Mênh mông hận nước
Rước voi
dầy mồ
Nước mất nhà tan.
Tục ngữ
Ngày
28 tháng chạp Âm lịch
(24/1/2009), Ban Liên
Lạc Đồng Hương Thanh Hóa
ở Hà Nội đă đến
biếu quà tết cựu Tổng Bí
Thư Lê Khả Phiêu tại tư
gia. Nhân dịp
này, ông Phiêu đă dẫn
các thành viên trong
đoàn đi thăm nhiều nơi
trong toà nhà mới và
cuối cùng đă tặng cho
mỗi người một tập sách
do ông tự viết về đời
ḿnh với nhan đề: "Mênh
mông t́nh dân".
Nhan đề tập sách đẹp và
cuộc đời của lê Khả
Phiêu cũng rất đặc biệt
trong binh nghiệp và
chính trị của đảng Cộng
Sản.
Về binh nghiệp, ông
Phiêu đă nhập bộ đội từ
một lính trơn năm 1950
lên tới thượng tướng năm
1992. Và trong suốt đời
binh nghiệp, ông chỉ
chuyên trách về chính
trị, từ chính trị viên
đại đội lên tới chủ
nhiệm Tổng Cục Chính Trị
Quân Đội Nhân Dân Việt
Nam (1991).
C̣n về chính trị, Lê Khả
Phiêu cũng lên rất
nhanh, từ ủy viên Ban
Chấp Hành Trung Ương năm
1991 lên tới Tổng Bí Thư
Ban Chấp Hành Trung Ương
năm 1997, và đă giữ
nhiệm vụ này trong 4 năm
(1997-2001).
Không hiểu Lê Khả Phiêu
đă viết những ǵ trong
"Mênh mông t́nh dân",
nhưng chúng ta có thể
h́nh dung là ông đă viết
về cuộc đời cách mạng
của một đảng viên Cộng
Sản, chiến đấu chống
thực dân, đế quốc giải
phóng đất nước và làm
cách mạng xă hội để đem
lại tự do hạnh phúc cho
nhân dân như tất cả các
đảng viên Cộng Sản đă tự
nhận là những người đầy
tớ trung thành của nhân
dân. Với cái tên T́nh
Dân, không hiểu ông
Phiêu muốn nói về cái
t́nh của dân đối với
ông, đối với lănh đạo,
với đảng Cộng Sản hay
ông muốn ám chỉ cái t́nh
rộng lớn của ông đối với
nhân dân. Dù ư ǵ th́
"Mênh mông t́nh dân"
cũng hàm ư về thứ t́nh
hỗ tương giữa lănh đạo
với dân và dân với lănh
đạo, với đảng.
Làm cách nào để đo
lường, để h́nh dung cái
t́nh này. Nếu đo bằng
lời th́ trừu tượng vô
cùng mà lời th́ cũng đă
có quá nhiều trong ngôn
ngữ của đảng, của các
cấp lănh đạo trên nửa
thế kỷ nay. May mắn là
trong dịp Ban Liên Lạc
Đồng Hương Thanh Hóa tới
tư gia ông Phiêu đă ghi
lại được một ít h́nh ảnh
và đem công bố trên
mạng, nên chúng tôi xin
ghi lại đây ít điều về
đời sống của ông Phiêu
qua ảnh để so sánh với
đời của đa số nhân dân
đang sống quanh ông, để
từ đó có thể nhận rơ sự
biểu hiện của cái t́nh
Mênh Mông giữa ông Phiêu
với nhân dân.
I. Đời quan
Tầng lớp lănh đạo đảng
Cộng Sản sống kín cổng
cao tường và trên 20 năm
nay, sau việc quay về
làm ăn với tư bản đă trở
thành triệu phú, tỷ phú
là điều không lạ ǵ với
người dân. Nhưng người
ta chỉ có thể nh́n ở
ngoài và hiểu thầm với
nhau như thế, c̣n không
mấy người có thể nh́n
vào bên trong của thế
giới lănh đạo này. Có lẽ
ông Phiêu “cởi mở” hơn,
nên đă cho đoàn đồng
hương Thanh Hóa chụp
nhiều ảnh ghi lại cuộc
chúc tết và cho phép phổ
biến. V́ thế chúng ta
mới thấy được một phần
đời sống của ông cựu
tổng bí thư đảng Cộng
Sản.
Trước hết đó là ṭa nhà
mới của ông Phiêu ở số
7/36 C1 Lư Nam Đế, Hà
Nội. Ṭa nhà 4 tầng trị
giá 5 triệu mỹ kim. Từ
tầng 4 có thể nh́n bao
quát thành phố Hà Nội,
chẳng hạn nh́n rơ khu Bộ
Quốc Pḥng và cột cờ
thành phố.
Pḥng khách rộng lớn,
thiết trí như một đại
sảnh với nhiều thứ quí
giá. Ảnh cho thấy:
- Lọ lục b́nh cổ lớn
nhiều màu bài trí khắp
nơi với nhiều bức tranh
lớn, ảnh Karl Marx,
Lenin và Hồ Chí Minh.
