Lời tự thuật của tác giả 1 bài thơ nổi tiếng "Màu Tím Hoa Sim"
	
											
											
											
	Hữu 
											Loan 
	
											
											
											
											Màu Tím 
											Hoa Sim
											
											Nàng có 
											ba người anh đi bộ đội
											Những 
											em nàng
											Có em 
											chưa biết nói
											Khi tóc 
											nàng đang xanh
											Tôi 
											người vệ quốc quân xa gia đ́nh
											Yêu 
											nàng như yêu người người em gái.
											Ngày 
											hợp hôn nàng không đ̣i may áo mới
											Tôi mặc 
											đồ quân nhân
											Đôi 
											giày đinh bết bùn đất hành quân
											Nàng 
											cười xinh xinh
											Bên anh 
											chồng độc đáo
											Tôi ở 
											đơn vị về cưới nhau xong là đi
											Từ 
											chiến khu xa nhớ về ái ngại
											Lấy 
											chồng thời chiến binh
											Mấy 
											người đi trở lại
											Lỡ khi 
											ḿnh không về th́ thương người vợ 
											chờ bé bỏng chiều quê..
											Nhưng 
											không chết người trai khói lửa
											Mà chết 
											người gái nhỏ hậu phương.
											Tôi về 
											không gặp nàng
											Má ngồi 
											bên mộ con đầy bóng tối
											Chiếc 
											b́nh hoa ngày cưới
											Thành 
											b́nh hương tàn lạnh vây quanh
											Tóc 
											nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi
											Em ơi 
											giây phút cuối
											Không 
											được nghe nhau nói
											Không 
											được nh́n nhau một lần
											Ngày 
											xưa nàng yêu hoa sim tím
											Áo nàng 
											màu tím hoa sim
											Ngày 
											xưa một ḿnh đèn khuya bóng nhỏ
											Nàng vá 
											cho chồng tấm áo ngày xưa...
											Một 
											chiều rừng mưa
											Ba 
											người anh trên chiến trường Đông Bắc
											Biết 
											tin em gái mất
											Trước 
											tin em lấy chồng
											Gió sớm 
											thu về rờn rợn nước sông
											Đứa em 
											nhỏ lớn lên
											Ngỡ 
											ngàng nh́n ảnh chị
											Khi gió 
											sớm thu vàng cỏ vàng chân mộ chí
											Chiều 
											hành quân qua những đồi sim
											Những 
											đồi sim dài trong chiều không hết
											Màu tím 
											hoa sim
											Tím 
											chiều hoang biền biệt
											Nh́n áo 
											rách vai tôi hát trong màu hoa
												(áo anh 
											sứt chỉ đường tà
											Vợ anh 
											mất sớm, mẹ già chưa khâu...)
											
											
	
											
											
											Hữu 
											Loan
	
											
											
