà họ đă kư kết với Hoa kỳ và
miền Nam Việt nam. Khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt nam năm
1972 và Quốc hội cắt hết viện trợ quân sự và kinh tế cho
Việt nam vào tháng Ba năm 1974, ông Veith nói: “Với
những bất lợi về điạ lư, quân đội miền Nam không thể nào
ngăn chặn được một cuộc tấn công đồng loạt trên khắp cả
nước mà không có sự trợ giúp của không lực Mỹ.”
Tham nhũng có
phải là nguyên nhân gây ra sự xụp đổ cuả Nam Việt nam
không? Ông Sorley thuật lại lời cuả Tom Polgar, giám đốc
CIA ở Sài G̣n lúc bấy giờ biện luận rằng: “nước nầy có
thể tồn tại được dù với một chánh quyền thối nát, y như
trường hợp của Phi luật tân, Nam Hàn, Thái Lan hay bất
kỳ nước nào.” Trong một nước mà ngừơi công chức không
được trả lương phải chăng, th́ đều có nạn tham nhũng là
chuyện thường xẩy ra trên đời.” Đại tá William Legro,
Tuỳ viên Quân sự ở Việt nam cũng đồng ư như thế, ông
nói: “tham nhũng không phải là nguyên nhân làm xụp đổ mà
chính là sự giảm bớt đến độ zero mọi viện trợ cuả Mỹ mới
là nguyên nhân. Chúng ta đă làm cái điều tai hại khủng
khiếp đối với người miền Nam Việt nam.”
Cựu Đại sứ tại
Mỹ Bùi Diễm là một trong những người đứng ra tổ chức
cuộc hội nghị này cũng than phiền về việc Quốc hội Mỹ
cắt hết viện trợ. “Tôi không thể không giận dữ trước sự
việc bất công v́ dự luật viện trợ quân sự bị bác bỏ tại
Quốc Hội. Vấn đề chính yếu trong tâm trí tôi là số phận
cuả hàng triệu người dân miền Nam Việt nam phải chiụ
đựng như thế nào một khi Quốc Hội đă quyết định.”
Ông Sorley đưa
ra những con số như sau: “Tại Việt nam, có thể có đến
65,000 người bị hạ sát bởi tay của những người tự nhận
là quân giải phóng và có đến 250,000 người nữa bị chết
trong các “trại cải tạo” tàn bạo. Hai triệu người bị
bứng ra khỏi quê hương và tạo thành lớp người Việt nam
tại hải ngoại.” Một phần tư triệu thuyền nhân đă bỏ ḿnh
ngoài biển khơi.
Ông Hoàng Đức
Nhă, nguyên Tổng trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi là người
phụ trách việc đúc kết cuả Đại hội nói: “Cuộc chiến Việt
nam được nh́n qua lăng kính cuả người Mỹ khiến làm biến
dạng méo mó sự thể t́m hiểu tại sao người Cộng sản chiến
thắng và người quốc gia thua trận. Ông lưu ư cử tọa
rằng, trong khi c̣n nguy khốn, miền Nam đă cố gắng xây
dựng một chế độ dân chủ với một nền kinh tế lành mạnh,
dựa trên nền tảng luật pháp. Đó là một cố gắng ít được
nghe thấy trong một nước đang có chiến tranh.”
Ông nói tiếp:
“Hơn thế nữa, ngay cả trước t́nh thế phải chiến đấu liên
tục, chánh quyền cũng cho thi hành một chiến lược phát
triển ba mặt về phát triển nông nghiệp, kỹ nghệ sử dụng
nhiều lao động, và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Năm
1974, dầu khí đă được t́m thấy ngoài khơi bờ biển miền
Nam. Ấy thế mà những thành tựu như thế lại ít được ai
công nhận.”