- Những tủ sách cao, đầy
ắp những bộ sách dày b́a
cứng. Chắc hẳn đó là
những tập sách kinh điển
của Marx, Lenin, Stalin,
Mao Trạch Đông, Hồ Chí
Minh, và có thể là những
bộ bách khoa toàn thư…
- Cùng với sách là những
bức họa, ảnh và tượng
của lê Khả Phiêu ở khắp
đại sảnh. Trong đó nổi
bật là bức chân dung Lê
Khả Phiêu trong khung
lớn dát vàng trên nền
đỏ, phía trước chân dung
có bộ ngà voi lớn chầu
đặt trên một tác phẩm
điêu khắc bằng gỗ quí,
theo lời chú trong ảnh
th́ giá không dưới
50.000 mỹ kim.
- Ảnh cho thấy 2 thứ đặc
biệt: Thứ nhất, đại sảnh
trưng bày trống đồng
Đông Sơn, bảo vật của
quốc gia. Như vậy là ông
Phiêu đă lấy đồ quốc bảo
ở bảo tàng viện về làm
của riêng. Thứ nh́ là
bàn thờ với pho tượng
Phật lớn và bên cạnh
tượng Phật là tượng Hồ
Chí Minh.
Ngoài đại sảnh, khách
được dẫn lên sân thượng
và ở đây ảnh cho thấy
vườn rau xanh, trồng
nhiều loại rau theo từng
ngăn và được chăm sóc
bằng hệ thống tự động
với phí tổn thiết kế,
theo lời chú trong ảnh
là khoảng 20.000 mỹ kim.
Vậy là gia đ́nh ông
Phiêu đă không ăn rau
của nhân dân trồng v́ có
nhiều chất độc hại. Từ
vườn rau trồng trên
trời, gia đ́nh ông có
thể tránh chất độc của
rau chợ, nhưng c̣n cá
thịt, bánh trái, sữa,
nước và không khí th́ ai
cung cấp, và đáng nói
hơn là nhân dân thành
phố Hà Nội đang ăn rau
độc hại, đang uống nước
ô nhiễm… T́nh dân Mênh
Mông mà sao lại cách
biệt giữa chuyện ăn uống
giữa quan và dân. Thời
ông Phiêu nhập Việt Minh
năm 15 tuổi ở Thanh Hóa
th́ ông ăn ǵ, uống ǵ
và mấy chục năm qua ông
sống với ai?
II. T́nh dân
Xin ghi lại một số cảnh
đời của dân trong giai
đoạn đổi mới kinh tế mà
ông Phiêu và các quan
Cộng Sản thành triệu
phú, tỷ phú.
1. Dân đói
rét:
Trong bài kư “Nông
Dân và Đất”,
nhà báo Vơ Đắc Danh đă
ghi lại t́nh cảnh của “Nông
dân xă Khánh B́nh Tây
thuộc Cà Mau, một xă có
2600 hộ dân với hơn 40%
sống dưới mức nghèo khổ,
trong đó có gần 500 hộ
dân không có đất, nghĩa
là có hàng ngàn con
người trên cái vùng đất
nhỏ nhoi này không biết
phải làm ǵ để sống. Làm
mướn ư? Đâu phải lúc nào
cũng có người ta mướn để
mà làm. Mùa gặt họ vào
nông trường săn chuột,
bắt ốc, hái rau th́ bị
xô, bị tịch thu phương
tiện, bị đánh đập, thậm
chí bị bắn trọng thương,
bởi dưới con mắt của cán
bộ nông trường, họ là
nhũng phần tử bất hảo
cần phải cách ly. Nhiều
người kéo nhau ra biển
xúc cua giống để bán th́
bị các anh bảo vệ nguồn
thủy sản vây bắt v́ cái
tội ăn trộm tài nguyên
thiên nhiên”.
Ngày nay trên khắp nước
có những chợ người, như
những vùng biên giới Tàu
Việt, biên giới Căm Pu
Chia là chợ của dân cửu
vạn đi chuyên chở hàng
lậu, chợ của phụ nữ đi
bán thân, nhưng ngay ở
thủ đô Hà Nội, trên
đường Giảng Vơ và nhiều
đường khác có những chợ
đầy người, ngày ngày chờ
ai đó tới thuê để bán
sức lao động độ nhật.
Dân Hà Nội gọi đó là chợ
người.
Nhà báo tự do (blogger)
Tạ Phong Tần, trong bài
“Lại
thêm 1 người nh́n thấy
“Thiên Đường”,
có đoạn viết: “Mùa
đông năm nay, thủ đô Hà
Nội đă xảy ra t́nh trạng
nông dân lê tấm thân ra
thành thị kiếm miếng ăn
và chết đói, chết rét vạ
vật trước hiên nhà người
khác như thời “nô lệ”
trước tháng 8 năm 1945.
Mới ngày 21/11/2008 vừa
rồi, người dân Hà Nội đă
phải chứng kiến một
thanh niên quê Phú Thọ
mới 34 tuổi, làm nghề
đánh giày, đă chết ở
hiên nhà khu tập thể
Thành Công. Ngày
5/1/2009 lại thêm 1
người đàn ông trẻ khoảng
35- 40 tuổi chết ở vỉa
hè phố chùa Bộc “Sau khi
được đưa vào bệnh viện
cấp cứu, người đàn ông
kể trên đă chết v́ lạnh
cóng”.
Người chết không
phải là những con nghiện
hay thành phần lang
thang ngoài phố chờ cơ
hội trộm cắp, cướp giật,
cũng không già tuổi đến
mức độ sức khỏe giảm
sút, cũng không bị bệnh
tật từ trước hay bị
thương tích dẫn đến suy
kiệt cơ thể; họ có sức
khỏe và chăm chỉ làm
lụng kiếm đồng tiền chân
chính để sống; cay
nghiệt thay, vậy mà họ
vẫn phải chết. Hai cái
chết thương tâm của 2
người trẻ v́ đói rét,
tha phương cầu thực,
không nơi cư trú”.
