Lời tự thuật của tác giả 1 bài thơ nổi tiếng "Màu Tím Hoa Sim"
Hữu
Loan
Màu Tím
Hoa Sim
Nàng có
ba người anh đi bộ đội
Những
em nàng
Có em
chưa biết nói
Khi tóc
nàng đang xanh
Tôi
người vệ quốc quân xa gia đ́nh
Yêu
nàng như yêu người người em gái.
Ngày
hợp hôn nàng không đ̣i may áo mới
Tôi mặc
đồ quân nhân
Đôi
giày đinh bết bùn đất hành quân
Nàng
cười xinh xinh
Bên anh
chồng độc đáo
Tôi ở
đơn vị về cưới nhau xong là đi
Từ
chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy
chồng thời chiến binh
Mấy
người đi trở lại
Lỡ khi
ḿnh không về th́ thương người vợ
chờ bé bỏng chiều quê..
Nhưng
không chết người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về
không gặp nàng
Má ngồi
bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc
b́nh hoa ngày cưới
Thành
b́nh hương tàn lạnh vây quanh
Tóc
nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi
Em ơi
giây phút cuối
Không
được nghe nhau nói
Không
được nh́n nhau một lần
Ngày
xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng
màu tím hoa sim
Ngày
xưa một ḿnh đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá
cho chồng tấm áo ngày xưa...
Một
chiều rừng mưa
Ba
người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết
tin em gái mất
Trước
tin em lấy chồng
Gió sớm
thu về rờn rợn nước sông
Đứa em
nhỏ lớn lên
Ngỡ
ngàng nh́n ảnh chị
Khi gió
sớm thu vàng cỏ vàng chân mộ chí
Chiều
hành quân qua những đồi sim
Những
đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím
hoa sim
Tím
chiều hoang biền biệt
Nh́n áo
rách vai tôi hát trong màu hoa
(áo anh
sứt chỉ đường tà
Vợ anh
mất sớm, mẹ già chưa khâu...)
Hữu
Loan
Hữu
Loan: Tôi sinh ra trong một gia đ́nh
nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp
sách đến trường như bọn trẻ cùng
trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm
chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi
tuy là tá điền nhưng tư chất lại
thông minh hơn người. Lên trung học,
theo ban thành chung tôi cũng học
tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế
hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 - lúc
đó tôi cũng đă 22 tuổi - Tôi ra Hà
Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con
nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai.
Tuyệt nhiên tôi không có ư định dấn
thân vào chốn quan trường. Ai cũng
biết thi tú tài thời Pháp rất khó
khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó
rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm
sau những người cùng thời c̣n nhớ
tên những người đậu khóa ấy, trong
đó có Nguyễn Đ́nh Thi, Hồ Trọng
Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và
…tôi - Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi
rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy
học. Nhăn mác con nhà nghèo học giỏi
của tôi được bà tham Kỳ chú ư, mời
về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên
thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc
Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ
, tổng thanh tra canh nông Đông
Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc
hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà
tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và
sách báo, tôi thường ghé lại xem và
mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt
tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành,
tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt,
coi tôi chẳng khác như người nhà.
Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia
sư, bà gọi măi đứa con gái - lúc đó
mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra
khoanh tay, miệng lí nhí: "Em chào
thầy ạ!" Chào xong, cô bé bất ngờ mở
to đôi mắt nh́n thẳng vào tôi. Đôi
mắt to, đen láy, tṛn xoe như có ánh
chớp ấy đă hằn sâu vào tâm trí tôi,
theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là
tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là
Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra
nông lâm ở Sài G̣n nên sinh em trong
ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật
thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng
ít nói và mỗi khi mở miệng th́ cứ y
như một "bà cụ non". Đặc biệt em
chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín
đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi
ngồi ăn cơm lúc th́ vài quả ớt đỏ
au, lúc th́ quả chanh mọng nước em
vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè,
nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo
sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang
ra giếng giặt .....
Có lần tôi kể chuyện "bà cụ non" ít
nói cho hai người anh của em Ninh
nghe, không ngờ chuyện đến tai em,
thế là em giận! Suốt một tuần liền,
em nằm ĺ trong buồng trong, không
chịu học hành... Một hôm bà tham Kỳ
dẫn tôi vào pḥng nơi em đang nằm
thiếp đi. Hôm ấy tôi đă nói ǵ, tôi
không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đă nói
rất nhiều, đă kể chuyện em nghe, rồi
tôi đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi
dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra
khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em
nằng nặc đ̣i tôi đưa lên khu rừng
thông. Cả nhà không ai đồng ư: "Mới
ốm dậy c̣n yếu lắm, không đi được
đâu" Em không chịu nhất định đ̣i đi
cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi
đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa
em lên núi chơi .....
Xe kéo chừng một giờ mới tới được
chân đồi. Em leo đồi nhanh như một
con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi.
Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và
bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi
ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói ǵ.
