Video Tài Liệu Audio Tài Liệu Nhạc Tin Tức & Thời Sự B́nh Luận

 

Dựng lại niềm tin

Dựng lại niềm tin

 

Bảo Giang

 

Nhiều người cho rằng, phải lật đổ sợ hăi, tạo thế và sức mạnh để tiêu diệt cộng sản. Tôi không nghĩ thế. Trái lại, tôi cho rằng: Nếu không tạo đưọc niềm tin trong chính ḷng ḿnh, cũng không tạo được niềm tin cho những người đồng hành th́ đừng nói đến cuộc tranh đấu. Đừng nói đến việc lật đổ sợ hăi. Đừng nói đến việc tạo ra sức mạnh. Đừng nói đến chuyện lật đổ và tiêu diệt bọn bạo tàn Việt cộng. Tóm lại, không có niềm tin, đừng mơ tưởng đến việc thành công. Kể cả trong trường hợp tự giết nhau như Boris Yeltsin đă làm, cũng không có ngoại lệ.

Tại sao lại phải dựng lại niềm tin cho ḿnh và cho người đồng hành?

Tại v́, không có niềm tin, không thể trấn áp được sự sợ hăi, không thể tạo ra sự liên kết, không thể tạo ra được sức mạnh, không thể tạo ra dược hành động! Không có hành động, không thể có thành công!

Thật vậy, lịch sử từ ngàn xưa đă chứng minh một cách rất rơ ràng rằng niềm tin chính là sức mạnh, khơi nguồn cho tất cả mọi cơ nguyên, mọi cơ cấu tồn sinh và phát triển. Sự phát triển này có mặt ở trong tất cả mọi lănh vực từ chính trị, xă hội, kinh tế đến khoa học, kỹ thuật. Không có một lănh vực nào mà không cần có niềm tin để dẫn đường. Đời sống của tôn giáo cũng không có ngoại lệ. Hơn thế, niềm tin để bảo vệ sự thật và phát triển tôn giáo c̣n mạnh hơn cả sự chết và nó có sức mạnh làm đổi thay cả bộ mặt của địa cầu.

ĐGH John Paul II và Lech Walesa

Từ đâu, tôn giáo lại có thể tạo cho con ngựi sức mạnh lớn lao để phát triển, và làm thăng tiến bộ mặt thế giới như hôm nay? Câu trả lời ngắn gọn và chính xác nhất tôi nghĩ rằng: Bởi v́ họ có niềm tin tuyệt đối vào Đấng mà họ gọi là Đường là Chân Lư và là Sự Sống. Và chính hướng đi, Chân Thiện Mỹ này đă làm cho cuộc sống của họ và thế giới ngày thêm đổi mới và tuơi đẹp hơn. Và chínnh lư tưởng này đă giúp họ không sợ hăi trước những cuộc bách hại. Điển h́nh, Đức Giáo Hoàng John Paul II, đủ là minh chứng cho sự kiện phải dựng lại niềm tin qua lời của ngài, Đừng Sợ Hăi, để người Ba Lan nhờ vào đó mà quật ngă con quái vật cộng sản trên đất nước này.

Ở Việt Nam ta cũng thế, những lương tướng anh tài của non sông cũng là những người đă tạo cho ḿnh và cho dân chúng một niềm tin tuyệt đối để có thể thắng quân thù trong suốt ḍng lịch sử dân tộc Việt như: Đức Trần Hưng Đạo, Vua Lê Lợi, Hai Bà Trưng, Ngô Quyền hay Vua Quang Trung và gần đây những cuộc tập hợp của giáo dân ở TKS, Thái Hà, Tam Ṭa… đă là những điển h́nh chứng minh sức mạnh của nềm tin.

Nếu so sánh về lực lượng, ta nhỏ bé hơn Tàu, kỹ thuật thua hẳn Tây. Nhưng v́ có niềm tin và ư chí tự thắng của người Việt Nam, ta đă gạt bỏ mọi sợ hăi. Mở cuộc tấn công và đă chấm dứt cảnh nô lệ Tàu và nô lệ Tây!

