Lệ thuộc Trung Quốc từ bao giờ?
Ngô
Nhân Dụng
Tổ
tiên người Việt chúng ta bắt đầu bị
vua quan người Hán cai trị từ năm
nào? Có sử gia coi nước Nam Việt của
ông Triệu Đà hoàn toàn là của người
Tầu; kinh đô nước này ở Phiên Ngung
thuộc thành phố Quảng Châu, tỉnh
Quảng Đông bây giờ. Do đó có thể coi
năm 208 trước Công Nguyên, khi Triệu
Đà chiếm nước Âu Lạc, là bắt đầu
thời kỳ Bắc thuộc. Nhiều sử gia coi
Nam Việt cũng là một nước của người
Việt, chính ông Triệu Đà khi tới đó
đă “được đồng hóa” theo phong tục
bản xứ. Phần lớn nước Nam Việt nay
đă mất, các tỉnh Quảng Đông, Quảng
Tây đă hoàn toàn bị Hán hóa, chỉ c̣n
nước Việt Nam ngày nay là giữ được
“tộc phả” của gịng giống Việt. Như
vậy th́ khi quân Hán chiếm nước Nam
Việt, năm 111 trước Công Nguyên, mới
bắt đầu thời Bắc thuộc.
Gần đây có những sử gia như Lê Mạnh
Thát lại coi thời kỳ lệ thuộc người
Trung Hoa chỉ bắt đầu từ năm 43 sau
Công Nguyên. Đó là năm Hai Bà Trưng
bị thua và Mă Viện bắt đầu áp dụng
chính sách cai trị “trói buộc” (dĩ
thằng nhi trị - dùng thừng mà trị).
Trước đó, xă hội Việt Nam từ thời
Hùng Vương vẫn không thay đổi, dân
sống dưới quyền các lạc hầu, lạc
tướng, các ông vua Nam Việt hay các
thái thú, thứ sử nhà Hán chỉ đóng
vai thu thuế nộp cống tiến về Tầu mà
thôi.
Chắc giống như nhiều người Việt
không chuyên nghiên cứu lịch sử,
chúng tôi thích cách nh́n của Lê
Mạnh Thát, hoàn toàn với lư do t́nh
cảm. Bởi v́ cứ nghĩ thương tổ tiên
ḿnh, muốn các cụ lâm vào cảnh nô lệ
chậm được ngày nào tốt ngày đó!
Ông Lê Mạnh Thát mới bị cách chức
viện trưởng Viện Phật Học Vạn Hạnh,
để hai vị sư bị gọi là “quốc doanh”
lên thay. Không biết có phải v́ sử
gia tu sĩ này đă phạm lỗi quá yêu
nước, đem cắt ngắn thời kỳ Bắc thuộc
hơn một trăm năm, mà mất chức hay
không! Có người nghĩ như vậy, v́
trong dân chúng Việt Nam bây giờ
nhiều người cũng đang lo mối đe dọa
lệ thuộc Trung Quốc. Tất cả những vụ
Thác Bản Dốc, ải Nam Quan, huyện Tam
Sa, các phong trào phản đối về các
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, vụ Bô
Xít, cho thấy ḷng dân đang phẫn uất
về một t́nh trạng lệ thuộc có thật,
không thể phủ nhận được. Có những
web site của chính phủ Việt Nam “của
ḿnh nhưng do Trung Quốc phụ trách”
viết theo quan điểm Bắc Kinh. Tờ báo
mạng tiếng nói chính thức của đảng
Cộng Sản Việt Nam th́ đăng cả bản
tin Hải Quân Trung Quốc diễu vơ
dương oai, đương nhiên coi Hoàng Sa,
Trường Sa là của người Tầu! Người
Việt cũng đang tự hỏi trong thế kỷ
20 nước ta bị lệ thuộc Cộng Sản
Trung Quốc bắt đầu từ năm nào? Từ
thời ông Nguyễn Tấn Dũng, ông Lê Khả
Phiêu, hay Nguyễn Văn Linh? Hay là
bắt đầu từ xa hơn nữa?
Ông Tống Văn Công là một đảng viên
cộng sản với 50 tuổi đảng mới viết
một lá thư chân thành, trong đó ông
công nhận đảng của ông có những lỗi
lầm đối với lịch sử. Hai sai lầm mà
ông nêu lên là, từ thập niên 1950 đă
“Nhầm đồng minh giai đoạn là đồng
minh chiến lược, trong khi Bắc Kinh
từ đầu đă có ư đồ bành trướng của
chủ nghĩa Đại Hán,” và “ Đường lối
cách mạng uốn dần theo ư thức hệ
cộng sản.”
Chúng ta rất kính trọng tấm ḷng
chân thành của ông Tống Văn Công.
Nhưng nhận xét của ông về hai lỗi
lầm của đảng Cộng Sản vẫn chưa thấu
đáo.
