Những phát hiện mới chung quanh tấm bản đồ của Matteo Ricci
Một tấm bản đồ thế giới có tuổi đời hơn 400 năm, vừa được trưng bày tại thư viện Quốc hội Mỹ.
Báo China Daily cho biết, Matteo Ricci ‒ một nhà truyền giáo, người Italy ‒ vẽ tấm bản đồ vào năm 1602 theo yêu cầu của vua Minh Thần Tông. Nó là một trong hai bản sao c̣n được giữ ở trạng thái tốt. Một người sưu tầm tại Nhật Bản đă giữ nó trong nhiều năm trước khi bán cho Quỹ James Ford Bell vào tháng 10 năm 2009 với giá 1 triệu USD. Với mức giá đó, nó trở thành tấm bản đồ đắt giá thứ hai từng được bán. Do đây là một trong những bản đồ quư và dễ hư hại nên nó đă được in lên 6 tờ giấy gạo cỡ lớn.
Theo hăng tin AP, tấm bản đồ có kích thước 3,65 m x 1,52 m. Chất liệu của tấm bản đồ này được làm bằng giấy hồ ‒ một loại chất liệu được sử dụng rất phổ biến ở Trung Quốc vào thế kỷ XVII.
Nó biểu thị nhiều khu vực trên thế giới bằng h́nh vẽ và lời chú giải. Ricci đề tên nhiều nước tại châu Mỹ, như Chih-Li (Chile), Wa-ti-ma-la (Guatemala) và Ka-na-ta (Canada). Bang Florida của Mỹ được mô tả là “vùng đất của các bông hoa”. Châu Phi được chú thích là “nơi có dăy núi cao nhất và ḍng sông dài nhất thế giới”.
Ford W Bell - một trong những người quản lư Quỹ James Ford Bell - nói với tờ Pittsburgh Tribune Review rằng bản đồ được trưng bày trong thư viện Quốc hội Mỹ là một trong số hai bản đồ cổ có chất lượng tốt nhất.
“ Ricci là một nhà truyền giáo cực kỳ thông thái. Ông đặt Trung Quốc vào trung tâm của thế giới mới để ghi nhận sự quan trọng của đất nước này. Tất nhiên, Ricci là người phương Tây đầu tiên tới Bắc Kinh. Người Trung Quốc kính trọng Ricci và khi mất ông được chôn tại Trung Quốc ”.
Không có bất kỳ phiên bản nào của tấm bản đồ Ricci được t́m thấy tại Trung Quốc. Hăng tin AP cho biết thêm, chỉ có vài bản sao chép được lưu giữ trong các thư viện của Toà thánh Vatican và các nhà sưu tầm ở Pháp, Nhật Bản.
Theo kế hoạch tấm bản đồ của Matteo Ricci cũng sẽ được số hoá để đưa lên mạng.
(H́nh 1) Bản đồ màu chép lại bản đồ của Matteo Ricci sáng tác trên đường truyền đạo ở Trung Quốc [nguồn Thư viện Tokohu] |
Matteo Ricci (1552 – 1610) |
Tiểu sử Matteo Ricci:
Matteo Ricci sinh năm 1552 tại Macerata, ông bắt đầu học thần học và luật tại trường Thiên Chúa Giáo Roma. Năm 1577, ông đăng kư trở thành thành viên của một đoàn thám hiểm tới Ấn Độ và chuyến đi bắt đầu từ tháng 3 năm 1578 từ Lisboa, Bồ Đào Nha. Ông tới Goa, một thuộc địa của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, vào tháng 9 năm 1578 và bốn năm sau đó được đưa tới Trung Quốc.