Chỉ tiếc rằng, công lao kháng chiến của toàn dân đă bị Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản cướp đoạt và phản bội. Phản bội bằng cách thiết lập một chế độ độc tài toàn trị với chủ trương phục vụ cho quyền lợi của cộng sản quốc tế. Từ đó, chúng phá bỏ và tiêu diệt nền luân lư đạo đức của xă hội. chống chọi trực tiếp với tinh thần đại gia đ́nh và niềm tin tôn giáo, của Việt Nam. Và phản bội bằng cách cương quyết đẩy Việt Nam vào hướng đi khốn cùng, ảo tưởng của cộng sản theo tinh thần của đại hội kỳ V với nghị quyết vào tháng 6,1924 như sau:: “Điều mà chúng ta bắt buộc các đảng Cộng Sản phải làm là t́m cách xử dụng các phần tử dân tộc chống lại giai cấp tư sản. Các đảng Cộng Sản phải thúc đẩy các phần tử bất măn chống lại chế độ… Dĩ nhiên chúng ta không bao giờ chấp nhận các phần tử dân tộc… Chúng ta chỉ lợi dụng sự bất măn của họ để phục vụ cuộc cách mạng vô sản.”

Theo nghị quyết này, mục tiêu Hồ Chí Minh theo đuổi không c̣n là nền độc lập dân tộc nữa, nhưng là sự thành công của đảng cộng sản ở bán đảo Đông Dương. Và kẻ thù của cộng sản không chỉ là các guồng máy thực dân thống trị, mà là toàn thể nhân dân theo tinh thần nhân bản chủ nghĩa.

Từ đó, dân tộc Việt Nam trong mắt Hồ Chí Minh không c̣n là một tập thể đồng bào cùng chung huyết mạch con rồng cháu tiên, không c̣n là phần tử bị thực dân áp bức, mà là một tập thể dân tộc theo tư bản chủ nghĩa, kẻ thù không đội trời chung của cộng sản. Nên từ đó, lực lượng dân tộc yêu nước đă liên tục bị Việt cộng triệt hạ, bị tiêu hao v́ không cùng chung mục tiêu với cộng sản. Nói cách khác, dưới sự lănh đạo của Hồ Chí Minh, đảng Cộng Sản đă trở thành lực lượng bạo tàn chống lại những người yêu nước chống thực dân. Đơn giản hơn là, khối dân tộc Việt Nam yêu nước bị coi là kẻ thù của cộng sản nếu không đi theo chúng.

Rồi với chủ trương thủ đắc quyền độc tài toàn trị, Hồ Chí Minh đă lập đề án cải cách ruộng đất ở miền bắc với mục đích tiêu diệt hết những thành phần cơ bản của xă hội báng cách phóng tay mở cuộc đấu tố trí phú địa hào. Việc làm này không v́ dân tộc nhưng v́ lời ích của đảng cộng sản. Nhưng mỉa mai thay, bản thân Hồ Chí Minh cũng chỉ là con chốt thí, không có tư cách làm chuyện này. Nhưng y phải viết thư xin Stalin phê chuẩn cho đê án của y vào ngày 31-10-1952. Hồ viết: “Đồng chí Stalin kính mến, Tôi gởi cho đồng chí đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam (tên của đảng cộng sản lúc bấy giờ). Đề án này tôi đă hoàn thành với sự giúp đỡ của hai đồng chí Liu Shaoshi và Van szia-Sian. Đề nghị đồng chí t́m hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này”

