35 năm đấu tranh cho dân chủ Việt Nam
Lư Thái Hùng
Sự sụp đổ của chính quyền miền Nam Việt Nam và sự thống trị trên cả nước của đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đă đưa dân tộc Việt Nam đối diện với hai hoàn cảnh mới:
Thứ nhất là cuộc chiến đấu bảo vệ tự do cho miền Nam Việt Nam đă trở thành cuộc chiến đấu chống lại sự thống trị của đảng Cộng sản với mục tiêu giải phóng toàn thể đất nước ra khỏi sự nộ lệ của chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Thứ hai là cuộc chiến đấu đă không c̣n giới hạn ở một nửa đất nước mà đă trải rộng trên cả nước và ra tận hải ngoại, v́ mọi người Việt ở cả hai miền Nam Bắc đă nh́n thấy rơ bản chất tráo trở và phi nhân của thiểu số lănh đạo đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy sau biến cố 30 tháng 4, lực lượng chống lại đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ Hà Nội đă mở rộng ra trong nhiều thành phần dân tộc. Và mục tiêu đấu tranh đă không c̣n nhiều tranh căi như trước năm 1975 mà được đồng thuận trên nền tảng: Chấm dứt chế độ độc tài cộng sản để xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tự do dân chủ và thịnh vượng, bằng cách lấy trí tuệ và sức mạnh của người Việt Nam làm chính. Nếu sau năm 1975 dân ta chiến đấu không chỉ để giành lại tự do dân chủ mà c̣n để chấm dứt sự lệ thuộc vào đế quốc Liên Xô th́ từ năm 1991 cho đến nay, mục tiêu đấu tranh giành độc lập vẫn c̣n nguyên vẹn, tuy đối tượng bây giờ là Trung Cộng.
Nói cách khác, trong 35 năm kể từ sau biến cố 30 tháng 4, cuộc đấu tranh của người Việt Nam không dựa trên hận thù như người cộng sản rêu rao, mà trái lại nó xuất phát từ khát vọng tự do dân chủ và độc lập dân tộc. Đó là lư do duy nhất tại sao hàng ngũ đấu tranh của người Việt Nam trong 35 năm qua chỉ có tăng và mở rộng trong nhiều thành phần chứ không hề suy giảm. Nếu trước đây ta từng nghe những tấm gương can đảm của Trần Văn Bá, Ngô Chí Dũng, Vơ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh, Lê Hồng, Vơ Hoàng, Hồ Thái Bạch... th́ ngày nay, vẫn có những người can đảm khác tiếp tục con đường tranh đấu như Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Khải Thanh Thủy, Ngô Quỳnh, Lê Quốc Quân, Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Nam Hải, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, Nguyễn Vũ B́nh, Nguyễn Khắc Toàn,...
Tuy nhiên, điều kiện đấu tranh đă hoàn toàn thay đổi sau năm 1975. Mọi nền tảng đấu tranh trước đó đă không những bị phá vỡ toàn diện tại miền Nam mà c̣n bị bứng gốc để phải bắt đầu tái lập lại trận thế từ bên ngoài không gian Việt Nam, trong khi những nỗ lực kháng cự ở trong nước ngay sau năm 1975 dần dần rơi vào bế tắc và tuyệt vọng. Chúng ta đă mất hết tất cả từ phương tiện vật chất, cho đến những yểm trợ tinh thần. Dân ta đă đứng dậy đấu tranh không có vũ khí và phương tiện trong tay. Mọi người đă đứng lên bằng ḷng yêu nước, bằng ư chí Diên Hồng của tinh thần đối đầu bất bạo động. Có nh́n thấy những phức tạp này, chúng ta mới cảm nhận tất cả sự can đảm và kiên tŕ bám trụ tranh đấu của cố Đại lăo Hoà Thượng Thích Huyền Quang, Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Linh Mục Nguyễn Văn Lư, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế và hàng ngàn người khác vào lúc đó, để giữ vững chính nghĩa của công cuộc đấu tranh cho đến hôm nay.
Chúng ta đă mất gần 10 năm kể từ sau khi miền Nam sụp đổ, mới tạo dựng lại được sự liên lạc giữa những người đấu tranh ở trong và ngoài nước, khi một số người từ hải ngoại can đảm mở đường xâm nhập vào Việt Nam vào đầu thập niên 80. Những người góp phần cho giai đoạn đấu tranh quan trọng này như Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá, Lê Hồng, Hồ Thái Bạch, Vơ Hoàng, Vũ Đ́nh Khoa, Phùng Tấn Hiệp, Nguyễn Trọng Hùng, Trần Thiện Khải... đă hy sinh v́ đại nghĩa, nhưng sự can đảm và hào hùng của họ đă tạo một bước ngoặc đầu tiên và quan trọng cho công cuộc đấu tranh.
