Thiên tai, chiến tranh và độc tài
Loài người sinh
đẻ nhiều nhưng chết cũng nhiều.
Ngoài những cái chết tự nhiên
như tuổi già và bệnh tật, c̣n có
những cái chết hàng loạt và thảm
khốc, đến từ ba nguyên nhân
chính: thiên tai, chiến tranh và
độc tài.
Thiên tai, bao gồm động đất, băo,
lũ lụt, hạn hán, sóng thần, núi
lửa, đất trùi, và các loại bệnh
dịch, v.v… đă có từ lâu và có lẽ
c̣n đeo đẳng theo nhân loại măi.
Trong các loại thiên tai vừa kể,
có lẽ khoa học và kỹ thuật chỉ
giúp khống chế được các bệnh
dịch. Không c̣n, và trong tương
lai, có lẽ ít có khả năng có
những trận dịch giết chết cả
hàng mấy chục triệu người như
dịch cúm ở châu Âu vào năm 1918
và 1919; hay giết cả khoảng gần
bốn triệu người như dịch cúm ở
châu Á năm 1957. Những bệnh dịch
làm thế giới xôn xao mấy năm gần
đây như cúm gà và cúm heo đều
được dập tắt nhanh chóng với số
tử vong rất thấp, có lẽ thấp hơn
hẳn các trận cúm thông thường
hàng năm.
Nhưng những thiên tai khác th́
không giảm chút nào cả.
Riêng năm 2008, trên thế giới có
đến 354 thiên tai giết chết
236.000 người và gây ảnh hưởng
nặng nề đến khoảng trên 200
triệu người khác. Tốc độ và mức
độ thiên tai, như vậy, so với
những năm trước, có chiều gia
tăng. Ví dụ, từ năm 2000 đến
2007, trung b́nh mỗi năm chỉ có
khoảng 397 thiên tai với khoảng
hơn 66 ngàn người chết và khoảng
trên 200 triệu người bị ảnh
hưởng.
Theo tổng kết của Liên Hiệp Quốc,
trong hơn mười năm qua, động đất
là thủ phạm chính của hơn 60% số
người chết do thiên tai gây ra.
Kế tiếp là băo (22%) và khí hậu
khắc nghiệt (11%). Trong các
trận động đất gần đây, dữ dội
nhất là trận động đất ở vùng
Sumatra dẫn đến hiện tượng sóng
thần dọc theo bờ Ấn Độ Dương năm
2004 giết chết 226.408 người;
trận động đất ở Kashmir,
Pakistan năm 2005 giết chết
73.338 người; ở Sichuan, Trung
Quốc vào năm 2008 giết chết
87.476 người; và gần đây nhất, ở
Haiti với trên 230 ngàn người bị
giết chết. Trước thế kỷ 21,
Trung Quốc được xem là một trong
những nơi có những trận động đất
gây chết người nhiều nhất, trong
đó, đáng kể nhất là trận động
đất vào năm 1976 với số người tử
vong được ước tính là từ 255
ngàn đến 655 ngàn người. Trước
đó nữa, trận động đất vào năm
1556 ở Shaanxi cũng vô cùng
khủng khiếp. Giới nghiên cứu ước
tính số tử vong có thể lên đến
khoảng trên 800 ngàn người. (1)
Tuy sự phát triển của khoa học
kỹ thuật không khống chế được
các tai hoạ đến từ thiên nhiên
như đă khống chế được các loại
bệnh dịch, nhưng ít nhất nó cũng
giảm thiểu được tầm tác hại của
các tai hoạ ấy. Cũng là động đất,
cũng là sóng thần với những
cường độ giống nhau, nhưng con
số tử vong ở các quốc gia phát
triển rơ ràng là ít hơn hẳn ở
các nước nghèo và lạc hậu. Như
vậy, tuy con người không ngăn
chận được động đất hay băo lụt,
nhưng với khoa học và kỹ thuật,
người ta có thể xây dựng cơ sở
vật chất, từ nhà cửa đến đường
xá và cầu cống, an toàn hơn,
hoặc cảnh báo sớm và di tản sớm
hơn, chẳng hạn.