Hữu 
											Loan: Tôi sinh ra trong một gia đ́nh 
											nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp 
											sách đến trường như bọn trẻ cùng 
											trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm 
											chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi 
											tuy là tá điền nhưng tư chất lại 
											thông minh hơn người. Lên trung học, 
											theo ban thành chung tôi cũng học 
											tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế 
											hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 - lúc 
											đó tôi cũng đă 22 tuổi - Tôi ra Hà 
											Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con 
											nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. 
											Tuyệt nhiên tôi không có ư định dấn 
											thân vào chốn quan trường. Ai cũng 
											biết thi tú tài thời Pháp rất khó 
											khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó 
											rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm 
											sau những người cùng thời c̣n nhớ 
											tên những người đậu khóa ấy, trong 
											đó có Nguyễn Đ́nh Thi, Hồ Trọng 
											Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và 
											…tôi - Nguyễn Hữu Loan.
											Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi 
											rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy 
											học. Nhăn mác con nhà nghèo học giỏi 
											của tôi được bà tham Kỳ chú ư, mời 
											về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên 
											thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc 
											Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ 
											, tổng thanh tra canh nông Đông 
											Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc 
											hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà 
											tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và 
											sách báo, tôi thường ghé lại xem và 
											mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt 
											tới.
											Bà tham Kỳ là một người hiền lành, 
											tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, 
											coi tôi chẳng khác như người nhà. 
											Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia 
											sư, bà gọi măi đứa con gái - lúc đó 
											mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra 
											khoanh tay, miệng lí nhí: "Em chào 
											thầy ạ!" Chào xong, cô bé bất ngờ mở 
											to đôi mắt nh́n thẳng vào tôi. Đôi 
											mắt to, đen láy, tṛn xoe như có ánh 
											chớp ấy đă hằn sâu vào tâm trí tôi, 
											theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là 
											tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là 
											Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra 
											nông lâm ở Sài G̣n nên sinh em trong 
											ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật 
											thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng 
											ít nói và mỗi khi mở miệng th́ cứ y 
											như một "bà cụ non". Đặc biệt em 
											chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín 
											đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi 
											ngồi ăn cơm lúc th́ vài quả ớt đỏ 
											au, lúc th́ quả chanh mọng nước em 
											vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, 
											nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo 
											sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang 
											ra giếng giặt .....
											Có lần tôi kể chuyện "bà cụ non" ít 
											nói cho hai người anh của em Ninh 
											nghe, không ngờ chuyện đến tai em, 
											thế là em giận! Suốt một tuần liền, 
											em nằm ĺ trong buồng trong, không 
											chịu học hành... Một hôm bà tham Kỳ 
											dẫn tôi vào pḥng nơi em đang nằm 
											thiếp đi. Hôm ấy tôi đă nói ǵ, tôi 
											không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đă nói 
											rất nhiều, đă kể chuyện em nghe, rồi 
											tôi đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi 
											dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra 
											khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em 
											nằng nặc đ̣i tôi đưa lên khu rừng 
											thông. Cả nhà không ai đồng ư: "Mới 
											ốm dậy c̣n yếu lắm, không đi được 
											đâu" Em không chịu nhất định đ̣i đi 
											cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi 
											đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa 
											em lên núi chơi .....
											Xe kéo chừng một giờ mới tới được 
											chân đồi. Em leo đồi nhanh như một 
											con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. 
											Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và 
											bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi 
											ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói ǵ. 
											Bất chợt em nh́n tôi, rồi ngước mắt 
											nh́n ra tận chân trời, không biết 
											lúc đó em nghĩ ǵ. Bất chợt em hỏi 
											tôi: -Thầy có thích ăn sim không? Tôi nh́n xuống sườn đồi: tím ngắt 
											một màu sim. Em đứng lên đi xuốn 
											sườn đồi, c̣n tôi v́ mệt quá nên nằm 
											thiếp đi trên thảm cỏ....Khi tôi 
											tỉnh dậy, em đă ngồi bên tôi với 
											chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim 
											đen láy chín mọng. -Thầy 
	ăn đi. Tôi 
											cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng 
											trầm trồ: -Ngọt quá.
											Như đă nói, tôi sinh ra trong một 
											gia đ́nh nông dân, quả sim đối với 
											tôi chẳng lạ lẫm ǵ, nhưng thú thật 
											tôi chưa bao giờ ăn những quả sim 
											ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn 
											hết qủa này đến qủa khác. Tôi nh́n 
											em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, 
											đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má 
											th́....tím đỏ một màu sim. Tôi cười 
											phá lên, em cũng cười theo!
											Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những 
											lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của 
											ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo 
											kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo 
											măi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng 
											nh́n theo. Tôi đi... lên tới bờ đê, 
											nh́n xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó 
											nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay 
											nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. 
											Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay 
											đầu nh́n lại... em vẫn đứng yên đó 
											... Tôi lại đi và nh́n lại đến khi 
											không c̣n nh́n thấy em nữa...
											Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh 
											thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê 
											lên, cho biết em vẫn khỏe và đă khôn 
											lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, 
											khi em mới 15 tuổi đă có nhiều chàng 
											trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ 
											trốn trong buồng, không chịu ra tiếp 
											ai bao giờ...
											Chín năm sau, tôi trở lại nhà...Về 
											Nông Cống t́m em. Hôm gặp em ở đầu 
											làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, 
											nhưng em không nói ǵ, chỉ bẽn lẽn 
											lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không 
											c̣n cô học tṛ Ninh bướng bỉnh nữa 