Bất chợt em nh́n tôi, rồi ngước mắt
nh́n ra tận chân trời, không biết
lúc đó em nghĩ ǵ. Bất chợt em hỏi
tôi: -Thầy có thích ăn sim không? Tôi nh́n xuống sườn đồi: tím ngắt
một màu sim. Em đứng lên đi xuốn
sườn đồi, c̣n tôi v́ mệt quá nên nằm
thiếp đi trên thảm cỏ....Khi tôi
tỉnh dậy, em đă ngồi bên tôi với
chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim
đen láy chín mọng. -Thầy
ăn đi. Tôi
cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng
trầm trồ: -Ngọt quá.
Như đă nói, tôi sinh ra trong một
gia đ́nh nông dân, quả sim đối với
tôi chẳng lạ lẫm ǵ, nhưng thú thật
tôi chưa bao giờ ăn những quả sim
ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn
hết qủa này đến qủa khác. Tôi nh́n
em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím,
đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má
th́....tím đỏ một màu sim. Tôi cười
phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những
lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của
ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo
kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo
măi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng
nh́n theo. Tôi đi... lên tới bờ đê,
nh́n xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó
nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay
nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi.
Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay
đầu nh́n lại... em vẫn đứng yên đó
... Tôi lại đi và nh́n lại đến khi
không c̣n nh́n thấy em nữa...
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh
thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê
lên, cho biết em vẫn khỏe và đă khôn
lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại,
khi em mới 15 tuổi đă có nhiều chàng
trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ
trốn trong buồng, không chịu ra tiếp
ai bao giờ...
Chín năm sau, tôi trở lại nhà...Về
Nông Cống t́m em. Hôm gặp em ở đầu
làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều,
nhưng em không nói ǵ, chỉ bẽn lẽn
lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không
c̣n cô học tṛ Ninh bướng bỉnh nữa
rồi. Em đă gần 17 tuổi, đă là một cô
gái xinh đẹp....
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ v́
hai gia đ́nh không môn đăng hộ đối
một chút nào. Măi sau này mới biết
việc hợp hôn của chúng tôi thành
công là do bố mẹ em ngấm ngầm" soạn
kịch bản". Một tuần sau đó chúng tôi
kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới
th́ em gạt đi, không đ̣i may áo cưới
trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm
và cái t́nh bền chặt là hơn cả". Tôi
cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại
đẹp trai nên em thường gọi đùa là
anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ
chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công,
tỉnh Thanh Hóa của gia đ́nh em, nơi
ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng.
Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói,
hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ
hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật
nhanh, tôi phải tức tốc lên đường
hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ
bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên
đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi
chín năm trước em đă đứng. Chỉ có
giờ em không c̣n cô bé Ninh nữa mà
là người bạn đời yêu quư của tôi.
Tôi bước đi, rồi quay đầu nh́n
lại..... Nếu như chín năm về trước,
nh́n lại chỉ thấy một nỗi buồn man
mác th́ lần này, tôi thật sự đau
buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu
xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ:
vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm
thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm
lịch năm 1948, em đưa quần áo ra
giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị
Long, Nông Cống), v́ muốn chụp lại
tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên
trượt chân chết đuối! Con nước lớn
đă cuốn em vào ḷng nó, cướp đi của
tôi người bạn ḷng tri kỷ, để lại
tôi tôi nỗi đau không ǵ bù đắp nỗi.
Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm
sâu thẳm trong trái tim tôi.
Tôi phải giấu kín nỗi đau trong
ḷng, không được cho đồng đội biết
để tránh ảnh hưởng đến tinh thần
chiến đấu của họ. Tôi như một cái
xác không hồn....Dường như càng kềm
nén th́ nỗi đau càng dữ dội hơn. May
sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp
trên bảo ai có tâm sự ǵ cứ nói ra,
nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau
trong ḷng tôi được bung ra. Khi ấy
chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An,
tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt
tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi
chép. Chẳng cần phải suy nghĩ ǵ,
những câu những chữ mộc mạc cứ trào
ra: Nhà nàng có ba người anh đi bộ
đội Những em nàng có em chưa biết
nói "Khi tóc nàng đang xanh ..."
...Tôi về không gặp nàng...
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc
b́nh hoa ngày cưới làm b́nh hương,
viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy
để lại cho người bạn ở Thanh Hóa...
Anh bạn này đă chép lại và truyền
tay nhau trong suốt những năm chiến
tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa
Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu
Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày
2-4-1916 hiện tại đang "ở nhà trông
vườn" ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi
gọi là chổ "quê đẻ của tôi đấy"
thuộc xă Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn
tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa
sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn
trôi dưới chân núi Nưa cũng thường
nở đầy những bông hoa sim tím. Cho
nên tôi viết mới nổi những câu: Chiều hành quân, qua những đồi
sim Những đồi sim, những đồi hoa
sim Những đồi hoa sim dài trong
chiều không hết Màu tím hoa sim, tím
cả chiều hoang biền biệt Và chiều
hoang tím có chiều hoang biết Chiều
hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời,
chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ
giă văn đàn về quê làm ruộng, một
phần cũng v́ tính tôi" hay căi,
thích chống đối, không thể làm ǵ
trái với suy nghĩ của tôi". Bọn họ
chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều,
không chấp nhận đơn từ bỏ kháng
chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương
tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!
Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ
quá rồi!