Báo điện tử Dân Trí ngày
6/2/2009, trong bản tin
“Dân
đổ xô cướp gà tiêu hủy”
đưa tin: “Chiều ngày
5/2, Chi Cục Thú Y Hà
nội đă chở 1500 con gà
bệnh (khoảng 3 tấn) đến
băi cát xă Hồng Vân,
thường Tín để tổ chức
tiêu hủy. Tuy nhiên tại
đây, khi lực lượng
chuyên ngành bắt đầu đưa
gà xuống hố chôn theo
quy định th́ người dân
địa phương đă đổ xô vào
cướp gà. Do lực lượng
chức năng quá ít, trong
khi người dân lại đông
nên đành bó tay. Người
dân nhảy cả xuống hố để
lấy gà, ném lên cho
người đứng trên bờ cho
vào bao tải. Tiếp đến,
người dân đổ xô vây lấy
xe chở gà và trèo lên cả
xe để cướp. Thậm chí, để
tiện cho việc lấy gà, có
người c̣n leo lên ca
bin, lái chiếc xe chở gà
ra giữa băi cát.
Kết quả là chỉ khoảng
20% số gà nói trên được
tiêu hủy, c̣n lại đă bị
cướp hết. Ngoài ra có
những con gà chết bị vứt
vương văi khắp nơi”.
2. Dân oan
Từ thập niên 1990 đến
nay, chính sách thu hồi
đất của nhà nước xă hội
chủ nghĩa để giải phóng
mặt bằng xây dựng khu đô
thị, khu công nghiệp,
khu du lịch, sân golf…
đă biến 7 triệu nông dân
thành dân không có đất
sinh nhai. Trong đó,
nhân danh chính sách thu
hồi đất để phát triển
kinh tế, các ông quan
Cộng Sản địa phương,
tỉnh, huyện, xă đă cướp
đất của dân để làm của
riêng, để bán cho tư bản
đă tạo thành những lớp
sóng phẫn nộ, phản kháng
trên khắp nước. Để đối
phó với vấn đề này, nhà
nước đă thiết lập nhiều
Văn Pḥng Tiếp Dân từ
tỉnh tới thành phố, quốc
hội, thủ tướng để người
dân bị cướp đất, nhà
cửa, ruộng vườn tới nạp
đơn khiếu kiện. Có được
cửa công lư nên dân đă
tới, nhưng đâu biết đó
là một thứ công lư giả
nên đơn khiếu kiện chồng
chất từ năm này đến năm
khác không được xét sử
với đủ thứ lư do. Xét xử
làm sao khi tất cả từ
trên xuống dưới đều là
một bọn tham quan có
đảng bảo vệ để độc quyền
tham nhũng th́ ai xử ai?
V́ thế, những Văn Pḥng
Tiếp Dân ở Hà Nội (khu
vườn hoa Mai Xuân Thưởng
và 110 Cầu Giấy) và ở
Sài G̣n (210 Vơ thị Sáu)
đă trở thành những Công
Trường Đ̣i Công Lư. Dân
oan lấy vườn hoa, hè
đường làm nhà và áo họ
đă trở thành những tấm
biểu ngữ (để công an
nhân dân không thể cướp
và xé) tố cáo đích danh
những ông quan địa
phương: Chủ tịch xă,
huyện và tỉnh đă cướp
nhà cửa, ruộng vườn của
họ. Khi dân oan tụ tập
đông quá trong thời gian
quốc hội họp, hay có
những phái đoàn quốc tế
tới thăm th́ công an
nhân dân lại đem lực
lượng cơ động đến bao
vây, bắt dân oan quẳng
lên xe chở tới giam vào
một nơi nào đó, hoặc chở
đi đổ xuống một vùng xa
thành phố. Rồi sau đó,
từng lớp dân oan bị giải
tán lại t́m đường trở
lại Văn Pḥng Tiếp Dân
(tên đẹp mà sao nơi này
lại nhiều uất hận). Có
nhiều người đă đi nhặt
rác hay ăn xin để có thể
ở lại thành phố lâu
ngày.
Thảm kịch dân oan đă quá
lâu, quá lớn và đă trở
thành một phần lịch sử
của chế độ Xă Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam từ vô sản
tiến về tư sản. Ở đây,
xin ghi lại hai trường
hợp mới nhất biểu hiện
rơ nét về t́nh dân và
t́nh quan:
Thứ nhất là dân oan lạy
quan cộng sản:
Ông Nam B́nh ở Cần Thơ,
trong bài “Việt
Nam ngày nay: Dân cày
mất ruộng”
đă viết:
“Lăo nông Lâm Văn
Phát từ huyện Thạnh Trị,
Sóc Trang đội đơn ra quỳ
lạy ở số 48 Lư Thường
Kiệt, đ̣i lại 5000 mét
vuông đất thấy mà xót
xa. Bà Nguyễn Minh Chiếu
ở An Giang bị cướp mất
70 công đất và 650 giạ
lúa lại bị tù 3 năm v́
lũ cướp ngày gian ác. Bà
đă lăn lết ra Hà Nội để
đ̣i công lư, nhưng công
lư xa vời quá.