Thứ nhất là mang lại sinh khí và niềm tin cho hàng triệu người đang trải qua những năm tháng tuyệt vọng trong lao tù cải tạo. Thứ hai là mở ra một thế kết hợp mới giữa các lực lượng đấu tranh trong và ngoài nước để xây dựng điều kiện đấu tranh trường kỳ ngay tại Việt Nam.
Cộng sản Việt Nam càng lao vào con đường mở cửa kinh tế, càng làm giàu cho một thiểu số quyền lực th́ ngược lại làn sóng phản kháng trong dân chúng càng gia tăng.
Những nỗ lực liên kết trong ngoài nói trên đă bị khựng lại khi biến cố Đông Âu xảy ra, dẫn đến sự thay đổi lập trường của các quốc gia Đông Nam Á đối với vấn đề Việt Nam do chế độ Hà Nội tuyên bố rút quân vô điều kiện ra khỏi Kampuchia và Lào vào đầu thập niên 90. Khựng lại là v́ những cứ điểm liên lạc, tiếp vận cho tiềm lực quốc nội từ một vài quốc gia Đông Nam Á đă không c̣n nữa. Nhưng trong cái khó khăn chung của t́nh h́nh, những mâu thuẫn của Đông Âu đă đổ ập lên t́nh h́nh Việt Nam, tạo thành một cơn lốc chính trị to lớn. Sự phân hóa trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Năm bắt đầu bùng nổ khi khối Cộng sản Liên Xô tan ră vào cuối năm 1991, cùng với sự ra đời của hàng loạt các phong trào đấu tranh giành tự do dân chủ trong cộng đồng người Việt hải ngoại đă mở ra một bước ngoặc lớn thứ hai cho công cuộc đấu tranh vào lúc này. Thứ nhất là sự sụp đổ Đông Âu đă gợi lên một niềm tin cho mọi người vào lẽ tất thắng của công cuộc dân chủ hóa Việt Nam. Thứ hai là những người tranh đấu đă rút ra nhiều bài học để ứng dụng vào việc gầy dựng và nuôi dưỡng phong trào dân chủ tại Việt Nam. Thứ ba là hàng ngũ của đảng Cộng sản Việt Nam ngày một thêm suy yếu từ phá sản ư thức hệ tới niềm tin và tranh giành lợi lộc, quyền lực nội bộ.
Đương nhiên, đảng Cộng sản Việt Nam đă không ngồi chờ chết. Họ đă một mặt dâng hiến lănh thổ, hải đảo cho Trung Quốc để được Bắc kinh bảo hộ sự sống c̣n. Mặt khác, họ tung công an theo dơi, đàn áp các nhà dân chủ và trấn áp xă hội bằng thủ đoạn xă hội đen. Không những thế, lănh đạo Hà Nội c̣n t́m cách triệt hạ nguồn tiếp vận quan trọng đối với phong trào dân chủ ở trong nước bằng cách tung ra cái gọi là Nghị Quyết 36 để lũng đoạn và gieo nghi ngờ tiêu cực trong cộng đồng hải ngoại. Nhưng quan trọng nhất, Cộng sản Việt Nam đă không c̣n điều kiện bưng bít mọi thông tin giữa trong và ngoài nước như vài năm trước đó. Sự hoạt động hiệu quả của một số đài phát thanh hướng vào trong nước và nhất là mạng Internet với E Mail, Facebook, Blog... đă đặt Cộng sản Việt Nam ở vào thế bị động, và họ rất vất vả khi phải đối phó những lên án của thế giới.
Những nhà đối kháng trong ḷng chế độ như các ông Trần Độ, Phạm Quế Dương, Trần Dũng Tiến, Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu, Lê Hồng Hà, Dương Thu Hương, Nguyễn Thanh Giang, Trần Anh Kim... đă góp phần đáng kể vào việc xé to những mầm mâu thuẫn trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là khơi dậy sự thức tỉnh của hàng ngũ cựu chiến binh. Những cuộc nổi dậy hàng loạt của các nông dân Thái B́nh, Thọ Đà, Thanh Hóa, Nghệ An, Đồng Nai,... đều có bóng dáng lănh đạo của những cựu chiến binh - một thời hy sinh cho đảng – nay trở thành những dân oan mất đất, mất nhà. Cộng sản Việt Nam càng lao vào con đường mở cửa kinh tế, càng làm giàu cho một thiểu số quyền lực th́ ngược lại làn sóng phản kháng trong dân chúng càng gia tăng.