Đó là thời năm 1955 - 1956, khi
phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với
sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai
Phẩm chống chính sách độc tài, đồng
thời chống những kẻ bồi bút đan tâm
lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi
cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa
canh cạn. Làm thơ th́ phải có cái
tâm thật thiêng liêng th́ thơ mới
hay. Thơ hay th́ sống măi. Làm thơ
mà không có t́nh, có tâm th́ chả ra
ǵ! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca
tụng, trong khi đó tôi lại đề cao
t́nh yêu, tôi khóc người vợ tử tế
của ḿnh, người bạn đời hiếm có của
ḿnh. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho
là khóc cái t́nh cảm riêng....Y như
trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra
mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn
một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi
chết đuối ở sông ... Tôi thấy đau
xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc,
vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi
phản động ở chổ nào? Cái đau khổ của
con người, tại sao lại không được
khóc?
Bọn họ xúc phạm đến t́nh cảm thiêng
liêng của tôi đối với người vợ mà
tôi hằng yêu quư, cho nên vào năm
1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về
nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt
tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin,
tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt
được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày
đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán.
Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi
phải đi xe cút kít, loại xe đóng
bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ
ở phía trước, có hai cái càng ở phía
sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ
cũng không cho, tôi phải gánh bộ.
Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh,
không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ
theo dơi, ngăn cản, đi đến đâu cũng
có công an theo dơi, cho người hại
tôi...
Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi!
Có một cái lạ là thơ của tôi đă có
lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an
mật nói thật với tôi là nó được giao
lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên
Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi
nói về tỉnh Yên B́nh quê nó ra đọc
cho đỡ nhớ, v́ vậy nó không nỡ giết
tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một
vài bài thơ khác được mến chuộng.
Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy
cán bộ khổ quá, tôi đă làm bài Chiếc
Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ
không có chiếc chiếu để nằm!
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với
một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho
đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu,
cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc.
Cô vốn là một nạn nhân của chiến
dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa
chủ năm 1954, 1955.
Lúc đó tôi c̣n là chính trị viên của
tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những
chuyện đấu tố. Là người có học , lại
có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy
chán nản quá, không c̣n hăng hái nữa.
Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô
cùng. Trong một xă thuộc huyện Nga
Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi
ở 15 cây số, có một gia đ́nh địa chủ
rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu
tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu ḷng
nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy
bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn
nên ông thường cho tá điền gánh gạo
đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là
trưởng pḥng tuyên huấn và chính trị
viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt
anh em ra cám ơn tấm ḷng tốt của
ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn
trưởng trao tặng bằng khen ngợi để
vinh danh ông .
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia
đ́nh ông đă bị đấu tố. Hai vợ chồng
ông bị đội Phóng tay phát động quần
chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn
xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu
lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua
đi lại hai cái đầu đó cho đến chết.
Gia đ́nh ông bà địa chủ bị xử tử
hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi
được tha chết nhưng bị đội Phóng tay
phát động đuổi ra khỏi nhà với vài
bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn
nữa, chúng c̣n ra lệnh cấm không cho
ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê
cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm
đoán dân chúng cả việc lấy con cái
địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đ́nh
ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi
trở về xă đó xem cô con gái họ sinh
sống ra sao v́ trước kia tôi cũng
biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào
quên được h́nh ảnh của một cô bé cứ
buổi chiều lại lén lút đứng núp bên
ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở
trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới
xă, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới,
mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom
nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót,
nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi
đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho
đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn
ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và
được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu
tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc
rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị
xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai
ăn đỡ đói ḷng, tối về ngủ trong
chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ
bị làm bậy và không biết ngày mai
c̣n sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết
định đem cô về làng tôi, và bất chấp
lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết
định của tôi không lầm. Quê tôi
nghèo, lúc đó tôi c̣n ở trong bộ đội
nên không có tiền, nhưng cô chịu
thương chịu khó , bữa đói bữa
no....Cho đến bây giờ cô đă cho tôi
10 người con - 6 trai , 4 gái - và
cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê
an phận thủ thường, chẳng màng đến
thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi
bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ
tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải
sầu, lâu lâu nổi hứng th́ làm thơ,
thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu
để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi
được ve văn, mời gia nhập Hội Nhà
Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm ǵ.
Năm 1988, tôi " tái xuất giang hồ"
sau 30 năm tự chôn và bị chôn ḿnh ở
chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi
lang bạt gần một năm trời theo
chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ
Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức
để đ̣i tự do sáng tác, tự do báo chí
- xuất bản và đổi mới thực sự. Vào
tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004,
công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị
mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim
của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ
bảo đó là một h́nh thức bảo tồn tài
sản văn hóa. Th́ cũng được đi. Khoản
tiền 100 triệu trừ thuế đi c̣n 90
triệu, chia "lộc" cho 10 đứa con hết
60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu
đồng, pḥng đau ốm lúc tuổi già, sau
khi trích một ít để in tập thơ
khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu
Loan. Sau vụ này cũng có một số
công ty khác xin kư hợp đồng mua mấy
bài thơ khác, nhưng tôi từ chối,
thơ tôi làm ra không phải để bán.
Hữu
Loan