Tiến sĩ Rufus
Philipps, tác giả của cuốn sách mới đây mà được ca tụng
rất nhiều – Why Vietnam Matters – đưa ra nhận định trong
một tài liệu được chuẩn bị riêng cho Hội nghị. Ông trích
dẫn câu trả lời cuả Tướng Maxwell Taylor cho câu hỏi tại
sao chúng ta thất bại tại Việt nam? Vị cưụ Đại sứ tại
Việt nam nói vào hồi cuối cuộc đời của ḿnh: “Chúng ta
đă không hiểu kẻ địch, không hiểu người bạn đồng minh
Nam Việt nam, và cũng không hiểu chính chúng ta nữa.
Chúng ta đă không hiểu làm sao mà đối phó với cái loại
chiến tranh đó cho đến khi quá muộn. Từ lâu, giới hoạch
định chính sách cấp cao ở Washington và giới lănh đạo
chóp bu của chúng ta ở tại chỗ, với ḷng tự ái được thổi
phồng bởi nghề nghiệp đầy hứa hẹn trong những nỗ lực cuả
họ, th́ họ lại ít có sự bao dung đối với những quan điểm
khác biệt được dựa trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn
không đồng ư với họ.”
Cuối cùng, Tiến
sĩ Phillips có lời khuyên: “Người Mỹ chúng ta có một nhu
cầu thiết tha là phải t́m hiểu các người bạn mà chúng ta
muốn giúp. Chúng ta không thể áp đặt những giải pháp đă
được làm sẵn tại Mỹ (made-in-America), nhưng phải cùng
làm việc chung như người đồng sự kể như là anh em với
nhau, để chúng ta giúp các bạn đó t́m ra các giải pháp
riêng của ḿnh. Đó là những bài học chúng ta không được
luôn luôn chú ư tiếp thu và không chịu học.”
© Jackie Bong
Vietnam, 35 Years After: Lessons
Not Always Learned
Myths of
the Vietnam War
At the Army Navy
Club in Washington, speaking to a group convened to
reassess the Armed Forces of the Republic of Vietnam
(ARVN) 35 years after the Vietnam War, former Deputy
Secretary of State John Negroponte had some rhetorical
“What if” questions for the 150 participants.
“What if
President Roosevelt had lived, and we had not supported
the French return to Vietnam? What if we had known more
about the rift between the Soviet Union and China? What
if President Diem had not been assassinated? What if
President Nixon had not been involved in the Watergate
scandal?” But for the vagaries of history, matters might
have turned out very differently.
Five other key
speakers and 10 panelists, both Vietnamese and American,
analyzed the battles they saw as turning points of the
Vietnam War.
The Tet offensive; the battles of Hue, An Loc and Quang Tri; the Army of South Vietnam; the Paris Peace Accords, and lessons learned were dissected in the panel discussions. The panelists’ clear intent was to restore the reputation of the South Vietnamese armed forces.
The 1968
Tet Offensive
The first
speaker, Dr. Erik Villard, a historian, said that a true
civil war took place in South Vietnam between the
Vietnamese nationalists in the South and the invading
Communists from the North. He described the famous 1968
Tet Offensive, conveying the scope and complexity of the
Viet Cong’s plan and the desperate, but ultimately
successful, South Vietnamese and allied counterthrust.
Tragically for South Vietnam, he said, the victory at
Tet was seen by the world as a defeat.
Former Police
Chief Col. Tran Minh Cong added that 50 percent of the
ARVN troops were on holiday leave when the Communists
struck. He ordered his police battalion to retake the
Presidential Palace in Saigon, while other units joined
forces to regain most of the outposts, which had been
occupied by Viet Cong troops.
Time
Magazine
reported, “ARVN bore the brunt of the early fighting
with bravery and elan, performing better than almost
anyone would have expected.” To which the late
Ambassador Ellsworth Bunker added, “The government did
not fall apart. On the contrary, it reacted strongly,
quickly and decisively. It set about the task of
recovery with great energy.”