Năm 1582, Ricci bắt đầu học về ngôn ngữ và phong tục Trung Quốc tại Ma Cao, một trạm giao thương của Bồ Đào Nha ở miền Nam Trung Hoa, và trở thành một học giả phương Tây hiếm có đă học được văn bản chữ viết cổ điển của Trung Quốc. Năm sau, 1583, th́ Ricci bắt đầu du thám vào sâu đại lục, nhờ chuyến thăm tới Triệu Khánh thuộc Quảng Đông, từ lời mời của Tổng trấn Triệu Khánh thời đó là Wang P'an, người đă nghe về tài toán học và vẽ bản đồ của Ricci. Ông ở đó từ năm 1583 tới năm 1589 trước khi phải rời đi sau khi bị trấn tổng mới nơi này trục xuất. Chính tại Triệu Khánh, Ricci đă vẽ bản đồ thế giới đầu tiên bằng tiếng Hoa.
Trong các chuyến du hành sau đó, Ricci tới Nam Kinh và Nam Xương năm 1595, Thông Châu năm 1598 và sau đó tới Bắc Kinh lần đầu tiên vào ngày 7 tháng 9 năm 1598. Tuy nhiên, do cuộc chiến tranh Nhật Bản - Triều Tiên vào thời điểm đó nên ông không được thăm cung điện hoàng gia. Sau hai tháng chờ đợi, Ricci rời Bắc Kinh để tới Nam Kinh và rồi dừng chân tại Tô Châu thuộc tỉnh Giang Tô.
Năm 1601, Ricci trở lại Bắc Kinh, tuy lần đầu ông không được diện kiến hoàng đế Trung Hoa nhưng sau khi tặng hoàng đế chiếc đồng hồ rung chuông, Ricci cuối cùng cũng được phép tận tay trao món quà cho hoàng đế Minh Thần Tông tại cung điện và Ricci cũng chính là người phương Tây đầu tiên được mời vào Tử Cấm Thành của Trung Quốc.
Dù cho Ricci được quyền tự do vào Tử Cấm Thành nhưng ông lại không được gặp mặt Minh Thần Tông, nhưng bù lại ông được Minh Thần Tông trao cho chức vụ Tổng giám mục về Thiên chúa Giáo tại Trung Quốc. Nhờ đó mà Ricci có cơ hội được gặp nhiều quan chức cũng như các nhân vật hàng đầu về văn hoá tại Bắc Kinh thời đó.
Ricci học rất nhiều về lịch sử và văn hoá Trung Hoa và ông cũng là người phương Tây đầu tiên t́m hiểu về cộng đồng người Do Thái ở Trung Hoa. Ông từng được liên hệ riêng bởi một thành viên của cộng đồng dân Do Thái tại Bắc Kinh vào năm 1605. Dù không bao giờ gặp mặt cộng đồng này ở Hà Nam một cách chính thức nhưng Ricci cũng gửi một người truyền giáo tới đó ba năm sau vào năm 1608, đây là một trong rất nhiều nhiệm vụ được uỷ quyền bởi Giáo hội.
Ricci sống tại Trung Quốc cho tới khi ông qua đời ngày 11 tháng 5 năm 1610 tại Bắc Kinh.
(H́nh 2) Một phần bản đồ khu vực Viễn Đông [chép lại bản đồ của M. Ricci, nguồn : Thư viện Tohoku] |
Trong tấm bản đồ này, các chú thích được ghi bằng hai ngôn ngữ : tiếng Hán và tiếng Nhật, tại phần lănh thổ Việt Nam ngày nay đă được ghi chú, phần ghi chú này rất quan trọng. (H́nh 2), (H́nh 3)
|
(H́nh 3) |
(H́nh 4) |
Ḍng chữ Hán (H́nh 4) được ghi chú trên vùng biển Đông này có nghĩa là :
“ Thanh danh văn vật [triều] Đại Minh thịnh vượng, nhiều nước trong bốn biển ‒ ở khoảng 15 độ đến 42 độ ‒ đều đến triều cống. [bức] tổng đồ này [chỉ] diễn tả chung về núi, sông, tỉnh, đạo. không thể vẽ tường tận cụ thể như [sách] Nhất thống chí, Tỉnh chí ghi chép ”
(H́nh 5)
Và 4 chữ [hàng dọc] (H́nh 5) đọc là : Vạn lư trường sa.