Từ đó, dân tộc Việt Nam được coi là kẻ thù của cộng sản và cuộc đấu tố, cải cách này đă nổ ra từ năm 1953, mà theo Hồ Chí Minh đánh gía là cuộc cải cách long trời lở đất. Được gọi là long trời lở đất v́ Hồ Chí Minh đă giết hại hơn 170,000 người Việt Nam và tất cả những tên trong tập đoàn sát thủ đều đạt đến đỉnh vinh quang, danh vọng quyền lực tuyệt đối. Trong khi đó, về phía đồng bào, đi đến đâu cũng chỉ thấy máu và nước mắt. Sự sợ hăi cộng sản th́ đi vào tận tim óc, vào máu của từng người, từng nhà. Nói cách khác, chính cuộc đấu tố mà Hồ Chí Minh đánh giá là long trời lở đất này đă giết chết niềm tin, sức sống của người Việt Nam đặt vào một vận hội mới sau khi thoát khỏi sự bảo hộ của thực dân là sẽ có Độc Lập, Tự Do, Kết qủa, khi người Việt Nam chưa thóat khỏi ách thực dân, c̣n đang hy vọng t́m lại được Độc Lập, Dân Chủ th́ ngay lập tức bị khóac lên cái ách tàn bạo, bất nhân khác là: Không có Tự Do, không có Công Lư và không có Nhân Quyền, không có Dân Chủ, không có Độc Lập do chính Hồ Chí Minh và tập đoàn cộng sản áp đặt.

Cũng từ cuộc đấu tố tàn bạo này, niềm tin giữa con ngựi với con người, giữa con người với xóm thôn, với tôn giáo, với cư xử trong xă hội coi như bị triệt tiêu. Rồi dưới sự chỉ đạo của cây mă tấu, trong ḷng chế độ cộng sản chỉ c̣n tồn tại duy nhất một sự kiện. Đó là sự gian dối, lừa đảo như chính Trần Quốc Thuận phó chủ nhịệm văn pḥng quốc hội khoá X, và Nguyễn Khải, những công thần của chế độ ây đă công bố vào 10-2006 là: “Ngày nay người ta phải nói dối nhau mà sống… Nói dối lâu ngày thành thói quen, thói quen dùng lâu ngày thành đạo đức, mà cái đạo đức ấy là rất mất đạo đức, nhưng đó lại là đạo đức của cách mạng! (của Việt cộng)”. Nguyễn Khải th́ bảo: “Người ta nói dối lem lẻm, nói dối ở mọi nơi, mọi chốn và mọi lúc”. Hay như chính bà Thủ tướng Đức, tiến sỹ Angela Merkel, đă nhận định: “Cộng sản là một chế độ tạo ra gian dối!”

Như thế, chế độ cộng sản là một chế độ được xây dựng trên cơ bản gian dối và bạo ác. Ở đó, không có niềm tin và nhân bản, chỉ có bất tín và vô đạo. Ở đó không có tự do và công lư, chỉ có bạo hành và đàn áp. Ở đó không có tự chủ và sáng tạo, chỉ có nô lệ và áp bức.

Một chế độc có đầy đủ những bản chất phi nhân, bất nghĩa vô đạo như thế sẽ không có cơ sở để tồn tại. Tuy nhiên, muốn tiêu diệt nó, lại cũng không phải là một chuyện dễ dàng ǵ. Bởi v́, sau những ngày tháng dùng bạo lực trong quyền lực, cộng sản đă có khả năng làm biến dạng, làm thay đổi ḷng người, mà một trong những điều biến dạng quan trọng nhất ở trong từng cá nhân sống trong ḷng chế độ, hay bị ảnh hưởng bới chế độ ấy là đă nằm ḷng việc dối trá. Họ sống trong dối trá nên không biết ḿnh đang dối trá. Nói cách khác, sống dưới chế độ ấy, con người ta đă mất khả năng nói thật. Bởi lẽ, khi nói ra sự thật th́ chẳng có lợi ǵ cho bản thân và gia đ́nh ḿnh, trái lại, chỉ rước lấy thảm hoạ từ chế độ mà thôi. Nên dù không muốn, kết qủa của sự trao đổi vẫn là dối trá, là né tránh, lá phản bội.