											rồi. Em đă gần 17 tuổi, đă là một cô 
											gái xinh đẹp....
											Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ v́ 
											hai gia đ́nh không môn đăng hộ đối 
											một chút nào. Măi sau này mới biết 
											việc hợp hôn của chúng tôi thành 
											công là do bố mẹ em ngấm ngầm" soạn 
											kịch bản". Một tuần sau đó chúng tôi 
											kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới 
											th́ em gạt đi, không đ̣i may áo cưới 
											trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm 
											và cái t́nh bền chặt là hơn cả". Tôi 
											cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại 
											đẹp trai nên em thường gọi đùa là 
											anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ 
											chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, 
											tỉnh Thanh Hóa của gia đ́nh em, nơi 
											ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. 
											Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, 
											hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ 
											hết!
											Hai tuần phép của tôi trôi qua thật 
											nhanh, tôi phải tức tốc lên đường 
											hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ 
											bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên 
											đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi 
											chín năm trước em đă đứng. Chỉ có 
											giờ em không c̣n cô bé Ninh nữa mà 
											là người bạn đời yêu quư của tôi. 
											Tôi bước đi, rồi quay đầu nh́n 
											lại..... Nếu như chín năm về trước, 
											nh́n lại chỉ thấy một nỗi buồn man 
											mác th́ lần này, tôi thật sự đau 
											buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu 
											xuống.
											Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: 
											vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm 
											thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm 
											lịch năm 1948, em đưa quần áo ra 
											giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị 
											Long, Nông Cống), v́ muốn chụp lại 
											tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên 
											trượt chân chết đuối! Con nước lớn 
											đă cuốn em vào ḷng nó, cướp đi của 
											tôi người bạn ḷng tri kỷ, để lại 
											tôi tôi nỗi đau không ǵ bù đắp nỗi. 
											Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm 
											sâu thẳm trong trái tim tôi.
											Tôi phải giấu kín nỗi đau trong 
											ḷng, không được cho đồng đội biết 
											để tránh ảnh hưởng đến tinh thần 
											chiến đấu của họ. Tôi như một cái 
											xác không hồn....Dường như càng kềm 
											nén th́ nỗi đau càng dữ dội hơn. May 
											sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp 
											trên bảo ai có tâm sự ǵ cứ nói ra, 
											nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau 
											trong ḷng tôi được bung ra. Khi ấy 
											chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, 
											tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt 
											tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi 
											chép. Chẳng cần phải suy nghĩ ǵ, 
											những câu những chữ mộc mạc cứ trào 
											ra: Nhà nàng có ba người anh đi bộ 
											đội Những em nàng có em chưa biết 
											nói "Khi tóc nàng đang xanh ..." 
											...Tôi về không gặp nàng...
											Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc 
											b́nh hoa ngày cưới làm b́nh hương, 
											viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy 
											để lại cho người bạn ở Thanh Hóa... 
											Anh bạn này đă chép lại và truyền 
											tay nhau trong suốt những năm chiến 
											tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa 
											Sim.
											Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu 
											Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 
											2-4-1916 hiện tại đang "ở nhà trông 
											vườn" ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi 
											gọi là chổ "quê đẻ của tôi đấy" 
											thuộc xă Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn 
											tỉnh Thanh Hóa.
											Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa 
											sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn 
											trôi dưới chân núi Nưa cũng thường 
											nở đầy những bông hoa sim tím. Cho 
											nên tôi viết mới nổi những câu: Chiều hành quân, qua những đồi 
											sim Những đồi sim, những đồi hoa 
											sim Những đồi hoa sim dài trong 
											chiều không hết Màu tím hoa sim, tím 
											cả chiều hoang biền biệt Và chiều 
											hoang tím có chiều hoang biết Chiều 
											hoang tim tím thêm màu da diết.
											Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, 
											chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ 
											giă văn đàn về quê làm ruộng, một 
											phần cũng v́ tính tôi" hay căi, 
											thích chống đối, không thể làm ǵ 
											trái với suy nghĩ của tôi". Bọn họ 
											chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, 
											không chấp nhận đơn từ bỏ kháng 
											chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương 
											tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! 
											Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ 
											quá rồi!
											Đó là thời năm 1955 - 1956, khi 
											phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với 
											sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai 
											Phẩm chống chính sách độc tài, đồng 
											thời chống những kẻ bồi bút đan tâm 
											lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi 
											cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa 
											canh cạn. Làm thơ th́ phải có cái 
											tâm thật thiêng liêng th́ thơ mới 
											hay. Thơ hay th́ sống măi. Làm thơ 
											mà không có t́nh, có tâm th́ chả ra 
											ǵ! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca 
											tụng, trong khi đó tôi lại đề cao 
											t́nh yêu, tôi khóc người vợ tử tế 
											của ḿnh, người bạn đời hiếm có của 
											ḿnh. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho 
											là khóc cái t́nh cảm riêng....Y như 
											trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra 
											mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn 
											một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi 
											chết đuối ở sông ... Tôi thấy đau 
											xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, 
											vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi 
											phản động ở chổ nào? Cái đau khổ của 
											con người, tại sao lại không được 
											khóc?
											Bọn họ xúc phạm đến t́nh cảm thiêng 
											liêng của tôi đối với người vợ mà 
											tôi hằng yêu quư, cho nên vào năm 
											1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về 
											nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt 
											tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, 
											tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt 
											được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày 
											đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. 
											Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi 
											phải đi xe cút kít, loại xe đóng 
											bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ 
