Sự sụp đổ của đồng đô la là không thể tránh khỏi
													
													
													“Người kiểm soát đồng tiền 
													quốc gia, sẽ là người kiểm 
													soát quốc gia”
													
													
													                                                  
													Thomas Jefferson (Tổng 
													thống Mỹ 1801 - 1809)
| 
															 | 
														
													
													Từ sau chiến tranh thế giới 
													lần thứ hai, đồng đô la của 
													Mỹ, với dự trữ vàng khổng 
													lồ (1) (thu được từ việc bán 
													vũ khí cho các bên tham 
													chiến và bồi thường chiến 
													phí của các nước thua trận, 
													mà chính phủ Mỹ ép buộc các 
													nước phải thanh toán bàng 
													vàng), đă thay đồng Sterling 
													của Anh, để trở thành đồng 
													tiền thế giới. Tuy nhiên, 
													Hiệp định Bretton Woods năm 
													1944, trong khi xác nhận 
													đôla như đồng tiền dự trữ và 
													phương tiện thanh toán quốc 
													tế, các đồng tiền khác phải 
													xác định tỷ giá cố định quy 
													đổi ra đồng đôla, chỉ riêng 
													đồng đôla Mỹ phải quy đổi ra 
													vàng và được quyền chuyển 
													đổi thành vàng. Dự trữ các 
													quốc gia khi đó có thể rút 
													ra khỏi kho dự trữ vàng của 
													Mỹ bất cứ lúc nào, theo tỷ 
													giá tương ứng. (2)
													Trở thành đồng tiền dự trữ 
													của nhiều nước và của mọi 
													doanh nghiệp có hoạt động 
													kinh doanh xuất nhập khẩu, 
													đồng đôla vừa nằm trong két 
													các ngân hàng trung ương các 
													nước với chức năng dự trữ 
													quốc gia, vừa đồng thời là 
													đồng tiền thanh toán các 
													hoạt động thương mại quốc tế. 
													Quy mô kinh tế toàn cầu tăng 
													dần với tăng trưởng kinh tế 
													các quốc gia, vừa đồng thời 
													làm tăng nhu cầu đô la cho 
													dự trữ, vừa làm tăng nhu cầu 
													lượng đôla trong lưu thông 
													thanh toán quốc tế. Và như 
													vậy, thế giới đă tự động đem 
													lại cho Mỹ một đặc ân: Không phải lúc nào cũng có 
													nhu cầu đồng loạt chuyển đổi 
													ra vàng của các nước, và 
													khối lượng những đồng đôla 
													hoạt động bên ngoài biên 
													giới nước Mỹ ngày một lớn. 
													V́ vậy, ngân hàng trung ương 
													Mỹ (Cục dự trữ liên bang-FED) 
													có thể in và phát hành một 
													lượng tiền mặt lớn hơn nhiều 
													lần dự trữ vàng của Mỹ, mà 
													không sợ lạm phát.
													Đúng như vậy.
													Thứ nhất, với sấp xỉ 90% tài 
													sản thế giới nằm trong tiền 
													đôla (3) và 3/4 lượng đôla 
													toàn cầu nằm bên ngoài nước 
													Mỹ, th́ lượng in thêm, tất 
													nhiên được tính toán theo 
													nguyên tắc điều tiết tốc độ 
													mất giá, sẽ có ảnh hưởng rất 
													nhỏ và rất chậm tới thị 
													trường trong nước Mỹ, và với 
													thị trường thế giới th́ càng 
													khó mà nhận dạng (có thể tính 
													để trượt giá hay lạm phát 
													nằm trong phạm vi mà dân 
													chúng dễ dàng chấp nhận, vả 
													lại, lạm phát từ lâu đă được 
													nhận thức như một thứ không 
													thể tránh khỏi).
													