Ḍng chữ Hán (H́nh 4) được ghi chú trên vùng biển Đông có một điểm tồn nghi cần được các nhà ngôn ngữ học phân tích. Bởi v́ nếu ghi chú này do người Nhật chú thêm vào bản màu chép lại của Ricci th́ có thể hiểu là :
“ Đại Minh nghe rằng các nước bốn bể chung quanh từ 15 độ đến 42 độ… đều giàu có và tất cả đều là nước triều cống. Bản đồ tổng quát nầy giản lược không ghi các tỉnh, đạo, núi, sông…. không thể chép hết chi tiết tỏ tường như Đại Minh Nhất thống Chí, Tỉnh chí ”
Điều này có thể hợp lư bởi trong bản gốc bản đồ thế giới của Matteo Ricci, tại khu vực biển Đông của Việt Nam ngày nay không có một ghi chú nào cả !
(H́nh 6) Bản gốc bản đồ thế giới của Matteo Ricci (bản một màu) Nguồn : Wikipedia |
Điểm thứ nhất chúng ta cần đặc biệt chú ư, Ricci đă sáng tác tấm bản đồ thế giới đầu tiên bằng chữ Hán theo bản đồ được vẽ ở Châu Âu, hiện nay tấm bản đồ nầy đă thất lạc. Viên quan nhà Minh tên là Lư Chi Tảo(李之藻) đă dày công vẽ lại thành “ phiên bản Lư Chi Tảo ” với tên gọi là “ Khôn Dư vạn Quốc toàn đồ ”. 2
Lư Chi Tảo [李之藻](?-1630)
Bản đồ “ Khôn Dư vạn Quốc toàn đồ ” hiện lưu trữ tại viện bảo tàng tỉnh Miyagi (Nhật Bản) là 1 trong hơn 20 tấm được xác nhận nơi lưu trữ. Nhiều địa danh, chú thích được tu chỉnh, viết so với bản gốc của Lư Chi Tảo, có thể được vẽ lại sau năm 1664 tại Nhật Bản.
Trong thời kỳ Nhật Bản “ bế môn tỏa cảng ” (1793-1858), phiên bản nầy đă được du nhập vào Nhật Bản, gây ảnh hưởng lớn đên nhận thức thế giới của người Nhật trong thời Edo (1603-1868). Nguyên tác là bản vẽ một màu nhưng phiên bản (vẽ trên gỗ) sang Nhật Bản được sao lại và được tô thành nhiều màu, và một phần địa danh được sửa lại, v́ vậy trong bản đồ phổ biến hiện nay có những địa danh phiên âm theo tiếng Nhật (Katakana).
Tại Nhật Bản hiện nay, bản khắc trên gỗ có 6 tấm nhưng phiên bản nầy chỉ có 2 tấm đông-tây và có 3 nơi hiện đang lưu trữ: Thư viện đại học Tohoku, Viện bảo tàng tỉnh Miyagi và Viện bảo tàng Kyoto. Tấm một màu được in lại từ bản khắc gỗ gồm 6 tấm ghép lại được cho là gần với bản gốc Lư Chi Tảo vẽ. Những tấm tô màu có nhiều điểm khác tấm một màu. Đặc biệt ở tấm màu có vẽ quần đảo Vạn lư trường sa (万里長沙) c̣n tấm một màu th́ không và cũng không có những chữ phiên âm (Katakana). Điều nầy có thể hiểu được là bản đồ khắc lại tại Nhật Bản đă được thêm vào 4 chữ “ Vạn Lư Trường Sa ” cùng với những chữ phiên âm và vài phần chú khác nữa.
Điểm đặc biệt thứ hai là bản đồ của Ricci khi đi vào Nhật Bản không chỉ có phiên bản của Lư Chi Tảo mà nó có đến 16 phiên bản khác nhau và những ghi chú trên bản đồ phiên bản này cũng không giống nhau. Nhưng bản đồ của Ricci được sao chép nhiều lần này đă cung cấp cho mọi người lúc bấy giờ một thế giới quan mới, có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và học thuật.