H́nh ảnh ông Nguyễn
Thanh Đạo ở Mộc Hóa,
Long An quỳ lạy ở nhà
ông Đặng Quang Phương,
Trần Văn Tú là những phó
chánh án (?) Tỏa Án Tối
Cao ở Hà Nội thấy đau
ḷng quá. Thức cả đêm
chờ đến sáng các quan
này đi làm, chờ cổng mở,
quỳ xuống đội đơn trên
đầu và lạy theo từng
bước chân các quan.
Nhưng các quan này y hệt
bọn đàn em cướp đất dân
nghèo, lạnh lùng bước
lên xe hơi, đóng cửa cái
rầm kèm theo vài lời
chửi mắng. Vậy mà dân
oan vẫn chờ đợi và quỳ
lạy, v́ họ không c̣n
đường nào khác, quay về
nhà th́ đất bị cướp mất
rồi”.
Thứ nh́ là tiếng khóc
của dân Văn Giang:
Trong tháng 12/2008 có
nhiều vụ chính quyền điạ
phương sử dụng lực lượng
công an, bộ đội để cướp
đất của dân, chẳng hạn ở
ấp T4 xă Vĩnh Phú, Kiên
Giang (17/12), ở các
phường Vĩnh Ban, Vĩnh
Lạc, An Ḥa, Rạch Giá.
Nhưng đáng kể là vụ
chiếm đất 3 xă Cửu Cao,
Phụng Công và Xuân Quan
huyện Văn Giang, tỉnh
Hưng Yên.
Theo bản tin của nhóm
Phóng Viên Nhân Quyền
th́ dân 3 xă trên,
khoảng 23.000 người, có
hơn 500 hec ta đất làm
vườn và trồng cây cảnh
để sinh nhai, nhưng đă
bị chính quyền ra lệnh
thu hồi bán cho công ty
Việt Hưng để công ty này
xây dựng khu đô thị
(biệt thự, sân golf) và
đă đền bù với giá rẻ
mạt: 135.000 đồng/m2,
trị giá tương đương với
10 kí gạo. Trong khi đó
lănh đạo chính quyền th́
bán trao tay nhau với
giá 6 triệu/m2. Khi dân
hỏi tại sao bù cho dân
135 ngàn lại công khai
rao bán trên mạng là 6
triệu/m2 th́ ông chủ
tịch xă trả lời rằng: Đi
buôn phải có lăi!
Trước sự tước đoạt để
mua bán trắng trợn đó,
dân 3 xă đă chống lại,
quyết giữ đất bằng cách
thay phiên nhau đêm ngày
canh đất, canh cây. Cuối
cùng ngày 25/12/2008,
chính quyền huyện Văn
Giang đă huy động hàng
trăm công an, lực lượng
cơ động, cả thành phần
đầu gấu cùng các phương
tiện cơ giới đến cày,
san ủi cơ nghiệp mồ hôi,
nước mắt của dân. Khi
dân Văn Giang giàn hàng
ngăn cản xe ủi th́ công
an, bô đội huyện đă
thẳng tay đàn áp, kéo,
lôi, ném những người dân
cản đường lên bờ như ném
những con vật, rồi đấm
đá, dùng dùi cui điện
đánh vào dân bất kể già
trẻ làm nhiều người bị
thương và ngất xỉu.
Bị chính quyền đàn áp dă
man, nên ngày 7/1/2009,
trên 2000 dân Văn Giang
đă kéo lên Hà Nội biểu
t́nh trước văn pḥng thủ
tướng để bày tỏ nỗi oan.
Ở đây họ đă không được
gặp một vị quan nào để
nói lên nỗi oan mà lại
bị lực lượng công an,
cảnh sát cơ động và
thành phần xă hội đen
đàn áp dă man hơn. Cứ 2,
3 tên túm một người
quẳng lên xe bít bùng,
rồi chở về Văn Giang,
liệng xuống ven đê sông
Hồng, giữa sự vật vă, lê
lết cùng tiếng khóc của
hàng ngàn con người.
Với sức mạnh của chuyên
chính (công an, bộ đội,
xă hội đen), chính quyền
sẽ tước đoạt được đất
sống của dân Văn Giang
để xây khu đô thị Văn
Giang. Nhưng trước thảm
cảnh này, chúng ta tự
hỏi là chính quyền xây
cất khu đô thị cho ai và
để làm ǵ để phải quăng
dân Văn Giang ra ngoài
thứ đô thị này mà dân
Văn Giang không có quyền
biết đến, không có quyền
tham gia xây dựng như
khẩu hiệu nhật tụng của
nhà nước Xă Hội Chủ
Nghiă: Dân Biết, Dân
Bàn, Dân Kiểm Tra, Dân
Hưởng Thụ. Câu trả lời
đơn giản là nhà nước
liên kết với tư bản để
xây khu đô thị cho một
loại dân khác, gồm những
thành phần giàu có của
đảng, của tư bản nước
ngoài, của tầng lớp
thành đạt trong nền kinh
tế thị trường xă hội chủ
nghĩa. V́ thế mới có
chuyện cướp đất đi buôn
của chủ tịch Nguyễn Cảnh
Hưng. Ông ta nói: Đi
buôn phải có lăi. Tất
nhiên là như thế, nhưng
sao không cho dân Văn
Giang một phần cái lăi
này? Các ông quan vô sản
cũng không thể làm như
thế, không thể chia cái
lăi của nghề đi buôn
không vốn này cho ai. V́
với tiền bán đất cùng đủ
thứ làm ăn chia chác với
tư bản th́ sau khi giải
quyết xong dự án đô thị
Văn Giang, chỉ một bước
nhiều quan chức vô sản
của tỉnh, huyện sẽ trở
thành triệu phú, tỷ phú.