													Thứ hai, lượng tiền do FED 
													in thêm đă có chủ đích: Giúp các ngân hàng thanh 
													toán những món nợ nước ngoài, 
													giúp doanh nghiệp thanh toán 
													các hợp đồng nhập khẩu, hỗ 
													trợ các công ty xuyên quốc 
													gia mua lại các hăng của 
													nước ngoài (thường với giá 
													gấp 20, 30 lần thực giá), 
													giúp vốn cho các công ty Mỹ 
													đầu tư trực tiếp tại các 
													nước mới nổi, đang khát vốn 
													và thiếu kinh nghiệm quản lư. 
													Nghĩa là, tiền in ra trên 
													đất Mỹ, nhưng lại chủ yếu 
													được «xuất khẩu» ra nước 
													ngoài. Loại tiền này, trong 
													khi đem lại lợi ích thực cho 
													Mỹ, lại chỉ làm tăng khối 
													lượng tiền đôla cho thị 
													trường nước ngoài, khiến 
													chính phủ các nước này phải 
													tăng dự trữ ngoại hối để giữ 
													giá đồng đôla, một mặt tự 
													động hăm lạm phát cho đồng 
													đôla bằng thiệt hại tài sản 
													thực của quốc gia ḿnh, một 
													mặt tự tạo áp lực tăng giá 
													cho chính đồng nội tệ (đang làm đau đầu giới chóp bu 
													Trung quốc). Có thể thấy đây 
													là một thủ đoạn phi đạo đức 
													của FED (hay của chính phủ 
													Mỹ, thông qua cục Dự trữ 
													liên bang?).
													Áp lực chi phí cho chiến 
													tranh Việt nam, bắt đầu từ 
													Johnson, và chạy đua vũ 
													trang vũ trụ với Liên xô, 
													buộc chính quyền Nixon đă 
													phải lẳng lặng in thêm tiền 
													(thực ra là vay thêm tiền 
													do FED phát hành). Hành vi 
													của FED và chính phủ Mỹ, dù 
													khéo che đậy, vẫn gây nghi 
													ngại cho một vài quốc gia, (4) 
													trong đó có Liên bang Đức, 
													năm 1970, đă yêu cầu rút 
													tiền vàng cho một phần lớn 
													số đôla trong dự trữ của 
													ḿnh. Hoảng sợ trước nguy cơ 
													bị rỗng của kho vàng, đồng 
													thời để tự do phát hành đôla, 
													không chịu ràng buộc vào 
													lượng vàng dự trữ đang giảm 
													dần, tháng 8 năm 1971, Nixon 
													đă hủy bỏ luật bảo đảm vàng 
													của đồng đôla, đặt dấu chấm 
													hết cho hiệp định Bretton 
													Woods.
													Và bắt đầu từ đấy, không c̣n 
													ǵ ràng buộc, không cần vàng 
													đảm bảo, và chính phủ Mỹ 
													công bố không chịu trách 
													nhiệm ǵ về giá cả trên thị 
													trường của đồng đôla, FED tự 
													do in tiền và cho chính phủ 
													Mỹ vay lại, không hạn chế 
													khối lượng. Lượng tiền in 
													thêm ra hàng năm vượt quá 
													con số 7% (5), trong khi kinh 
													tế thế giới tăng b́nh quân 
													không quá 3,7%, và của Mỹ 
													th́ từ năm 2000, tăng trưởng 
													không quá 2,5% b́nh quân (6). 
													Con số phát hành hàng năm, 
													là con số phải công khai 
													theo luật minh bạch của ngân 
													hàng, đă bị FED giữ kín từ 
													năm 2006.
													Và cũng bắt đầu từ đấy, đồng 
													đôla mất giá dần dần. Chậm, 
													nhưng không bao giờ quay trở 
													lại được giá trị của nó 
													những năm trước 1970. Năm 
													1971, một ounce vàng có giá 
													43,94 đôla, hôm nay (03/03/2003), tại NewYork, 
													một ounce được bán với giá 
													1137$, đồng đôla đă mất giá 
													25,87 lần, trong khi nó đổi 
													được 35$ năm 1944.
													FED và chính phủ Mỹ biết rơ 
													điều đó. V́ vậy, trong khi 
													các ngân hàng trung ương các 
													nước, như Trung quốc, Ấn độ, 
													Brasil, Nga, Sri Lanka, Nhật 
													bản, Singapore, Thái lan, 
													Indonesia, Malaisie, Nam Hàn… 
													đang cố gắng mua vàng nhằm 
													tăng dự trữ quốc gia (7) th́ 
													Quỹ tiền tệ thế giới (FMI) (8) 
													và Quỹ đầu tư vàng ủy thác 
													lớn nhất thế giới (SPDR Trust 
													Gold) lại bán ra. Đây là hai 
													tổ chức do FED kiểm soát 
													bàng cổ phần áp đảo. Có thể 
													cảm thấy một cố gắng kiềm 
													chế giá vàng, để che giấu 
													khủng hoảng tụt giá của đồng 
													đô la, hoặc che đậy một thao 
													tác in tiền mới. Bởi v́ 
													thông thường, khi đẩy một 
													lượng vàng ra thị trường, có 
													thể đưa một lượng tiền gấp 
													mười lần giá trị đó vào lưu 
													thông.
													Một thủ đoạn che đậy và đánh 
													lạc hướng chú ư là việc phát 
													hành ồ ạt trái phiếu chính 
													phủ. Mỹ đă thuyết phục (tất 
													nhiên là bằng rất nhiều loại 
													áp lực, cả bằng củ cà rốt 
													lẫn bằng cây gậy) nhiều nước 
													mua trái phiếu, một thứ vay 
													nợ dài hạn, nhưng có giá trị 
													ghi trên đồng đôla đang mất 
													dần hết giá trị. Một kiểu 
													san gạt hoạn nạn lên đầu 
													nước khác, và bằng cách đó, 