(H́nh 7) Bản một màu, phần miêu tả khu vực Việt Nam ngày nay, không có vẽ quần đảo Vạn lư trường sa (万里長沙) Nguồn : Thư viện Miyagi và Thư viện TĐH Kyoto |
Trong bản của Lư Chi Tảo vẽ lại bản gốc của Matteo Ricci không có 4 chữ “ Vạn Lư Trường Sa ” là điều nên lưu ư hơn cả, chứng tỏ thời Nhà Minh đă không nhận thức được quần đảo nầy là thuộc về ḿnh hoặc không biết đến sự tồn tại trong phần lănh thổ của Trung Quốc thời bấy giờ. Hơn thế nữa người Nhật vẽ thêm “ Vạn Lư Trường Sa ” cho thấy trong nhận thức của người Nhật nầy th́ dăy đảo“ Vạn Lư Trường Sa ” nằm rải rác trên biển Đông, dọc theo Chiêm Thành (Lâm Ấp) nơi có nhiều thuyền buôn qua lại mà trong thời kỳ nầy loại thuyền “Shuninsen”(Chu ấn thuyền)3 tấp nập đến Phố Hiến, Hội An, Chiêm Thành... mua bán (trầm hương, sừng tê giác, yến sào, gốm sứ...) kéo dài trong gần 40 năm mà thị xă Hội An với phố cổ Nhật Bản ngày nay là một bằng chứng.4
Cũng có một điểm đáng chú ư khác nữa là lần đầu tiên vùng biển giữa Triều Tiên và Nhật Bản được ghi là biển Nhật Bản (Nhật Bản Hải) có lẽ v́ là phiên bản lưu hành tại Nhật Bản nên đă được thêm vào? 5
Điều đáng lưu ư là theo bản đồ của Ricci (bản do Nhật Bản vẽ lại) vùng biển dọc theo bờ của lục địa Trung Quốc, nằm dưới dăy đảo nước Nhật Bản được ghi là " Đại Minh Hải " chứ không phải là biển Trung Hoa hay Nam Trung Hoa và trong Đại Minh Hải nầy không bao gồm vùng biển Đông ngày nay và những ḥn đảo trong khu vực này chứng tỏ nhà Minh lúc bấy giờ đă không xem biển Đông và những đảo ấy là của ḿnh . (H́nh 8)
(H́nh 8) Một phần bản
đồ khu vực Viễn Đông [bản chép lại bản đồ của Matteo
Ricci] |
Như vậy, tấm bản đồ này được Matteo Ricci hoàn thành vào đầu thế kỷ XVII trong lúc bối cảnh lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ như thế nào ?
Ở đây, cần nhắc lại quá tŕnh Nam tiến trong lịch sử Việt Nam.
Năm 1471 khi đi đánh Champa, lấy được kinh đô Vijaya, Lê Thánh Tông có ư dừng lại, chia làm cương vực ở đó. Mặc dù bấy giờ như ta đă biết, vương triều Vijaya đă suy mà Đại Việt th́ đang trong thời thịnh trị. Nhà Lê không muốn và chắc chắn cũng sẽ không nghĩ tới việc cố thôn tính một quốc gia khác mà chỉ mong sự yên ổn lâu dài trên biên giới phía Nam.
Vua Lê thân chinh, theo như tuyên bố, là v́ Champa đă quấy nhiễu biên giới, cũng v́ một quan niệm là “ Đại Chiêm và Cổ Luỹ trước là đất của ta, gần đây bị mất về nước Chiêm Thành, nên lấy lại được hết, sai các ngươi trấn thủ ”. Vua đă lấy cả vùng Vijaya nay là B́nh Định liền một dải với Cổ Luỹ để có địa giới tự nhiên hiểm trở ở phía Nam là đèo Cù Mông, lập nên đạo Quảng Nam, nhằm thực hiện ư định đó. Trong cuộc hành quân này, quân Đại Việt c̣n vượt qua đèo Cù Mông, tiến tới núi Bia Đá (Thạch Bi) 6.