Khi không t́m ra được một câu nói thật, người trong gia đ́nh không tin tưởng nhau. Người có cùng chung một ước nguyện, ngồi bên nhau suốt đời mà không dám nói ra cho nhau nghe ước nguyện của ḿnh. Hỏi làm sao có sự cảm thông và liên kết? Không có liên kết làm sao thành tổ chức, không có tổ chức làm sao có sức mạnh để cùng đứng lên chung nhau thực hiện điều mơ ước của ḿnh? Ấy là chưa kể đến những tổ chức ma do Việt cộng dựng lên để gài bắt những ngừơi cỏn lư tưởng và hoài bảo, để gây thêm hoang mang ngộ nhận cho những người khác.

Theo đó, điều kiên tiên quyết để có thể đối địch và đi đến việc tiêu diệt cộng sản là phải xây dựng lại niềm tin cho chính ḿnh và cho người đồng hành. Và muốn xây dựng được niềm tin cho nhau, người ta cũng phải tựa vào những nguyên tắc có sẵn là những điều kiện và h́nh mẫu của người tạo ra sức mạnh.

I. Những điều kiện để tạo dựng niềm tin.

- Đi… đi, đi con, đi đi con… mẹ dắt… nào… đi… đi…

Hăy nh́n một bà mẹ đưa một bàn tay ra cho đúa con nắm chặt lấy. C̣n một bàn tay khác, bà thỉnh thoảng đưa ra phía trước đỡ lấy thân h́nh con, trong lúc đôi mắt bà âu yếm nh́n con và không ngừng khuyến dục con, bước đi. Vậy mà đứa bé chỉ mở đôi mắt thật lớn nh́n mẹ, và đứng bất đọng, chưa dám bước đi. Nhưng khi hai tay em nắm chặt đuợc cả hai bàn tay của người mẹ. Em đă không c̣n sợ hăi. Trái lại, mạnh dạn nâng cái bàn chân nặng nề hổng lên trên mặt đất và bước đi… Thật là kỳ diệu!

Qua h́nh ảnh này, tôi nghĩ rằng, niềm tin phải được xây dựng trên những điều kiện sau:

a. T́m điểm tựa chắc chắn, tự nhiên:

Vào lúc ấy, em bé chưa có đủ ư thức để nhận biết người đang dang tay, tập cho em bước đi kia, là người mẹ không hề phản bội của em, Nhưng trong đôi mắt của em, h́nh ảnh của bà là một người rất gần gũi và thân thiêt với em. Như thế, dù chưa biết diễn tả, nhưng trong ḷng em đă có sẵn một sự tín thác nào đó vào bàn tay của bà mẹ. Tuy thế, em vẫn chưa dám bước đi, khi chỉ mới nắm được một bàn tay của bà. Điều đó cho thấy rằng, ḷng tín thác vẫn chưa ḥan chỉnh, nó chưa đủ tạo nên sức mạnh. Nhưng ngay khi nắm được cả hai bàn tay của bà. Em mạnh dạn bước đi. Như thế, từ những đỉểm tựa chắc chắn ấy, thân ḿnh em đứng cân bằng. Từ sự cân bằng trong thể lư, đến ư tưởng, dục em mạnh dạn bước đi.

b. Tầm nh́n không phản lẽ thường.

Cùng trrường hợp của em bé trên, nếu ngựi dẫn em là những người thân quen như anh chị, chắc chắn em cũng sẽ bước đi những buóc chập chững như thế. Nhưng chắc chắn em sẽ không bước đi, trái lại, sẽ ngồi bệt xuống đất rồi khóc thét lên, v́ người nắm tay em là một người xa lạ, không hề quen trong tầm mắt của em. Điều này cho thấy rằng, niềm tin được xây dựng trên những điều kiện thực tế là tự nhiên, không phản lại những nguyên tắc trong cuộc sống. Như thế, đối với xă hội, niềm tin chỉ có thể đặt trên những nguyên tắc không phản luân thường đạo lư, không đối nghịch với nguyên tắc làm ngựi, không phản đạo đức của tôn giáo. Nói cách khác, nó phải phù hợp với ước muốn tự nhiên tốt lành của con người. Theo đó, kẻ ngồi cùng bàn, bám vào đảng cộng mà rúc riả nhân dân mà bảo là thương dân thương nước và lo lắng cho đất nước được tồn sinh trong độc lập Tự Do Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lư th́ chỉ là những kẻ dối trá như vẹm!

c. Niềm tin được xây dựng trên nền tảng tự do và tự nguyện.