													Mỹ gạt bớt nguy cơ mất giá 
													quá lộ liễu sẽ xảy ra với 
													đồng đôla. Một cách dùng 
													tiền người, nhưng dấu mặt. 
													Bởi v́ danh nghĩa là vay, 
													nhưng chính người vay (Mỹ) 
													lại là người đánh sụt tiền 
													vay bằng một tỷ giá hối đoái, 
													mà Mỹ là người quyết định. 
													Một kiểu vay của vợ chồng A 
													Phủ.
													Nhưng với món nợ quốc gia, 
													hôm nay (03/2010) đă tới 
													12.467 tỷ (U.S. national 
													debt clock) và một áp lực 
													chi công cho các công tŕnh 
													hạ tầng tạo công ăn việc làm, 
													phải hỗ trợ và xóa nợ cho 
													các hộ gia đ́nh để duy tŕ 
													tiêu thụ, phải cung ứng tiền 
													cho các doanh nghiệp tiếp 
													tục vay lăi suất zero để vừa 
													trả nợ, vừa thanh toán nhập 
													khẩu, vừa đầu tư sản xuất để 
													giữ việc làm, phải cung cấp 
													tiền giá rẻ cho hệ thống 
													ngân hàng duy tŕ tín dụng, 
													các chương tŕnh cải cách an 
													sinh xă hội tham vọng của 
													Barak Obama, hai cuộc chiến 
													Irak và Afganistan vẫn c̣n 
													nguyên những căng thẳng… Mỹ 
													không thể ngừng bơm tiền. 
													Không thể ngừng tiếp máu. 
													Nghĩa là vẫn chưa thể tăng 
													lăi suất. Chỉ cần các hộ gia 
													đ́nh Mỹ, v́ nỗi sợ không thể 
													trả nợ, mà ngừng mọi chi 
													tiêu. Chỉ cần các ngân hàng 
													không c̣n tiền rẻ để cho vay. 
													Chỉ cần các doanh nghiệp Mỹ 
													ngừng nhập khẩu nguyên vật 
													liệu cho kế hoạch sản xuất. 
													Chỉ một trong ba điều đó mà 
													xảy ra, th́ có thể đồng đôla 
													sụp đổ, nước Mỹ sụp đổ, và 
													cả thế giới này sẽ sụp đổ.
													Không thể ngừng in tiền. V́ 
													không thể ngừng bơm tiền cho 
													nền kinh tế rỗng tuếch, từ 
													lâu đă không sản xuất của Mỹ. (dịch vụ chiếm 74% PIB). 
													Nhưng FED là ngân hàng tư 
													nhân, là cơ quan in tiền độc 
													lập với chính phủ, và sau 
													những đồng tiền do FED in ra, 
													không có ǵ đảm bảo cả, 
													không có bạc, không có vàng, 
													không có ǵ hết. Mỹ in tiền, 
													và tiêu tiền, trong khi giá 
													trị tài sản của toàn thế 
													giới giảm đi một lương tương 
													ứng để làm cho đồng đôla vẫn 
													ít nhiều giữ giá. Có ba ngân 
													hàng trung ương chịu thiệt 
													nhiều nhất: đó là ngân hàng 
													Trung ương liên hiệp châu 
													Âu (90% dự trữ của châu Âu là 
													đôla), ngân hàng trung ương 
													Nhật bản và ngân hàng trung 
													ương nước Cộng ḥa nhân dân 
													Trung hoa. Từ 2000 đến 
													nay (2010), đồng đôla mất giá 
													hơn 40%. Dự trữ của các quốc 
													gia dùng tiền đôla tự động 
													biến mất ít nhất 40% giá trị. 
													Nếu chỉ xảy ra trên nước Mỹ, 
													th́ đồng đô la đă mất giá 
													120%. Nghĩa là đă có lạm 
													phát 120%.  Có vẻ như đây là 
													vụ trấn lột quy mô toàn cầu?
													Có thể tồn tại măi một đồng 
													tiền có tư cách như vậy 
													không? Có thể vào giờ này, 
													FED và chính phủ Mỹ đă biết 
													không thể tiếp tục măi 
													chuyện in khống những đồng 
													đôla vụng trộm, ăn cắp sau 
													lưng các ngân hàng trung 
													ương các quốc gia đang vẫn 
													c̣n tin vào danh dự của một 
													cường quốc đứng đầu thế giới. 
													Chính Greenspan (9) đă phải 
													thốt lên, năm 1996, cảnh báo 
													“một sự sung túc vô lư” của 
													người Mỹ. Và tiết lộ “một 
													sự điều chỉnh cơ bản của 
													đồng đô la sẽ tiến hành từ 
													nay cho tới 2007 và chúng ta 
													sẽ thiết lập đô la và euro 
													thành đồng euro-đôla, đồng 
													tiền mới của thế giới”, có 
													thể “6000$ cho một ounce 
													vàng”. Một đồng tiền thế 
													giới mới với giá bằng 1/20 
													đôla hiện tại, hoặc bằng 
													1/15 euro, sẽ làm sụt két 
													toàn bộ các ngân hàng trung 
													ương toàn cầu xuống 20 lần, 
													và làm những món nợ của Mỹ 
													biến mất 19 lần.
													Xu hướng là tất cả các nước 
													sẽ nhận ra và t́m cách đa 
													dạng hóa dự trữ ngoại hối 
													của họ. Trung quốc cũng có 
													vẻ đă nhận ra sự ngu dốt của 
													ḿnh. Tham vọng dùng trái 
													phiếu chính phủ Mỹ để mặc cả 
													chính trị, dần dần khống chế 
													chính quyền Mỹ, Cộng sản 
													Trung quốc đă mua gần 800t ỷ đô la trái phiếu của Mỹ, để 
													bây giờ, nếu bán ra th́ làm 
													giảm giá đồng đô la, điều mà 
													Mỹ đang muốn, nếu muốn làm 
													tăng giá đồng đôla th́ lại 
													phải mua thêm vào, lại làm 
													tăng dự trữ bằng tiền đôla, 
													tăng nguy cơ rủi ro thất 
													thiệt.
													