Khi Cộng sản Việt Nam kết thúc thời kỳ hội nhập qua việc được đăng cai chuẩn bị tổ chức Hội nghị APEC-16 và đàm phán để được thu nhận vào làm thành viên WTO từ năm 2004 đến năm 2007, cuộc đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam đă bước sang bước ngoặc lớn thứ ba. Đó là sự xuất hiện của Bản Tuyên ngôn dân chủ và sự ra đời của Khối 8406, làm thay đổi cục diện đấu tranh của phong trào dân chủ Việt Nam. Thứ nhất là từ nỗ lực đấu tranh đơn lẻ của từng cá nhân, từng nhóm nhỏ vài ba người đă tiến đến việc kết hợp thành một tập thể công khai bày tỏ lập trường đấu tranh. Thứ hai là tạo thế liên kết đấu tranh với sự hỗ trợ ngày một đa dạng của cộng đồng người Việt hải ngoại đối với các nhà dân chủ tại Việt Nam. Thứ ba là sự lên tiếng của thế giới và sự yểm trợ tích cực của các tổ chức NGO qua những giải thưởng nhân quyền cao quư.
Sự ra đời của Khối 8406 và sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet tại Việt Nam đă tạo ra phong trào Dân Báo (Blog) cùng với sự xuất hiện công khai của nhiều nhà dân chủ trẻ, tạo một sự phấn chấn trong dư luận Việt Nam và Quốc tế. Khi cuộc đấu tranh tại Ṭa Khâm Sứ và Thái Hà bùng nổ, đi cùng với hai cuộc vận động: chống bá quyền của Trung Quốc trên Biển Đông và chống khai thác Bauxite tại Tây Nguyên được khơi mào bởi thành phần trí thức vào đầu năm 2009, có thể nói phong trào dân chủ tại Việt Nam đă lên đỉnh điểm của sự quy tụ hầu hết các thành phần dân tộc tham gia. Nói cách khác, sự phản kháng của người dân kể từ năm 2009 trở đi, không c̣n chỉ giới hạn trong những thành phần dân oan thấp cổ bé miệng, công nhân, thanh niên sinh viên mà c̣n lan rộng sang thành phần trí thức, cựu cán bộ đảng viên Cộng sản, lực lượng tôn giáo. Đây có thể nói là kết quả của 35 năm đấu tranh kiên tŕ và dũng cảm của toàn dân.
Sự ra đời của Khối 8406 và sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet tại Việt Nam đă tạo ra phong trào Dân Báo cùng với sự xuất hiện công khai của nhiều nhà dân chủ trẻ, tạo một sự phấn chấn trong dư luận Việt Nam và Quốc tế.
Tuy nhiên trong đấu tranh, sự bất măn, ḷng uất hận của dân chúng là một điều kiện quan trọng nhưng chưa đủ để tạo thành một phong trào đối kháng quy mô. Muốn có một phong trào phản kháng quy mô trong những tháng tới, đ̣i hỏi phải có hai điều kiện quan trọng:
Một là phải có một lực đầu tàu mạnh, có đủ khả năng điều hợp được các nhóm quần chúng và trở thành một biểu tượng đại diện chung của lực lương đối kháng để đối đầu với chế độc tài. Nói cách khác, chúng ta phải có một h́nh thức thống nhất nào đó về đội ngũ để điều hướng các lực lượng dân tộc xa luân chiến với chế độ trong mọi lănh vực, và bằng những phương cách bất bạo động như biểu t́nh, đ́nh công, lăng công, v.v... Chỉ khi đó các áp suất mới cùng khắp và liên tục khiến cho chế độ không thể nào ứng phó nổi.
Hai là phải có thành phần cán bộ vận hành trong mỗi nhóm quần chúng, đặc biệt là những nhóm lớn. Khi thiếu bộ phận này, chúng ta chỉ có những nhóm quần chúng ô hợp, tuy có cùng nhu cầu, cùng oan ức, nhưng không hữu hiệu v́ mỗi người, mỗi tập hợp đấu tranh theo một hướng. Đây là bộ phận chuyển các yêu cầu từ đầu năo đến quần chúng và phản ảnh t́nh h́nh sức lực của quần chúng về cho đầu năo. Đây là cơ phận c̣n thiếu trong tiến tŕnh trở thành phong trào đối kháng qui mô tại Việt Nam.
Nh́n như vậy, chúng ta mới thấy rằng c̣n cần phải làm nhiều việc tại môi trường quốc nội để hỗ trợ cho các lực lượng dân chủ nhanh chóng xây dựng một bộ phận đầu tàu và một thành phần cán bộ vận hành, nối liền đầu tàu với quần chúng trong thời gian tới. Nói cách khác, công cuộc đấu tranh hiện đang ở vào thời kỳ mà các lực lượng dân chủ phải xuất hiện đối đầu công khai ngay tại Việt Nam, đồng thời từng bước tiến đến việc phối hợp các nhóm quần chúng nhằm h́nh thành một lực lượng đầu tàu qua hành động. Khi đă có lực lượng đầu tàu chúng ta mới có thể tập trung được sự vận động sức mạnh tiềm tàng trong các thành phần quần chúng, tấn công thẳng vào những nhược điểm của chế độ. Đây là diễn tŕnh phải tiến tới khi phong trào dân chủ tại Việt Nam đă lan rộng trong mọi thành phần quần chúng như hiện nay.
Lư Thái Hùng
Ngày 6/5/2010