Do đó họ phải hy sinh
23.000 người dân Văn
Giang cho sự nghiệp làm
giàu của họ như nhiều
nơi khác trên khắp nước,
dân cũng đă phải hy sinh
như vậy. Đến như những
miền ven biển, nhiều nơi
dân chài phải than là
các cấp lănh đạo đă bán
hết bờ biển cho tư bản
nước ngoài xây dựng khu
du lịch đến nỗi họ không
c̣n chỗ để đậu ghe
thuyền đánh cá.
Chuyện xây dựng kinh tế,
xây dựng khu đô thị th́
trên thế giới, nước nào
cũng làm. Chẳng hạn như
những quốc gia ở Á Châu
như Nam Hàn, Đài Loan,
Phi Luật Tân, Thái Lan,
Mă Lai… mấy chục năm
qua, người ta đă xây
dựng nhiều khu đô thị,
khu chế xuất, khu viên
kỹ nghệ, nhưng không ở
đâu có chuyện chính
quyền huy động lực lượng
cảnh sát, quân đội, băng
đảng xă hội đen đến
cưỡng chế, cướp đất của
dân bán cho công ty tư
bản, rồi mặc xác đám dân
sau đó sống ra sao không
cần biết. Và người ta
cũng có bờ biển, có làng
đánh cá, nhưng chắc chắn
không đâu có thảm kịch
chính quyền bán bờ biển
cho tư bản nước ngoài
làm khu du lịch để dân
đánh cá không c̣n chỗ
đậu tàu thuyền. Cũng cần
nói thêm một điều là
những quốc gia ấy đă
phát triển kinh tế rất
nhanh, nhưng dân có
quyền và chính quyền tôn
trọng dân. Từ đó nước có
quy củ và người dân quí
trọng lẫn nhau. Cứ quan
sát dân Hàn, dân Đài
Loan sẽ thấy họ đối xử
lễ độ, tôn trọng nhau ở
bất cứ đâu trong đời
sống thường nhật và
chúng ta sẽ thương dân
ta, rồi tự vấn: Tại sao
họ có thể sống như thế
mà ta lại không?
Trên đây chúng tôi ghi
lại ít t́nh cảnh đời dân
dưới chế độ Xă Hội Chủ
Nghĩa, và tự hỏi không
hiểu trong tác phẩm hồi
kư “Mênh mông t́nh dân”,
ông Lê Khả Phiêu đă ghi
lại thứ t́nh này như thế
nào và ông đă làm ǵ để
đáp lại thứ t́nh Mênh
Mông này?
III. Hận nước
Ngoài t́nh dân, đời của
ông Phiêu c̣n gắn liền
với nước, v́ ông đă
chiến đấu một đời cho
độc lập, tự chủ của Việt
Nam mà chắc nội dung tác
phẩm “Mênh mông t́nh
dân” sẽ phải nói đến
những chuyện này. Cũng
như t́nh dân, chúng ta
không biết ông Phiêu
viết về t́nh nước ra
sao. Nhưng trong 4 năm
làm Tổng Bí Thư với tinh
thần khép ḿnh, phụ
thuộc t́m nơi nương tựa
như ông nói: “Trung
Quốc thành công th́
chúng ta thành công”,
Lê Khả Phiêu đă cắt
nhiều đất biên giới và
biển cho Tàu bằng 2 hiệp
định:
Thứ nhất là Hiệp Định Về
Biên Giới Việt Nam Trung
Quốc, kư tại Hà Nội ngày
30/12/1999 giữa Bộ
Trưởng Ngoại Giao Trung
Quốc Đường Gia Triền và
Bộ Trưởng Ngoại Giao
Việt Nam Nguyễn Mạnh
Cầm. Bản hiệp định không
được công bố. Nhưng nay
qua Bản Lên Tiếng của
một số cựu chiến binh và
giáo chức khu vực Hà
Đông – Hà Nội gởi lănh
đạo đảng Cộng Sản ngày
14/1/2009 cho thấy diện
tích lănh thổ đă mất
1694 km2 (v́ sách giáo
khoa cũ và niên giám
1996 ghi diện tích Việt
Nam là 336.991 km2, c̣n
sách giáo khoa in năm
2006-2007 lại ghi
329.297 km2), trong đó
khu vực danh thắng thác
Bản Giốc thuộc Cao Bằng
và khu địa linh Ải Nam
Quan ở Lạng Sơn đă thuộc
Trung Quốc như thứ
trưởng ngoại giao Vũ
Dũng mới công bố sau khi
hoàn tất việc cắm mốc
biên giới ngày
22/12/2008.
Thứ nh́ là Hiệp Định
Phân Định Vịnh Bắc Bộ
giữa Việt Nam – Trung
Quốc, kư ngày 25/12/2000
giữa Nguyễn Mạnh Cầm và
Đường Gia Triền. Bản
hiệp định cũng không
được công bố, nhưng theo
những nguồn tin được
tiết lộ th́ với hiệp
định này, Việt Nam đă
mất cho Tàu trên 10.000
km2 biển.
