Bệnh sùng bái lănh tụ
Nguyễn Hưng Quốc
| 
						 
						
						  | 
					
| 
						 Phía trước lăng Hồ Chí Minh, Hà Nội  | 
					
				
				Trong bài viết “Khen 
				quá lố, không nên!”, Bùi Tín nêu lên nghi vấn về sự kiện Vơ 
				Nguyên Giáp được Hội đồng Hoàng gia Anh vinh danh là một trong 
				mười nhân vật quân sự lỗi lạc nhất mọi thời đại vào năm 1992. 
				Tôi không rành về quân sự và cũng quá bận bịu để t́m hiểu hư 
				thực về chuyện vinh danh ấy thế nào. Tôi chỉ muốn nhân bài viết 
				của Bùi Tín đặt ra một vấn đề khác: bệnh sùng bái cá nhân.
				Theo Max Weber, về phương diện chính trị, có ba kiểu quyền lực 
				chính: truyền thống (traditional), pháp lư-duy lư 
				(rational-legal) và sự lôi cuốn (charismatic). Tất cả các chế độ 
				cộng sản đều ra đời sau các cuộc cách mạng cướp chính quyền bằng 
				bạo lực, do đó, hai yếu tố đầu, truyền thống và pháp lư, coi như 
				không có. Chỉ c̣n yếu tố cuối: Để thu hút sự ủng hộ của quần 
				chúng, họ phải tự biến họ thành một sức lôi cuốn cực kỳ mạnh mẽ; 
				và để có sức lôi cuốn như thế, họ phải đặt trọng tâm vào tuyên 
				truyền; trong tuyên truyền, họ đặt trọng tâm vào chính sách thần 
				thánh hoá đảng và các lănh tụ của đảng. Hệ quả là tất cả các chế 
				độ cộng sản đều có một đặc điểm giống nhau: sùng bái.
				Nói đến sùng bái là nói đến tôn giáo. Trên lư thuyết, cộng sản 
				đối nghịch và thù nghịch với các tôn giáo, nhưng trên thực tế, 
				các chế độ cộng sản lại xây dựng quyền lực của ḿnh theo mô h́nh 
				của các tôn giáo, bao gồm ba yếu tố chính: một, tính lư tưởng: 
				xây dựng một xă hội cộng sản không có giai cấp trên toàn thế 
				giới; hai, tính phổ quát: không phải chỉ giải phóng một dân tộc 
				mà c̣n cả nhân loại; và cuối cùng, ba, tính sùng bái, ở đó, mọi 
				lănh tụ đều biến thành ngẫu tượng.
				Người đi tiên phong trong mưu đồ tôn giáo hoá chế độ này chắc 
				chắn là Lenin. Nhưng người hoàn chỉnh nó lại là Stalin. Với 
				Stalin, sự sùng bái đảng và sùng bái lănh tụ biến thành sự sùng 
				bái đối với cá nhân. Đó là một yếu tố mới. Trước, mọi chế độ 
				quân chủ đều được xây dựng trên cơ sở ít nhiều có tính thần 
				quyền, ở đó ngôi vua được linh thiêng hoá, gắn liền với thiên 
				mệnh: Vua là con Trời. Vua nào cũng là con Trời. Mọi người phải 
				vâng lời và trung thành với vua không phải v́ tài năng hay cá 
				tính của ông mà là v́: ông là con Trời. Vậy thôi. Đảng cộng sản 
				không huyền thoại hoá hay thần thánh hoá ngôi vị Chủ tịch hay 
				Tổng bí thư. Họ chỉ nhắm vào người đang giữ chức Chủ tịch hay 
				Tổng bí thư. Nói như Khrushchev, trong bản cáo trạng dành cho 
				Stalin vào năm 1956, ở đây việc sùng bái lănh tụ biến thành việc 
				sùng bái cá nhân.
				Nhưng không phải lănh tụ nào cũng được huyền thoại hoá hay thần 
				thánh hoá. Trừ trường hợp của Stalin (và với một mức độ nào đó, 
				Kim Chính Nhật ở Bắc Hàn hiện nay), các lănh tụ được thần thánh 
				hoá là những người sáng lập đảng và nhà nước, từ Mao Trạch Đông 
				đến Hồ Chí Minh, từ Fidel Castro đến Kim Nhật Thành, v.v...
				