													***
													Tuy vậy, một cuộc cải cách 
													tiền tệ là không thể tránh 
													khỏi, v́ sự sụp đổ của đồng 
													đô la là không thể tránh 
													khỏi. Hay nói đúng hơn là sự 
													tồn tại tiếp tục của đồng 
													đôla như đồng tiền dự trữ và 
													phương tiện thanh toán quốc 
													tế, là không thể chấp nhận 
													được. Nó đă từ lâu bị tập 
													đoàn tài chính quốc tế, đứng 
													đầu là FED, chính phủ Mỹ, (có thể cả hệ thống ngân hàng 
													châu Âu và Nhật bản) lũng 
													đoạn. Những phần tử này đă, 
													đang, và sẽ c̣n chia nhau 
													lợi nhuận từ sự lừa đảo toàn 
													cầu. Nhưng người gánh chịu 
													trước hết là nhân dân Mỹ và 
													người nghèo trên toàn thế 
													giới. Người dân Mỹ th́ nợ 
													quá nhiều (40.000$/đầu người/năm) 
													C̣n người nghèo trên thế 
													giới th́ chẳng có ǵ để đầu 
													cơ.
													
													Ghi chú:
													(1), theo Wikipédia: dự trữ 
													vàng của Mỹ năm 1948 là 
													21700 tấn, bằng khoảng 2/3 
													dự trữ vàng thế giới lúc đó.
													(2) theo Bretton Woods: 1 
													ounce vàng đổi được 35$ (1944)
													(3) theo Ngân hàng thế giới (WB): 90% lượng tiền thế giới 
													là tiền đôla (1996)
													(4) Pháp và Đức đ̣i Mỹ đổi 
													vàng từ những năm 1960, sau 
													đó là ngân hàng trung ương 
													Anh và Thụy sĩ theo gương 
													đầu năm 1970-(blog Eduard 
													Housson).
													(5), theo Eduard Housson, 
													trong nhiệm kỳ đầu của chính 
													quyền W. Bush, khối lượng 
													tiền phát hành tăng 20%/năm.
													(6) theo ISEE, tăng trưởng 
													PIB của Mỹ năm 2006: 2,7 %, 
													năm 2007: 2,1% và năm 2007 : 
													0,4%
													(7) theo Money Week, Trung 
													quốc có kế hoạch tăng dự trữ 
													vàng quốc gia lên 10.000 tấn 
													trong ṿng 10 năm tới. Hiện 
													nay dự trữ vàng của Trung 
													quốc là 1.054,0 tấn(2009)( 
													Wikipedia)
													(8) Ngày 18/9/2009, ban điều 
													hành IMF đă thông qua việc 
													bán 403,3 tấn vàng, khoảng 
													1/8 trữ lượng, ngày 
													2/11/2009 thông báo đă bán 
													200 tấn vàng, trị giá 6,7 tỷ 
													USD, cho Ngân hàng Trung 
													ương Ấn Độ (RBI), báo 
													Vietnam+03/11/12009.
													(9) Alan Greenspan: chủ tịch 
													Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) từ  11:08/1987 đến 
													31/01/2006.
													
													Chelles, 03/03/2010
													Bùi Quang Vơm