Có lẽ không một người nào bị ép buộc theo Boris Yelsin để đứng lên lật đổ chế độ cộng sản tại Liên Sô và cũng thế, không có một người nào bị ép buộc phải theo Lech Walesa để đưa cuộc cách mạng tiêu diệt cộng sản trên đất Ba Lan đến thành công. Trái lại, chỉ có một sự tự nguyện. Họ tự nguyện bởi v́, việc tiêu diệt chế độ cộng sản vô nhân bản trên quê hương ḿnh là một điều hợp với ước muốn của mọi người, hợp với khuynh hướng phát triển tự nhiên của xă hội. Họ ư thức đó là bổn phận của mọi người, của mọi nhà, mọi tầng lờp, không trừ ai.

 

Đức TGM Ngô Quang Kiệt: “Tự Do Tôn Giáo là cái quyền của con người, chứ không phải là một ân huệ xin-cho”

II. H́nh mẫu của người tạo niềm tin.

Như thế, người có thể tạo dựng được niềm tin cho công chúng, trước hết phải có niềm tự tin lớn cho chính ḿnh, phải có một lư tưởng sống, phải có một hướng đi phù hợp với ḷng người và phải cương quyết thực hiện lư tưởng ấy trong sự thành thật.

1. Theo cách nh́n này, những lúc gần đây, vị TGM Hà Nội đă gây được tiếng vang lớn, dựng lại được niềm tin lớn trong ḷng ngựi. Có thể nói, niềm tin ấy đă vượt hẳn ra ngoài khung cảnh tôn giáo và rồi ra, có khả năng chế ngự cả bạo tàn.

Tại sao vị TGM này lại có thể tạo dựng dược một niềm tin lớn ở trong ḷng người, mà giữa lúc, niềm tin của con người vào con người, ngay cả niềm tin của con ngựi vào tôn giáo đă xuống cấp một cách thảm hại sau mấy chục nằm cầm quyền của cộng sản? Có phải ông ta là một TGM, là một chức sắc tôn giáo cao cấp mà ông tạo được niền tin cho công chúng không?

Câu trả lời là không. Không phải v́ ông ta là TGM, hay v́ ông ta là một chức sắc cao cấp của tôn giáo (dù chức vị của ông ta là như thế) mà ông ta tạo dựng được niềm tin trong ḷng người. Nhưng chính là sự khác biệt trong tinh thần phục vụ tha nhân của một TGM. Ngài đă đến phục vụ giáo dân và đồng bào trong tinh thần của một người đầy tớ. Đă làm công tác của một vị lănh đạo với tinh thần của một công bộc.

Thật vậy, nếu trước đây người ta có nằm ngủ mơ th́ cững không thể mơ ra được h́nh ảnh có một vị TGM tay chống gậy tre, quần sắn qúa gồi, chân di dép, lội nuớc bùn đọng để đến thăm dân. Kết qủa, h́nh ảnh ấy lại hiển hiện ngay giữa ḷng Hà Nội vào mùa lũ trước Noel 2008. Hơn thế, h́nh ảnh ấy c̣n trở nên đặc biệt trong ḷng người. Bởi v́ vào lúc ấy, nhà nước cộng sản đang tập trung mọi nỗ lực, từ truyền thanh, truyền h́nh, báo chí đến việc sử dụng những thành phần bất hảo đội lốt quần chúng nhân dân, mở cuộc đấu tố, ám toán Ngài. Chúng mở ra cuộc đấu tố man rợ này là v́ Ngài đă thay mặt cho người dân để công bố tuyên ngôn Công Lư ở giữa công đường Hà Nội là: Tự Do Tôn Giáo là cái quyền của con người, chứ không phải là một ân huệ xin- cho. Phần Ngài, tuy biết sinh mệnh của ḿnh bị đe doạ bởi những thành phần bất hảo của nhà nước, nhưng t́nh thương giữa con người với con người ở nơi Ngài c̣n trổi vượt hơn sự chết. Ngài coi nhẹ cái chết để săn quần lên đi thăm dân và đi thăm những nạn nhân bị bạo hành và thân nhân của những ngựi bị nhà nước bắt giam trái phép v́ họ đi cầu nguyện.