And yet, the
American media decried the Tet Offensive as the
“beginning of the end of the Vietnam War,” Col. Cong
Tran complained.
Prof. Nguyen
Ngoc Bich, a scholar and professor at George Mason
University, recounted how, during the Tet offensive, the
imperial city of Hue was the only place the Communists
managed to set up a civilian authority. They went on a
rampage, killing thousands of southern “enemies of the
Revolution” during a 25-day occupation in February 1968.
“They killed
indiscriminately around 6,000 men in academia and
business, women, older people and even infants, giving a
chilling preview of Communist rule. Thousands of
Vietnamese, considered “American lackeys,” were
tortured, killed and even buried alive by the Vietcong
People’s Court, composed of young Communist cadres and
villagers, selected at random.
The “Hue
Massacre,” said Prof. Bich, was the equivalent of the
“killing fields” under Cambodia’s Pol Pot or the
Holocaust of WWII.
The conference echoed the views of other experts. Lewis Sorley, Vietnam war historian and a faculty member at West Point and the Army War College, said last year at Texas Tech University that such distorted views extended from wholesale defamation of the South Vietnamese and their conduct throughout a long and difficult struggle to Jane Fonda’s infamous claim that repatriated American prisoners of war who reported systematic abuse and torture by their captors were “liars” and “hypocrites.”
The 1972
Easter Offensive
The three-month
siege of An Loc province in April of 1972 was also
misinterpreted by the American media. “It resulted in a
horrendous loss by both sides,” Dr. James Willbanks told
the audience, “but at the end of the bloody fighting,
the valiant South Vietnamese retained control of the
city.”
Col. Phan Van
Huan, Commander of the 81st Airborne Rangers,
and his Deputy, LTC Nguyen Lan, recounted how they
pushed back the Northern troops and blocked a direct
North Vietnamese thrust toward Saigon, putting up a
strong defense in the face of vastly superior enemy
numbers. They held out against a sustained North
Vietnamese attack, turning back three separate assaults.
The battle of
Quang Tri was discussed by Col. Pham Van Chung, Captain
Nguyen Viet, and Dale Andrade, a historian and author of
three books on the Vietnam War. They reported that the
North Vietnamese Army (NVA) 308th Division,
and two independent regiments moved south across the
Demilitarized Zone (DMZ) while their 304th
Division rolled out of Laos from the west. They overran
a network of small South Vietnamese bases guarding
Highway 9 and then moved into the Quang Tri Valley.
The Hanoi
leadership’s goal was “to gain decisive victory in 1972,
and to force the U.S. imperialists to negotiate an end
to the war from a position of defeat.” The South
Vietnamese units splintered and retreated, ceding
ground. But Lt. Gen. Ngo Quang Truong, one of South
Vietnam’s best officers, was placed in command and
slowly recaptured southern Quang Tri and its capital.
The NVA suffered more than 100,000 casualties – half of their forces, including 40,000 troops killed, and lost half its tanks and heavy artillery. As a result, Gen. Vo Nguyen Giap, who had defeated the French at Dien Bien Phu, was eased out as NVA commander. The result was not reported accurately by the American media.
Lessons
Learned or Not?
Many believe
that Americans know very little about the war in
Vietnam, although it ended three decades ago. In his
article “History Proves Vietnam Victors Wrong” in the
Wall Street Journal, in April of 2000, Sen. James Webb
identified the media, academia, and Hollywood as groups
that “have a large stake in having the war remembered as
both unnecessary and unwinnable.”
Thousands of
articles, books, military reports, battle studies, and
memoirs about the 10-year war continue to remain
unchallenged or accepted as facts with no in-depth
analysis among most historians. The late Douglas Pike, a
political scientist who wrote extensively on Vietnam,
commented on “those who were casually trashed by the
ignorant commercial television reporters and the
academic left-wingers bent on some ideological mission.”