“ Núi này có một chi, đến bờ biển thành hai… có một khối đá lớn, quay đầu về phía đông như h́nh người… (Vua Lê) sai mài vách núi dựng bia đá để chia địa giới với Chiêm Thành ” 7.
Với ư định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía Nam, vua Lê cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới đèo Cả (hay Đại Lănh) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh. Lấy lại phần thượng nguyên ở phía tây Hoa Anh – vùng Che Reo để lập nước Nam Bàn. Như vậy, Chiêm Thành ngăn cách hẳn với Đại Việt bằng hai nước, tuy nhỏ nhưng cũng là tấm đệm từ miền núi ra đến biển.
Đầu thế kỉ XVI, nhà Lê suy yếu, tiếp đến việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi (1527), rồi đến việc họ Trịnh làm Chúa, nắm quyền và việc Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ phương Nam để tránh tị hiềm.
Lúc đầu (năm 1558), Nguyễn Hoàng được nhận trấn thủ Thuận Hoá (gồm Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế ngày nay), tiếp đó lại xin được giao thêm quyền trấn thủ Quảng Nam (từ Quảng Nam đến B́nh Định ngày nay - năm 1570).
Ngay khi vừa nhận thêm quyền trấn thủ Quảng Nam, Nguyễn Hoàng đă cử Lương Văn Chính làm Tri huyện Tuy Viễn (một trong hai huyện của tỉnh B́nh Định, giáp giới Hoa Anh) và giao nhiệm vụ giữ yên phía Nam.
Năm 1578, Lương Văn Chính cầm quân tiến vào Hoa Anh, vây và hạ thành An Nghiệp – thành kiên cố và đồ sộ nhất trong lịch sử Chiêm Thành, đẩy họ về cương giới cũ ở phía Nam đèo Cả. Vua Chiêm Thành, theo niên giám là Po At (1553- 1579), có lẽ đă bị chết trong thời điểm này. Trận đánh chỉ mới nhằm lập lại trật tự cũ, tuy nhiên Lương Văn Chính cũng đă tiến thêm một bước trong việc đưa dân lưu tán vào khai khẩn miền đất này, rải rác từ phía Nam đèo Cù Mông đến đồng bằng sông Đà Diễn.
Trong khoảng 10 năm cuối thế kỉ XVI và đầu thế kỉ XVII, Chiêm Thành lại lấn đất Hoa Anh, giết và đuổi những người nông dân Việt vào cư trú khai khẩn miền đất này. Năm 1611, Nguyễn Hoàng sai Nguyễn Phong làm tướng, đem quân vào đánh lại, Chiêm Thành bị thua, vua là Po Nit (1603 – 1613) phải bỏ Hoa Anh rút quân về phía Nam đèo Cả. Lần này họ Nguyễn đă lấy hẳn đất Hoa Anh, lập ra một phủ mới là phủ Phú Yên, gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Ḥa, lập dinh Phú Yên, đóng quân để pḥng giữ. Lương Văn Chính đươc cử làm tham tướng dinh Trấn Biên, sau đó là dinh Phú Yên.
Như vậy, với việc lập phủ và dinh Phú Yên, chúa Nguyễn muốn xác lập hẳn quyền cai trị của ḿnh trên một miền đất đă có sự góp sức khai khẩn của nông dân Việt trong mấy chục năm, muốn chấm dứt sự tranh chấp trên một vùng đệm để có thể yên tâm đối phó với cuộc chiến tranh chinh phạt của chúa Trịnh, một thử thách quyết liệt không thể tránh khỏi đối với chúa Nguyễn ở Đàng Trong 8.
Xác định lại thời điểm lịch sử kể trên để thấy rằng, vào năm 1602 (năm mà Matteo Ricci hoàn thành tấm bản đồ của ḿnh), Vạn lư trường Sa không thuộc về lănh thổ của nhà Minh.