				Theo E.A. Rees, trong bài “Leader Cults: varieties, 
				preconditions and functions” in trong cuốn “The Leader Culture 
				in Communist Dictatorship” (Palgrave Macmillan, 2004, tr. 10), 
				chiến lược để thần thánh hoá lănh tụ ở đâu cũng giống nhau: một, 
				xuất bản các bài viết hoặc bài nói chuyện của họ thành sách để 
				làm “kim chỉ nam” cho cả nước; hai, thêu dệt tiểu sử của họ; ba, 
				dựng tượng và lấy tên họ đặt cho địa phương, trường học hoặc 
				công trường, công xưởng; bốn, sinh nhật của họ được tổ chức rất 
				trọng thể; và năm, khi họ chết th́ nơi họ ở được biến thành viện 
				bảo tàng. Xin nói thêm, với những lănh tụ lớn, xác họ sẽ được 
				ướp và để trong lăng để mọi người chiêm ngưỡng! Ngoài ra, người 
				ta c̣n không ngớt phát động các chiến dịch làm thơ viết văn soạn 
				nhạc để ca ngợi họ.
				So với những lănh tụ khác, việc thần thánh hoá Hồ Chí Minh, 
				ngoài các điểm chung nêu trên, có mấy điểm dị biệt. Thứ nhất, ăn 
				theo Stalin và Mao Trạch Đông. Ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đă tự 
				giới hạn vai tṛ của ông là ở Việt Nam. Sân khấu thế giới cũng 
				như về phương diện lư thuyết, ông nhường cho Stalin và Mao Trạch 
				Đông. Với họ, ông chỉ là học tṛ, một vị á thánh. Thứ hai, tận 
				dụng truyền thống và cách xưng hô Việt Nam, Hồ Chí Minh trở 
				thành “Bác” của cả nước. Ở Liên Xô, h́nh ảnh nổi bật của Stalin 
				là h́nh ảnh một vị Tổng tư lệnh uy nghi; ở Trung Quốc, Mao Trạch 
				Đông là một vị Chủ tịch có chủ thuyết riêng; ở Việt Nam, Hồ Chí 
				Minh là một ông Bác hiền lành và nhân hậu. Thứ ba, ở Hồ Chí 
				Minh, yếu tố “đức” được nhấn mạnh một cách đặc biệt, không phải 
				chỉ ở ḷng yêu nước hay thương dân mà c̣n ở cung cách xử thế, và 
				nhất là, ở đời sống độc thân của ông. Khi yếu tố “đức” được nhấn 
				mạnh, tính chất cách mạng được hoà quyện với tính chất nho sĩ và 
				hiền sĩ; với chúng, Hồ Chí Minh mất đi chút uy nghi vốn dễ thấy 
				ở Stalin và Mao Trạch Đông; bù lại, ở ông, có sự gần gũi mà 
				những người kia không có. Thứ tư, trong khi việc thần thánh hoá 
				Stalin và Mao Trạch Đông là do cả một bộ máy đảng và nhà nước; 
				trong việc thần thánh hoá Hồ Chí Minh c̣n bàn tay của chính ông 
				nhúng vào qua việc tự yêu cầu người khác gọi ḿnh là “Bác” và 
				nhất là, việc tự ḿnh viết sách ca tụng ḿnh. Lư do, có lẽ vào 
				năm 1945, khi mới lên cầm quyền, bộ máy đảng và nhà nước ở Việt 
				Nam c̣n quá yếu, tŕnh độ cán bộ thấp, Hồ Chí Minh buộc phải tự 
				ḿnh ra tay chăng?
				Ngày trước, lúc Hồ Chí Minh c̣n sống, việc thần thánh hoá ông 
				được sử dụng như một nhu cầu để đoàn kết đảng, nhà nước và xă 
				hội, để nâng cao ḷng tự hào dân tộc, để khích động tinh thần 
				của quần chúng, và cũng để nô lệ hoá quần chúng. Sau này, khi hệ 
				thống các nước xă hội chủ nghĩa đă bị sụp đổ, lư tưởng cộng sản 
				đă tan tành, bảng giá trị cách mạng bị lung lay, các huyền thoại 
				về độc lập và tự do trở thành thoi thóp, đảng Cộng sản biến h́nh 
				ảnh “Bác Hồ” thành tư tưởng Hồ Chí Minh, ở đó, vai tṛ của ư 
				thức hệ nổi bật hơn vai tṛ của h́nh ảnh; tính duy lư được đề 
				cao hơn quan hệ gia đ́nh hay thân tộc. Nhưng tôi sợ là họ không 
				thành công. Hồ Chí Minh chỉ là một người hành động. Ông không có 
				khiếu về lư thuyết. Ông biết điều đó và thừa nhận điều đó ngay 
				từ thời kháng chiến chống Pháp lúc tuyên bố mọi vấn đề quan 
				trọng đă được Stalin và Mao Trạch Đông nói hết rồi, ông không 
				c̣n ǵ để thêm cả. Từ những cuốn sách hay những bài phát biểu 
				đơn sơ và đơn giản của ông, khó có ai có hy vọng xây dựng nên 
				được một hệ thống tư tưởng mạch lạc, sâu sắc và có sức thuyết 
				phục. Huống ǵ bọn c̣n chút nhiệt t́nh nhảy ra đảm trách công 
				việc đó chỉ là đám nịnh bợ và bất tài. Thành ra, cái gọi là “tư 
				tưởng Hồ Chí Minh”, đến nay, vẫn chỉ là một khẩu hiệu suông. 
				Không có một nội dung cụ thể nào cả.
				Điều cần chú ư là, ở Việt Nam, ngoài Hồ Chí Minh – người được 
				thần thánh hoá, chỉ có một người duy nhất được huyền thoại hoá: 
				Đó là Vơ Nguyên Giáp. Lê Duẩn: không có. Trường Chinh: không có. 
				Phạm Văn Đồng: cũng không có. Chỉ có một ḿnh Vơ Nguyên Giáp là 
				có thật nhiều huyền thoại.
				