											ở phía trước, có hai cái càng ở phía 
											sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ 
											cũng không cho, tôi phải gánh bộ. 
											Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, 
											không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ 
											theo dơi, ngăn cản, đi đến đâu cũng 
											có công an theo dơi, cho người hại 
											tôi...
											Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! 
											Có một cái lạ là thơ của tôi đă có 
											lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an 
											mật nói thật với tôi là nó được giao 
											lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên 
											Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi 
											nói về tỉnh Yên B́nh quê nó ra đọc 
											cho đỡ nhớ, v́ vậy nó không nỡ giết 
											tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một 
											vài bài thơ khác được mến chuộng. 
											Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy 
											cán bộ khổ quá, tôi đă làm bài Chiếc 
											Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ 
											không có chiếc chiếu để nằm!
											Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với 
											một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho 
											đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, 
											cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. 
											Cô vốn là một nạn nhân của chiến 
											dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa 
											chủ năm 1954, 1955.
											Lúc đó tôi c̣n là chính trị viên của 
											tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những 
											chuyện đấu tố. Là người có học , lại 
											có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy 
											chán nản quá, không c̣n hăng hái nữa. 
											Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô 
											cùng. Trong một xă thuộc huyện Nga 
											Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi 
											ở 15 cây số, có một gia đ́nh địa chủ 
											rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu 
											tư điền.
											Trước đây, ông địa chủ đó giàu ḷng 
											nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy 
											bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn 
											nên ông thường cho tá điền gánh gạo 
											đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là 
											trưởng pḥng tuyên huấn và chính trị 
											viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt 
											anh em ra cám ơn tấm ḷng tốt của 
											ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn 
											trưởng trao tặng bằng khen ngợi để 
											vinh danh ông .
											Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia 
											đ́nh ông đă bị đấu tố. Hai vợ chồng 
											ông bị đội Phóng tay phát động quần 
											chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn 
											xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu 
											lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua 
											đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. 
											Gia đ́nh ông bà địa chủ bị xử tử 
											hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi 
											được tha chết nhưng bị đội Phóng tay 
											phát động đuổi ra khỏi nhà với vài 
											bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn 
											nữa, chúng c̣n ra lệnh cấm không cho 
											ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê 
											cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm 
											đoán dân chúng cả việc lấy con cái 
											địa chủ làm vợ làm chồng.
											Biết chuyện thảm thương của gia đ́nh 
											ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi 
											trở về xă đó xem cô con gái họ sinh 
											sống ra sao v́ trước kia tôi cũng 
											biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào 
											quên được h́nh ảnh của một cô bé cứ 
											buổi chiều lại lén lút đứng núp bên 
											ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở 
											trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới 
											xă, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, 
											mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom 
											nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, 
											nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi 
											đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho 
											đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn 
											ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và 
											được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu 
											tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc 
											rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị 
											xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai 
											ăn đỡ đói ḷng, tối về ngủ trong 
											chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ 
											bị làm bậy và không biết ngày mai 
											c̣n sống hay bị chết đói.
											Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết 
											định đem cô về làng tôi, và bất chấp 
											lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết 
											định của tôi không lầm. Quê tôi 
											nghèo, lúc đó tôi c̣n ở trong bộ đội 
											nên không có tiền, nhưng cô chịu 
											thương chịu khó , bữa đói bữa 
											no....Cho đến bây giờ cô đă cho tôi 
											10 người con - 6 trai , 4 gái - và 
											cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
											Trong mấy chục năm dài, tôi về quê 
											an phận thủ thường, chẳng màng đến 
											thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi 
											bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ 
											tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải 
											sầu, lâu lâu nổi hứng th́ làm thơ, 
											thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu 
											để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi 
											được ve văn, mời gia nhập Hội Nhà 
											Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm ǵ.
											Năm 1988, tôi " tái xuất giang hồ" 
											sau 30 năm tự chôn và bị chôn ḿnh ở 
											chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi 
											lang bạt gần một năm trời theo 
											chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ 
											Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức 
											để đ̣i tự do sáng tác, tự do báo chí 
											- xuất bản và đổi mới thực sự. Vào 
											tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, 
											công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị 
											mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim 
											của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ 
											bảo đó là một h́nh thức bảo tồn tài 
											sản văn hóa. Th́ cũng được đi. Khoản 
											tiền 100 triệu trừ thuế đi c̣n 90 
											triệu, chia "lộc" cho 10 đứa con hết 
											60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu 
											đồng, pḥng đau ốm lúc tuổi già, sau 
											khi trích một ít để in tập thơ 
											khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu 
											Loan. Sau vụ này cũng có một số 
											công ty khác xin kư hợp đồng mua mấy 
											bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, 
											thơ tôi làm ra không phải để bán.
											
											
											Hữu 
											Loan