George Veith, a
writer on Vietnam who is now completing Black April:
The Defeat of South Vietnam-1975, spoke of the
myths about the fall of South Vietnam.
Veith said that
Hanoi expected the government of Vietnam (GVN) to
collapse once the U.S. withdrew in 1972. But it didn’t,
and the ARVN actually grew stronger, as proved by the
battles of An Loc and Quang Tri. Then, from 1973 until
March 1975, the AVRN inflicted defeats on the NVA,
provoking the dismissal of Vo Nguyen Giap. Veith was
convinced that the ARVN was not the weak and cowardly
army portrayed in the U.S. media.
Viewing the
Nixon resignation as an indication that the U.S. was
abandoning the South, the politburo in Hanoi decided to
“liberate” the South within the two-year period
1975-1976, launching large-scale attacks.
They violated
the Paris Peace Accords’ ceasefire agreement they had
signed with the U.S. and South Vietnam. When the U.S.
army withdrew in 1972 and the Congress cut off military
and economic aid to the South in March 1974, Veith said,
“ Given the country’s geographic disadvantages, the ARVN
couldn’t stop a simultaneous, country-wide offensive
without U.S. air power.“
Was corruption
also the cause of the fall of Vietnam? Sorley cited
CIA’s Tom Polgar, who argued that “the country could
have survived with a corrupt government, just as the
Philippines, or South Korea, or Thailand, or anywhere.
In any county where you do not pay your civil service
adequately, you can expect corruption. It’s a way of
life.” Col. William LeGro, U.S. Defense Attache in
Vietnam, agreed, “Corruption was not the cause of the
collapse. The reduction to almost zero of U.S. support
was the cause. We did a terrible thing to the south
Vietnamese.”
Former
Ambassador to Washington Bui Diem (1973 to 1975), one of
the organizers of the conference, deplored the cut-off
of aid by the U.S. Congress. “I could not help but rage
at the unfairness of the bill for military aid which was
defeated in Congress. The real issue in my mind was the
kind of lives that millions of South Vietnamese would
have to endure once this Congress had made its choice.”
Sorley again.
“In Vietnam, perhaps 65,000 people were executed by
their self-proclaimed liberators. As many as 250,000
more died in the brutal “re-education” camps. Two
million were driven from their homeland and formed a new
Vietnamese diaspora.” A quarter of a million boat people
perished at sea.
Hoang Duc Nha,
former Minister of Information and Open Arms in South
Vietnam, was he wind-up speaker. He said that the
Vietnam war tended to be seen here through an American
prism that distorted why the Communists won and the
nationalists lost. He reminded the audience that, while
South Vietnam was in harm’s way, the government was also
racing to build the nation a democracy with a sound
economic system, based on the rule of law, an unheard-of
effort by a country at war.
Furthermore,
even in the face of continued warfare, the government
also implemented a three-pronged growth strategy driven
by agricultural development, labor intensive industry,
and exploitation of natural resources. In 1974, he
noted, oil was found off the coast of South Vietnam.
Yet, Vietnam got scant recognition for these
achievements.
Dr. Rufus
Phillips, author of the recent and highly acclaimed
book, Why Vietnam Matters, offered his own
insights in a paper prepared for the conference.
He quoted Gen. Maxwell Taylor’s reply to the question of
why we failed in Vietnam? This former U.S. Ambassador to
Vietnam said toward the end of his life, “We didn’t
understand the enemy, our South Vietnamese allies or
even ourselves. We didn’t understand how to fight that
kind of war until it was too late. For too long, top
policy makers in Washington and our top leaders on the
ground, with egos inflated by meritorious careers in
their endeavors, had a low tolerance for different views
based on first-hand experience.”
In the end, Dr. Phillips had this advice: “There was a vital need for us, as Americans, to understand you, the people we were trying to help, and not to impose made-in-America solutions, but to work as cohorts, even as brothers, to help you develop your own solutions. These were lessons not always learned.”
© Jackie
Bong-Wright