Sau khi Lê Khả Phiêu
cống cho Tàu gần 2000
cây số vuông đất biên
giới và trên 10.000 cây
số biển, Nông Đức Mạnh
cùng với Đỗ Mười, Trần
Đức Lương, Lê Đức Anh và
Phan Văn Khải đă mở
đường cho Trung Quốc xâm
lấn Việt Nam theo chính
sách “Hợp Tác Toàn Diện
Giữa Các Ngành Ngoại
Giao, Quốc Pḥng, Công
An, An Ninh…” qua tuyên
bố chung Việt Nam –
Trung Quốc ngày
17/11/2006 trong dịp Hồ
Cẩm Đào sang thăm Việt
Nam. Và với mỹ từ hợp
tác toàn diện, Tàu đă
khống chế Việt Nam từ
đất đến biển:
Với biển, Trung Quốc
tuyên bố Nam Hải thuộc
chủ quyền của Trung Quốc
với luận điểm hàm hồ là
từ thời Hán Vũ Đế (trên
2000 năm trước) và thời
Minh thành Tổ (thế kỷ
15), hải quân Trung Quốc
đă đi tuần thám Nam Hải
và đă khám phá ra Hoàng
Sa và Trường Sa. Từ luận
điểm hoang đường về chủ
quyền này, Trung Quốc
khai thác Hoàng Sa, lấn
chiếm Trường Sa, không
cho Việt Nam đánh cá và
thăm ḍ dầu khí ở vùng
Hoàng Sa và Trường Sa.
V́ thế, từ năm 2005 ngư
phủ Việt Nam ra đánh cá
những vùng gần Hoàng Sa
và Trường Sa đă bị hải
quân Trung Quốc bắt, bắn
giết, đâm bể tàu và xua
đuổi, c̣n chuyện t́m dầu
th́ không một công ty tư
bản nào dám liên doanh
với Việt Nam để thăm ḍ
dầu khí ở vùng Trường Sa
v́ bị Trung Quốc cảnh
cáo, phản đối là những
hoạt động ấy đă vi phạm
chủ quyền và toàn vẹn
lănh thổ của Trung Quốc
ở Nam Hải, chẳng hạn tập
đoàn BP của Anh năm 2007
và tập đoàn Exxon Mobil
của Mỹ năm 2008 đă kư
hợp đồng rồi đă phải bỏ.
Rồi để thực hiện luận
điểm chủ quyền Nam Hải,
ngày 22/11/2008, Trung
Quốc công bố tập đoàn
dầu khí của Trung Quốc (Cnooc)
sẽ thực hiện dự án 29 tỷ
đô la để thăm ḍ khai
thác tại biển Nam Trung
Quốc, trong đó có khu
vực Hoàng Sa và Trường
Sa mà chính quyền Việt
Nam cũng tuyên bố có chủ
quyền. Tất nhiên đối với
việc Trung Quốc làm, bộ
ngoại giao Việt Nam cũng
như những lần trước đă
lên tiếng phản đối với
luận điểm “Việt Nam
có đầy đủ bằng chứng
lịch sử và có cơ sở pháp
lư để khẳng định chủ
quyền và các quyền hợp
pháp đối với hai quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa
và các vùng biển và thềm
lục địa của Việt Nam”.
Phản đối như thế, nhưng
nếu Trung Quốc tiến hành
việc thăm ḍ (mà chắc
Tàu đă nói là Tàu làm)
th́ chính quyền Việt Nam
sẽ làm ǵ để ngăn cản
hay lại lên tiếng phản
đối cho phải đạo để dối
dân, rồi im lặng tuân
thủ chính sách 16 chữ
vàng và 4 tốt: Láng
giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu
dài, hướng tới tương lai
và măi là láng giềng tốt,
bạn bè tốt, đồng chí tốt,
đối tác tốt.
Đó là chuyện mất biển,
c̣n chuyện lănh thổ th́
từ thời Lê Khả Phiêu tới
nay, Trung Quốc đă lặng
lẽ xâm lấn Việt Nam bằng
chính sách 16 chữ vàng
như sau:
Về kinh tế:
Từ sau trận chiến “Dạy
cho Việt Nam một bài học”
năm 1979, Trung Quốc vẫn
không ngừng trận chiến
phá hoại kinh tế Việt
Nam bằng đủ thứ đ̣n hiểm
ác. Khởi đầu là thu mua
dây điện thoại, xích xe
tăng, ṇng đại bác, các
loại rễ cây, cây con,
sừng móng trâu ḅ, gỗ
quí, các loại muông thú
rừng, rồi đến biến vùng
biên giới thành cửa khẩu
để tuồn vào Việt Nam các
loại hàng lậu và cả tiền
giả.
Về di dân:
Năm 2008, chính quyền
Việt Nam đă quyết định
miễn chiếu khán nhập
cảnh cho người Hoa vào
Việt Nam. Quyết định này
là một biện pháp giúp
người Hoa ở lại Việt Nam
dễ dàng, v́ họ có thể
nhập vào những cộng đồng
người Hoa trên khắp Việt
Nam để làm đủ mọi ngành
nghề mà ngày nay th́
cộng đồng người Hoa lại
có nhiều ưu thế về kinh
tế và cả chính trị.
Về chính trị
quốc pḥng:
Đảng Cộng Sản Việt Nam
bị đảng Cộng Sản Trung
Quốc chế ngự có một lịch
sử lâu dài, nhưng đến
nay, qua chính sách Hợp
Tác Toàn Diện, với nhiều
sự việc đă xảy ra, có
thể nói là bộ Chính Trị
đảng Cộng Sản Việt Nam
đă trở thành cơ quan nội
ứng của Tàu, mở đường
cho Tàu vào Việt Nam. V́
thế chúng ta thấy:
- Dân Tàu được đi lại,
cư trú ở Việt Nam như
trên đất Tàu.