Nếu khoa học giảm thiểu tác hại
của thiên tai th́ lại tăng cường
tác hại của chiến tranh. Ngày
xưa, đánh nhau, một mũi tên may
lắm chỉ có thể giết hại được một
người. Sau này, vũ khí không
ngừng được “cải tiến”, tầm sát
thương tăng vọt từ vài chục đến
vài ngàn, thậm chí, vài trăm
ngàn hay vài triệu. Bởi vậy,
càng về sau chiến tranh càng
giết nhiều người. Đứng đầu danh
sách chắc chắn là hai cuộc chiến
tranh thế giới: Lần thứ nhất,
bắt đầu vào năm 1914 với khoảng
10 triệu binh sĩ bị sát hại; lần
thứ hai, bắt đầu từ năm 1939,
với khoảng 15 triệu binh sĩ bị
giết chết. Dĩ nhiên đó không
phải là tất cả. C̣n thường dân
nữa. Đối với thường dân, chiến
tranh không chỉ giết họ bằng
súng đạn mà c̣n bằng cả sự đói
khát và bệnh tật. Tổng kết con
số nạn nhân trong chiến tranh
thế giới lần thứ hai, chẳng hạn,
không thể không kể đến hơn một
triệu người Việt Nam bị chết đói
vào đầu năm 1945, một hậu quả
trực tiếp từ các chính sách tàn
bạo của Nhật Bản. Nh́n tổng quát
như vậy, số người bị giết chết ở
hai cuộc chiến tranh thế giới
tăng vọt: lần thứ nhất, khoảng
16 triệu; lần thứ hai khoảng từ
50 triệu đến 70 triệu.
Các sử gia không thống nhất với
nhau về con số tử vong trong hai
cuộc thế chiến v́ nhiều lư do.
Thứ nhất, nó mang tầm vóc quá
rộng, bao trùm toàn thế giới, do
đó, rất khó thu thập số liệu.
Thứ hai, v́ những động cơ chính
trị khác nhau, nhiều khi các số
liệu ấy bị giảm thiểu hoặc được
phóng đại quá mức. Ví dụ, liên
quan đến Việt Nam, trước đây,
người ta thường cho số người bị
chết đói vào năm 1945 là khoảng
hai triệu, trong khi, theo các
nhiều học giả uy tín, thực sự nó
chỉ có khoảng trên dưới một
triệu mà thôi. Lư do thứ ba là
tuỳ theo cách tính: có người chỉ
giới hạn trong những người trực
tiếp bị sát hại bằng bom đạn; có
người tính luôn cả thường dân
với những cái chết đến từ đói
khát, bệnh tật hoặc lao tù, v.v…
Hơn nữa, nhiều khi rất khó phân
biệt được nguyên nhân thực sự
của những cái chết tập thể: có
thể v́ chiến tranh nhưng cũng có
thể v́, nhân chiến tranh, các
chính phủ độc tài t́m cách tiêu
diệt các thành phần đối lập hoặc
thù nghịch không những về chính
trị mà c̣n v́ kinh tế hay sắc
tộc.
Dù tính theo cách nào th́ hầu
hết các học giả đều nh́n nhận:
chiến tranh giết người c̣n ít
hơn một nguyên nhân khác: độc
tài. R.J. Rummel có một bài viết
mang nhan đề rất rơ ràng và tiêu
biểu: “Chiến tranh không phải là
tên sát thủ lớn nhất thế kỷ này”
(War isn’t this century’s
biggest killer”), xuất bản lần
đầu trên tờ The Wall Street
Journal vào ngày 7 tháng 7 năm
1986. “Thế kỷ này” mà ông nói
chính là thế kỷ 20 vừa qua. Theo
ông, tổng số người bị giết chết
trong tất cả các cuộc chiến
tranh trên thế giới trong suốt
thế kỷ 20, từ chiến tranh thế
giới đến chiến tranh khu vực
cũng như chiến tranh trong nội
bộ một nước, chỉ khoảng trên 35
triệu. Con số đó tuy khủng khiếp
nhưng c̣n quá nhỏ bé so với số
nạn nhân bị các nhà cầm quyền
trực tiếp gây ra: Tổng cộng, con
số này lên đến gần 120 triệu
người.