Như thế, chính khát vọng của Ngài với đất nước, sự biểu lộ tâm t́nh của Ngài với người dân và hướng đi t́m Tự Do Công Lư của Ngài phù hợp với ḷng người, nên đă tạo thành một biểu tượng Ngô Quang Kiệt như là Người đi dựng lại Niềm Tin, đang xóa tan đi bóng đêm của bạo tàn, để mở ra một một kỷ nguyên an b́nh cho đất nước, hơn là do bản thân của chức vị TGM Hà Nội tạo ra. Bằng chứng là, trong tôn giáo, có nhiều vị c̣n có chức sắc cao hơn, thâm niên hơn, nhưng niềm tin của công chúng đặt vào họ là không có ǵ, lại có nhiều vị c̣n điểm âm nữa là khác.

Cũng thế, h́nh ảnh của một vị chân tu khác là Ḥa thượng Thích Quảng Độ, cũng là những h́nh mẫu đặc biệt để tạo dựng lại niềm tin cho nhiều người. Một h́nh ảnh rất trân qúy của đất nước Việt Nam. Hoặc h́nh ảnh kiên cường, nhưng cô đơn của Linh mục Nguyễn Văn Lư cũng phải được coi là những điểm tựa quan trọng để dựng lại niềm tin cho một cuộc hồi sinh.

2. Rồi ngày 6-3-2007, một người thiếu nữ c̣n rất trẻ là Lê Thị Công Nhân đă bắt đầu chặng đường lịch sử. Lịch sử của riêng cô và cũng là lịch sử của cuộc tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền và Công Lư cho Việt Nam. Có thể nói một cách không khách sáo là, nay cô đă đứng trên thóp đỉnh của cuộc khởi dựng niềm tin cho cuộc đấu tranh giải thể chế độ cộng sản và bảo vệ sự trường tồn của đất nước khỏi nanh vuốt đô hộ của ngoại bang. Tại sao cô có thể tạo cho ḿnh được một chỗ đứng trong ḷng người như thế.

Bởi v́ trước hết, cô đă tự tạo cho ḿnh một niềm tin lớn với đất nước.: “Tôi xin khẳng định bằng tất cả lương tâm, trách nhiệm và t́nh cảm của ḿnh đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam là tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ c̣n có một ḿnh tôi để đấu tranh, trước hết là giành lấy Nhân Quyền cho chính ḿnh, và giành lấy Nhân Quyền, Dân Chủ và Tự Do cho người dân Việt Nam. Cộng sản Việt Nam đừng có mong chờ bất kỳ một điều ǵ gọi là thỏa hiệp, chứ đừng nói là đầu hàng từ phía tôi.”

Uy dũng ấy có khác là bao khi đem so xánh với tiếng hét làm vỡ mặt quân thù của tướng quân Trần B́nh Trọng “thà làm qủy nước nam hơn là làm vương đất bắc

Ở nơi cô là một niềm tin duy linh, duy lư: “Tôi đấu tranh v́ Dân Chủ, Nhân Quyền và Tự Do cho Việt Nam hoàn toàn xuất phát từ niềm tin, từ lương tâm và trách nhiệm của tôi đối với chính tôi, đối với dân tộc Việt Nam và đối với Đấng Tạo hóa đă sinh ra tôi:

Ở nơi cô có một khí phách lớn, có một lư tưởng để phục vụ: “Nếu như tôi phải tạm thời nhận một nhiệm sở mới hết sức bất đắc dĩ, đó là nhà tù th́ tôi mong rằng, tại nhiệm sở ở bên ngoài, tức là xă hội đó, sẽ có nhiều những người con Việt Nam tiếp tục công việc mà tôi c̣n đang làm dở dang. Tất nhiên, trong nhiệm sở mới bất đắc dĩ đó, tôi sẽ cố gắng hết sức để tiếp tục công việc truyền bá về Dân Chủ, Nhân Quyền và đấu tranh v́ Dân Chủ, Nhân Quyền và Tự Do cho người dân Việt Nam”

Ở nơi cô là một tâm hồn cởi mở, trọng t́nh nghĩa, biết tri ân và cám ơn người bằng t́nh con người, khác hẳn cái vô đạo bất nhân bất nghĩa xúi ngựi giết vợ ḿnh và từ con như Hồ chí Minh: “Những ǵ mà quư vị đă ủng hộ, đă lên tiếng để thể hiện sự quan tâm và ủng hộ của quư vị đối với công cuộc đấu tranh của chúng tôi thật sự là vô cùng quư báu v́ nó xuất phát từ lương tri của quư vị. Tôi chỉ có thể nói một cách ngắn gọn là tôi tri ân quư vị trong cuộc đời này.

Ở nơi có là một đánh giá đúng mức về cái bản thể của nhà nước Việt cộng: “Họ xuất phát từ một cái văn hoá (tôi muốn nói đây là CSVN) thấp kém, một phương pháp đấu tranh hoàn toàn phi nhân đạo, phi nhân bản, là chuyên chính, bạo lực, vô sản để đàn áp, để trấn áp con người với một mục tiêu hoàn toàn phi đạo lư, vô chính trị và có thể nói là phi pháp nữa

Ở nơi cô là một cái thước đo công lư, không giả dối hay vờ bẻ cong cái lương tâm của ḿnh. Bằng chứng là khi bị chất vấn trước ṭa. Cô đă dứt khóat trà lời bọn quan ṭa không tim óc là “Tôi không có tội”

Ở nơi cô không có cuộc đầu hàng bạo lực để lo cho riêng ḿnh. Bằng chứng là, trước áp lực của các tổ chức nhân quyền và cái chính quyền tự do ở Tây phương, Việt cộng đă đến nơi giam giữ cô để điều đ́nh cho một chuyến xuất ngoại lưu vong, cô đă trả lời: “Trời sinh ra tôi ở trên đất Việt là có ư định cho tôi sống và phục vụ cho dân tộc này. Tại sao tôi phải đầu hàng bạo lực mà ra đi?

Ở nơi cô là một sự sống độc lập tự chủ: “Sống thế nào th́ sống, vẫn phải giữ ḷng tự trọng với lương tâm của ḿnh. Và tôi sống với lương tâm và ḷng tự trọng của tôi…Chỉ có lương tâm và ḷng tự trọng của tôi nói với tôi rằng: Không bao giờ đầu hàng.”

Ở nơi cô là một tâm hồn khiêm cung, b́nh dị. Cô đến với con người với nhân dân bằng tính thật, trái ngược với cái vô đạo bất nhân bất nghiă xảo trá gian dôi của của Hồ chí Minh: “Vâng, mỗi người một bàn tay, mà bàn tay của tôi c̣n nhỏ hơn bàn tay của quư vị. Chúng ta hăy góp phần một cách mạnh mẽ kịp thời, hầu mong cho công cuộc đấu tranh của chúng ta sẽ đi đến thắng lợi một cách sớm hơn”

Ở nơi cô, như Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh nhận định: “Trong bóng tối của đàn áp, bất công, họ là những thiên thần đem ánh sáng soi đường cho lương tâm nhân loại. Trong đêm đen của lịch sử Việt Nam, họ chính là những bàn tay dẫn dắt dân tộc dành lại Tự Do, Công B́nh, Bác Ái cho một b́nh minh Việt Nam”

Khi nh́n lại những biến động trong những tháng năm qua, quả thật, Lê thị Công Nhân cho thấy cô là một h́nh mẫu của người tạo dựng lại niềm tin cho cuộc tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lư cho Việt Nam. Hơn thế, Lê Thị Công Nhân c̣n có khả năng tiếp nối bước đường của Nhị Trưng xưa để chống lại cuộc bành trướng từ phương bắc. Nói cách khác, Lê Thị Công Nhân có nhiều tiêu chuẩn để trở thành một h́nh mẫu của Lech Walesa của Việt Nam, nếu như chúng ta biết trân trọng bảo vật này và biết xóa bỏ đi những rồng rắn tự vẽ vời ra ở quanh ḿnh.