- Chính quyền cấm tất cả
những biểu lộ và ngôn
ngữ chống Tàu của dân
Việt.
- Những di tích chống
Tàu sau trận chiến 1979
đă bị xóa bỏ. Những
nghĩa trang liệt sĩ
Trung Quốc trong chiến
tranh biên giới Việt
Trung đă được đổi tên
thành “Nghĩa trang Liệt
Sĩ Trung Việt”. Chẳng
hạn một tấm ảnh trên
trang web www.ykien.net
cho thấy Nghĩa Trang
Liệt Sĩ Long Châu (Thủy
Khấu) ở biên giới tỉnh
Cao Bằng đă được đổi
thành “Nghĩa
Trang Liệt Sĩ Trung Việt
Thủy Khấu Long Châu”
với tượng đài lớn và hai
hàng chữ Hoa và Việt.
Như thế là Việt Nam đă
đồng ḷng với Tàu làm
những đài tưởng niệm
liệt sĩ Trung Việt ở
biên giới để nhớ ơn đoàn
quân Tàu đă sang xâm
lăng Việt Nam.
- Trung Quốc đă chế ngự
Việt Nam ở biển Đông.
- Và đến nay đảng Cộng
Sản Việt Nam mời Trung
Quốc lên Tây Nguyên với
những dự án bauxite.
Chuyện bauxite lộ liễu,
bất thường và quá nguy
hiểm về cả sự tàn phá
môi trường lẫn an ninh
quốc gia, nên từ tháng
11/2008 đến nay đă dấy
lên một làn sóng phản
đối từ các giới nghiên
cứu khoa học, kinh tế,
báo chí và dân chúng
trên khắp nước. Cứ đọc
bài nghiên cứu đầy tâm
huyết của tiến sĩ Nguyễn
Thành Sơn, Giám Đốc Công
Ty Năng Lượng Sông Hồng,
bác bỏ dự án mà Nguyễn
Tấn Dũng đă duyệt, cùng
những ư kiến của mọi
giới về bài nghiên cứu
này, sẽ thấy ḷng dân
phẫn nộ và âu lo như thế
nào đối với dự án.
Đến Đại Tướng Vơ Nguyên
Giáp cũng phải viết thư
gửi Nguyễn Tấn Dũng
(5/1/09) đề nghị dừng
triển khai các dự án
khai thác bauxite. Trong
thư ông cho biết là năm
1980, chính phủ đă có
chương tŕnh khai thác
bauxite trong kế hoạch
hợp tác với khối COMECON,
nhưng đă phải bỏ v́ sau
khi khảo sát, các chuyên
gia Liên Sô và khối
COMECON đă khuyến nghị
Việt Nam không nên khai
thác bauxite trên Tây
Nguyên do những tác hại
sinh thái lâu dài,
nghiêm trọng không thể
khắc phục, chẳng những
đối với dân cư tại chỗ
mà c̣n cả với dân cư
vùng đồng bằng Nam bộ.
Ngoài chuyện sinh thái,
ông c̣n nói đến vấn đề
an ninh quốc pḥng và đă
nêu lên một sự kiện:
Trong tháng 12/2008 đă
có hàng trăm công nhân
Trung Quốc đầu tiên có
mặt trên công trường (dự
kiến cao điểm sẽ lên tới
vài ngh́n tại mỗi dự án).
Nhưng đảng Cộng Sản Việt
Nam đă không đếm xỉa ǵ
đến ư kiến của các nhà
khoa học, đến ư dân, đến
những lời khuyên can đầy
lo âu của tướng Giáp,
nên Nguyễn Tấn Dũng,
trong cuộc họp báo tại
Hà Nội ngày 4/2/09 đă
khẳng định: Việc
khai thác bauxite tại
Tây Nguyên là chủ trương
lớn của đảng và nhà nước.
Chuyện đă đến như thế
th́ chỉ có thể giải
thích là đảng Cộng Sản
Trung Quốc đă biến cả bộ
Chính Trị Đảng Cộng Sản
Việt Nam thành nội tuyến
mở đường cho Tàu vào xâm
chiếm Việt Nam bằng con
đường 16 chữ vàng.
Trước đây có những nhận
định là Trung Quốc làm
chủ Hoàng Sa, Trường Sa,
ngoài chuyện kinh tế,
Trung Quốc có một lợi
thế là dùng hai quần đảo
này làm căn cứ để tiến
quân cắt đôi Việt Nam ở
miền Trung. Nhưng đến
nay th́ chuyện dùng
Hoàng Sa, Trường Sa làm
bàn đạp không cần nữa,
v́ với những dự án
bauxite cùng chục ngàn
lính Tàu giả làm công
nhân, Trung Quốc sẽ dễ
dàng nắm yết hầu Việt
Nam.
Kết luận
Từ câu chuyện Mênh Mông
T́nh Dân của Lê Khả
Phiêu, chúng tôi xin kết
luận mấy điều:
1. Với Lê
Khả Phiêu:
Trước hết ông Phiêu là
một đảng viên đảng Cộng
Sản, đă từng là người
lănh đạo tối cao của
đảng và trở thành một tỷ
phú (theo tin, tài sản
có 5 khách sạn 5 sao ở
Hà Nội và Sài G̣n, và
trên 1 tỷ Mỹ kim), sống
xa hoa trên sự đói nghèo,
tủi nhục của đa số dân
Việt do chế độ độc trị
và kinh tế xă hội chủ
nghĩa của đảng Cộng Sản
tạo ra.