Bảng tóm tắt do R.J. Rummel biên soạn dưới đây cho thấy: |
|
Theo bảng trên, trong thế kỷ 20, tổng số tử vong do chiến tranh là 35 triệu người, trong đó có 29 triệu bị giết trong chiến tranh thế giới và gần 6 triệu trong các cuộc nội chiến. Ngược lại số người bị các chính phủ giết chết dưới những h́nh thức khác nhau là trên 119 triệu. Rummel phân biệt ba loại chính phủ: Chính phủ độc tài cộng sản giết chết 115 triệu; chính phủ độc tài không phải cộng sản giết chết 20 triệu; chính phủ hơi có phần tự do giết chết 3 triệu và các chính phủ tự do (bao gồm các quốc Tây phương thời đế quốc) giết chết khoảng trên 800 ngàn.
Như vậy, tên sát thủ lớn nhất trong thế kỷ 20 vừa qua chính là các chế độ độc tài. Trong các chế độ độc tài ấy, các chế độ cộng sản đứng đầu. Theo Rummel, trong bài “Cộng sản giết hại bao nhiêu người?” (How many did Communist regimes murder?), các chế độ cộng sản giết chết khoảng 110 triệu người, tức gần hai phần ba tổng số người bị chết bởi chính phủ hoặc các lực lượng du kích từ năm 1900 đến 1997.
|
Trong các chế độ
cộng sản, đứng đầu danh sách sát
thủ là Liên xô với khoảng gần 61
triệu người bị giết chết, trong
đó, riêng Stalin chịu trách
nhiệm về cái chết của gần 43
triệu người. Nhà nghiên cứu về
nạn diệt chủng nổi tiếng Richard
Rubenstein nhận định: “Không có
chính phủ nào trong lịch sử đưa
ra nhiều sáng kiến để tiêu diệt
công dân của họ như là chế độ Xô
Viết” (2). Rummel gọi chế độ Xô
Viết là tên đệ nhất siêu sát thủ
(the greatest megamurderer) trên
thế giới. (3)
C̣n số người bị giết chết, một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp
dưới tay Mao Trạch Đông là bao
nhiêu?
Theo Jean-Louis Margolin, trong
bài “Mao’s China: The Worst Non-genocidal
Regime?”, số người chết do các
chính sách độc tài và tàn bạo
của Mao Trạch Đông là vào khoảng
từ 44 đến 72 triệu người. Cũng
theo Margolin, khác với ư kiến
của các học giả dẫn trên, về
phương diện giết người hàng loạt,
Mao c̣n tàn bạo hơn cả Stalin và
Hitler! (4).
Riêng tại Campuchia, trong số
khoảng 3 triệu 3 trăm ngàn người
Khmer bị giết chết từ thập niên
1970 đến 1980, chỉ có khoảng một
triệu là chết v́ chiến tranh,
c̣n hơn hai triệu là bị giết
chết v́ Pol Pot. (5)
Nhà cầm quyền Việt Nam không đến
nổi tàn bạo như Stalin, Mao
Trạch Đông hay Pol Pot. Nhưng
nhiều sai lầm gây khốc hại cũng
đă từng diễn ra. Việc điều tra
để có những số liệu cụ thể về
những người đă bị giết chết
trong các đợt cải cách ruộng đất
vào nửa đầu thập niên 1950,
trong các đợt khủng bố dưới danh
nghĩa “diệt tề”, “giết nguỵ” kéo
dài từ kháng chiến chống Pháp
đến chiến tranh Nam Bắc thời kỳ
1954-75, trong biến cố Mậu Thân
ở Huế năm 1968, cũng như trong
các trại cải tạo rải rác từ Nam
chí Bắc sau năm 1975, v.v… là
một thử thách lớn, cực lớn, dành
cho giới nghiên cứu lịch sử Việt
Nam.
Chú thích:
1. Các số liệu này lấy từ các bản
tin rải rác trên báo chí và
internet, đặc biệt các trang
mạng sau đây:
http://www.un.org/apps/news/story.asp?NewsID=33613&Cr=earthquake&Cr1=;
http://www.unisdr.org/news/v.php?id=12470; http://www.eas.slu.edu/hazards.html
2. Dẫn theo Adam Jones (2006),
Genocide, A Comprehensive
Introduction, London: Routledge,
tr. 124.
3. Xem bài “How many did
Communist regimes murder?” trên
http://www.hawaii.edu/powerkills/COM.ART.HTM
4. In trong cuốn The
Historiography of Genocide do
Dan Stone biên tập và được
Plagrave Macmillan xuất bản tại
New York năm 2008, tr. 438.
5.
http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.CHAP4.HTM
Nguyễn Hưng Quốc Blog