				Thật ra, điều đó cũng dễ hiểu. Những kỳ tích của Vơ Nguyên Giáp 
				trong hai cuộc chiến 1946-54 và 1954-75 vốn được cả thế giới chú 
				ư, rất dễ đi vào huyền thoại. Tuy nhiên, cũng nên lưu ư điều này: 
				trước đây, những huyền thoại ấy chỉ được truyền tụng râm ran 
				trong dư luận chứ không hề được đăng tải công khai trên báo chí. 
				Thậm chí, có thời gian, hơn nữa, thời gian khá dài, việc nhắc 
				đến tên Vơ Nguyên Giáp cũng gây nên nhiều ái ngại. Bởi vậy, sẽ 
				rất hợp lư nếu chúng ta đặt câu hỏi: Tại sao gần đây những câu 
				chuyện có tính giai thoại về Vơ Nguyên Giáp lại nở rộ đến vậy? Ở 
				đâu cũng có. Báo in: Có. Báo mạng: Có. Sau việc nở rộ ấy có động 
				cơ ǵ không? Tôi nghĩ là có. Tuy Vơ Nguyên Giáp thỉnh thoảng có 
				những phát biểu đi ngược lại chủ trương của Bộ chính trị, nhưng, 
				theo tôi, đảng Cộng sản vẫn cần, rất cần h́nh ảnh của ông, một 
				người chiến thắng vang dội trong hai cuộc chiến tranh lớn. Để 
				làm ǵ? Để gợi cho quần chúng nhớ đến truyền thống chống ngoại 
				xâm ngày trước. Nếu không, chỉ nh́n vào hiện tại, có khi dân 
				chúng chỉ thấy một đám hèn.
				Vơ Nguyên Giáp là người duy nhất ở Việt Nam hiện nay, với những 
				huyền thoại chung quanh ông, làm một dấu nối với quá khứ hào 
				hùng trước đây. Đó là tất cả những ǵ đảng Cộng sản – đang phải 
				cúi ḿnh trước một Trung Quốc hung hăn và bạo ngược – đang cần.
				Ngày trước, đảng Cộng sản xây dựng quyền lực trên huyền thoại 
				một thế giới đại đồng và viễn tượng một đất nước độc lập và giàu 
				mạnh trong tương lai. Bây giờ, họ lại âm mưu củng cố quyền lực 
				của ḿnh trên hào quang và huyền thoại của quá khứ.
				Cái hào quang và huyền thoại ấy lại được xây dựng trên một người 
				đang nằm trong lăng và một người đă 100 tuổi!
				Kể cũng mong manh lắm, phải không?