Ông Phiêu nhập vào phong
trào Việt Minh từ lúc 15
tuổi, chiến đấu cho độc
lập, tự chủ của Việt
Nam, nhưng khi lên làm
Tổng bí Thư, Lê Khả
Phiêu đă quên mất mấy
chữ độc lập tự chủ nên
đă cắt đất nhượng biển
cho Tàu với tinh thần nô
lệ:“Trung Quốc thành
công th́ ta thành công”.
2. Với đảng Cộng Sản:
Đời của Lê Khả Phiêu
cũng như đời của nhiều
đảng viên cao cấp của
đảng Cộng Sản là đă đạt
vinh hoa phú quí trong
thảm kịch của nước, v́
khi đảng phát động 2
cuộc chiến tranh chống
Pháp và Việt Nam Quốc
Gia (1946-1954), chống
Mỹ và Việt Nam Cộng Ḥa
(1960-1975) với mục tiêu
giành độc lập, th́ trong
2 cuộc chiến tranh hủy
diệt gần 4 triệu sinh
mạng này đă tiềm phục
một mối họa cho nước là
đảng Cộng Sản đă không
độc lập tự chủ với Nga,
Tàu v́ đă nhận viện trợ
để làm một tên lính xung
kích cho Liên Sô và
Trung Cộng phát triển đế
quốc Cộng Sản. V́ thế,
khi thế giới Cộng Sản
tan ră th́ đảng Cộng Sản
Việt Nam đă đưa Việt Nam
vào ṿng lệ thuộc Trung
Quốc theo tham vọng bành
trướng của đảng Cộng Sản
Trung Quốc như lời của
Mao Trạch Đông đă nói
với lănh đạo Cộng Sản
Việt Nam ở Vũ Hán năm
1963: “Tôi sẽ làm
chủ tịch 500 triệu bần
nông đưa quân xuống Đông
Nam Á” và “Chúng
ta phải giành cho được
Đông Nam Á bao gồm cả
miền Nam Việt Nam, Thái
Lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a
và Xin-ga-po. Một vùng
Đông Nam Á rất giàu, ở
đây có nhiều khoáng sản,
xứng đáng với sự tốn kém
cần thiết để chiếm lấy” (Bạch
Thơ - Sự Thật Về Quan Hệ
Việt Nam – Trung Quốc
Trong 30 Năm Qua”.
Trong đời Mao, Mao chưa
thực hiện được giấc mộng
đế quốc Đại Hán, nhưng
tới thập niên 2000 th́
đảng Cộng Sản Trung Quốc
đă có Việt Nam trong tay
và đă có thể tung hoành
ở biển Đông. V́ thế năm
2000 và 2006, Giang
Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào
đă từ Bắc Kinh đến thẳng
Hội An tắm biển, nh́n ra
Hoàng Sa, Trường Sa
trước khi ra Hà Nội ban
chỉ thị cho lănh đạo
đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hành động của Giang và
Hồ cao ngạo bất thường,
nhưng hai tên này đă làm
như thế để nói với thế
giới là Việt Nam và Nam
Hải đă thuộc quyền của
Trung Quốc.
Và đến nay th́ Trung
Quốc đă đi dần tới việc
kiểm soát Việt Nam toàn
diện khi có thể thung
dung đem quân lên Tây
Nguyên vừa khai thác
bauxite vừa chiếm giữ
hiểm địa cao nguyên để
thực hiện tham vọng bành
trướng Đại Hán mà Mao đă
vạch ra từ thập niên
1960.
3. Với đảng
viên đảng Cộng Sản:
Trước
những thảm kịch đang
diễn ra trong xă hội
Việt Nam, chúng ta thấy
là 3 triệu đảng viên
đảng Cộng Sản, từ thấp
tới cao, đă dùng đất
nước như của riêng và
bóc lột 80 triệu dân,
coi dân như những súc
vật, để làm giàu cho cá
nhân, nhưng họ đă quên
một mối họa là rồi đây
chính họ, con cháu họ sẽ
trở thành những tên nô
lệ của đế quốc Tàu, và
lúc đó họ và dân Việt
lại thành những con vật
dưới ách thống trị của
thực dân Tàu. Khi đó ai
là Việt, ai là Tàu? Ai
là kẻ thống trị và ai là
kẻ bị trị?
Từ một số sự việc ghi
lại trên đây xin thưa là
trên nửa thế kỷ thống
trị với chế độ chuyên
chính, đảng Cộng Sản
Việt Nam đă gây nên
những thảm họa cho dân,
cho nước như thế th́ làm
ǵ có chuyện t́nh dân,
t́nh nước mà Lê Khả
Phiêu lại lộng ngôn với
tác phẩm “Mênh mông t́nh
dân”?
Chúng ta hiểu những
người lănh đạo Cộng Sản
luôn luôn dùng mỹ từ xảo
trá để quay lưng lại
những sự thật đen tối
đau ḷng. V́ thế chúng
ta phải kéo họ quay lại
một sự thật, một Thực Từ
là đảng Cộng Sản Việt
Nam, là chính họ đă tạo
cho nước một bộ sử: Mênh
Mông Hận Nước.
Việt Dương