Và hôm nay, ngày 6-3-2010 Lê Thị Công Nhân đă vượt qua đoạn đường lịch sử của chính ḿnh trong cuộc tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam. Ba năm ngồi sau song sắt, Lê Thị Công Nhân đă chứng tỏ được gía trị hầu như tuyệt đối của chính cá nhân cô cho cuộc tranh đấu v́ quyền lợi của đồng và của đất nước. Cô xứng đáng được gọi là Anh Thư Nước Việt như nhiều người đă nói về cô. Bởi v́, ngay sau khi ra khỏi nhà tù nhỏ để trở về nhà tù lớn với hơn tám mươi triệu người dân Việt Nam, Lê Thị Công Nhân trong nước mắt đă xác định hướng đi của cô với đất nước vẫn là: “Công việc của tôi có thể chưa thành công và thấy c̣n nhiều dở dang. … Nhưng dù có thế nào đi chăng nữa th́ tôi nghĩ rằng tôi đă có những việc làm và có những giây phút tôi cảm thấy ḿnh rất là tự do. Đó là khi tôi sống theo cái lư tưởng của ḿnh. Và rất may là sau ba năm ngồi sau song sắt nhà tù th́ tôi thấy là lư tưởng ấy không sai…”

Thế là quá đủ, quá rơ cho một cuộc hành tŕnh tạo niềm tin, người ta không thể đ̣i hỏi ǵ thêm ở Lê Thị Công Nhân nữa. Trái lại, phần c̣n lại là bổn phận của chúng ta, của những ngựi Việt Nam c̣n thao thức về quê hương. Nếu chúng ta c̣n muốn tiếp nối truyền thống bất khuất của tiền nhân Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung hay của Nhị Trưng th́ phải biết, trưóc hết, phải đổi mới cách nh́n, đổi mới tư duy, đổi mới hành động để cùng làm cuộc hành tŕnh lịch sử Lê thị Công Nhân. Để cuộc hành tŕnh ấy sẽ đem lại Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, Công Lư và Độc Lập cho quê hương như Lech Walesa đă làm ở Ba Lan, hơn là ngồi tạo ra những rồng rắn cho ḿnh, để dân tộc này càng lúc càng đắm ch́n trong ách thống trị của cộng sản và nô lệ cho ngoại bang. Bởi lẽ, chính Lê thị Công Nhân cũng đă thành thật nói rằng: Tuy thế, tôi chỉ có thể làm được cái phần của tôi, chứ tôi không thể nào làm được cái phần của 90 triệu người Việt Nam khác…

Điều đó có nghĩa là, muốn giải phóng đất nước khỏi cuộc nô lệ dưới gông cùm cộng sản, phải tổng hợp sức mạnh, niềm tin của toàn dân lại. Bởi v́, một người, một nhóm ngựi không thể lấp bể dời non. Theo đó, thay đổi Tư Duy là điều kiện tiên quyết để thay đổi cuộc sống của mỗi cá nhân, mỗi gia đ́nh. Để từ đó đưa đến việc thay đổi toàn diện thể chế hiện tại của đất nước. Có thay đổi được tư duy, lối suy nghĩ, mới có thể thay đổi được hành động. Thay đổi từ đơn phương sang tập thể và rồi toàn diện ở mọi nơi mọi chốn. Có thay đổi hành động toàn diện như thế mới khả dĩ khai mở ra cho dân ta một con đường Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Công Lư. Cho đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên của Toàn Vẹn và Độc Lập.

 

Bảo Giang


<< trở về đầu trang >>
free counters