Cũng từ nội dung được ghi chú tại khu vực biển Đông trên tấm bản đồ này đă cho chúng ta thấy rằng tư tưởng Hoa Di (Đại Hán) là truyền thống của các triều đại Trung Quốc (Hán, Đường, Tống, Minh,...) từ ngàn xưa.
C̣n tên Vạn lư trường sa đầu tiên xuất hiện vào năm nào và ai là tác giả ? Đây tiếp tục là nhiệm vụ của các học giả chuyên nghiên cứu về các vấn đề của biển Đông.
Nh́n lại quá tŕnh hoạt động của Matteo Ricci ở Trung Quốc và vai tṛ của ông đối với triều Minh lúc bấy giờ, tấm bản đồ thế giới mà Matteo Ricci đă vẽ sẽ là một điều lư thú cho những ai nghiên cứu mối quan hệ quốc tế giữa các quốc gia Đông Nam Á và các quốc gia Đông Bắc Á với “ Thiên triều ” trong thế kỷ XVI-XVII.
------------------------------------
1 Xin cám ơn 2 bạn Submarine, Vaputin (hoangsa.org) đă “mở đường” cho bài viết này.
2 Năm 1583, khi chính thức vào Trung Hoa lục địa, Matteo Ricci đă áp dụng kinh nghiệm thích ứng với Phật Giáo của các tu sĩ Ḍng Tên tại Nhật. Ông cạo đầu, mặc áo cà sa. Vài năm sau, khi nhận thấy địa vị Phật Giáo tại Trung Hoa có phần thấp, việc áp dụng phương cách “thích ứng Phật Giáo” không mấy ảnh hưởng, ông đă thay đổi phương pháp, cải thành thích ứng Nho Gia : mặc y phục như các phần tử trí thức Nho Gia, tham dự các lễ tiết, học cổ văn và hơn nữa cố gắng đón nhận những lễ nghi truyền thống của Trung Hoa như cúng bái tổ tiên. Kết quả là trong tâm tư người Trung Hoa, ông trở thành một học giả Tây Phương được khắp nơi dưới thời Minh mạt, mời tham gia “Học thuật nghiên thảo hội” (Giảng hội học), thảo luận các vấn đề triết học. Cứ như thế, Matteo Ricci đă cùng các học giả Nho Gia như Từ Quang Khải, Lư Chi Tảo, và Dương Đ́nh Quân trở thành bạn, và hơn nữa đă đưa họ vào Đạo.
3 Thương thuyền mang ấn thư triện đỏ do Mạc Phủ cấp gọi là “Chu ấn thuyền” (Shuinbune) hay Goshuinsen (Ngự chu ấn thuyền) - ám chỉ thuyền của Mạc Phủ cử đi để phân biệt với tàu buôn của bọn “hải tặc”.
4 Cần nhắc lại rằng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, tàu buôn Nhật Bản sang Chiêm Thành, Lâm Ấp... rất nhiều để mua ngà voi, sừng tê giác, trầm hương…, v́ vậy việc bản đồ có ghi thêm chữ Vạn Lư trường Sa là điều dễ hiểu !
Xin tham khảo thêm :
- Hồng Lê Thọ, Con đường tơ lụa trên biể̉n
- Japan early trade coin and the commercial trade between Vietnam and Japan in the 17th century
- Gốm thương mại Việt Nam trong hành tŕnh mậu dịch gốm sứ châu Á
5 Hiện nay Hàn Quốc đang đấu tranh với các tổ chức quốc tế để gọi khu vực biển này là biển Korea thay cho tên gọi biển Nhật Bản.
Xin tham khảo thêm :
Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, Số 4(75).2009, Đinh Kim Phúc, Chủ quyền quốc gia Việt Nam trên vùng biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa.
6 Núi Thạch Bi ở phía Đông Huyện Tuy Hoà, phía Bắc đèo Cả, thuộc Thị xă Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên ngày nay.
7 Đại Nam nhất thống chí, T.III, trang 65.
8 Dẫn theo Lương Ninh (Chủ biên), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Giáo Dục, 2005.