Nói rằng “Bắc Kinh từ đầu đă có ư đồ
bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán,”
là không đúng. Mao Trạch Đông không
yêu thương ǵ dân Hán. Nếu biết
thương, ông ta đă không thi hành
những chính sách làm chết vài chục
triệu người Hán mà không thấy ghê
tay từ cuối thập niên 1950, sau đó
mươi năm lại đưa ra các chính sách
giết thêm vài chục triệu người Hán
nữa. Lư tưởng của Mao Trạch Đông
không phải là Đại Hán mà là làm cách
mạng vô sản thế giới. Ông ta luôn
luôn hô hào “chủ nghĩa quốc tế” và
chống đối “chủ nghĩa quốc gia” kịch
liệt. Khi tiễn phái đoàn 40 cố vấn
Trung Quốc đầu tiên sang Việt Nam
năm 1950, cả Mao Trạch Đông nhắc các
cố vấn này chuyện ngày xưa Mă Viện
đă sang đánh chiếm Việt Nam và người
Việt c̣n thù ghét lắm. Và sau đó Lưu
Thiếu Kỳ ủy lạo đoàn cố vấn quân sự
cũng kể chuyện Mă Viện và nhắc nhở
như vậy. Họ đều khuyên các cố vấn
phải tuân thủ “chủ nghĩa quốc tế”
trong khi làm nhiệm vụ cách mạng ở
Việt Nam.
Hồ Chí Minh cũng chọn “chủ nghĩa
quốc tế” giống Mao. Ông Hồ là người
lănh đạo đảng Cộng Sản và chính phủ
kháng chiến Việt Nam lúc đó, và ông
hoàn toàn đồng ư với Mao Chủ Tịch.
Cho nên không thể nói Hồ Chí Minh đă
chọn “nhầm đồng minh giai đoạn là
đồng minh chiến lược.” Trung Quốc
lúc đó không phải chỉ là “đồng minh
chiến lược” của Cộng Sản Việt Nam mà
có một địa vị c̣n cao hơn nữa. Đó là
đồng minh trong ư thức hệ, trong tư
tưởng, trong đường lối, chính sách,
trong tất cả mọi mặt. Theo Oliver
Todd thuật lại, Hồ Chí Minh từng nói
rằng ông không thấy cần phải viết
sách ǵ để phát triển chủ nghĩa cộng
sản nữa, v́ tất cả mọi điều cần viết
th́ đă có Mao Trạch Đông viết hết
rồi.
Trên đời có nhiều h́nh thức nô lệ,
không có thứ nào nguy hiểm bằng nô
lệ về tư tưởng. V́ khi đă quyết tâm
theo một ư thức hệ của người khác
rồi th́ họ bảo ǵ cũng phải nghe, v́
họ có thể giải thích mọi hành động
theo đúng ư thức hệ. Con đấu tố cha
là đă bóc lột ḿnh, vợ tố cáo chồng
đă hăm hiếp ḿnh, việc nào cũng có
thể biện minh bằng ư thức hệ cả.
Đồng minh chiến lược cũng có khi
thay đổi được. Đồng minh trong tư
tưởng th́ không thể đổi, trừ khi
chính ḿnh tuyên bố từ bỏ ư thức hệ
đó.
Chúng ta có thể rộng lượng nghĩ rằng
Hồ Chí Minh chỉ “giả bộ” theo ư thức
hệ cộng sản thôi, c̣n trong hành
động ông vẫn theo hướng khác để khỏi
bị lệ thuộc Trung Quốc. Cho nên,
phải nh́n vào hành trạng của chính
ông mới biết thực t́nh Hồ Chí Minh
có bị Mao Trạch Đông lèo lái hay
không.
Ông La Quư Ba là “đại diện liên lạc”
đầu tiên của Cộng Sản Trung Quốc với
Việt Nam, sau khi Hồ Chí Minh sang
Bắc Kinh vào Tháng Giêng năm 1950
xin viện trợ. Sau này La Quư Ba được
đưa lên làm tổng cố vấn rồi làm đại
sứ. Hồi kư của La Quư Ba kể ngày 14
Tháng Mười năm 1950, Hồ Chí Minh
viết cho Mao bức thư cảm ơn các cố
vấn Trung Quốc, “Chúng tôi đă thắng
lợi hoàn toàn trong chiến dịch Thất
Khê, Cao Bằng. Nguyên nhân lớn nhất
của thắng lợi này là sự viện trợ tận
t́nh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc,
Đảng Cộng Sản Liên Xô, các đồng chí
Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông.” Và
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “Tóm lại, tôi
nghĩ rằng thắng lợi này là thắng lợi
của đường lối cách mạng, quốc tế chủ
nghĩa của Mao Trạch Đông.”
Trong các trận Thất Khê, Cao Bằng có
hơn một ngàn thanh niên Việt Nam anh
dũng hy sinh. Hồ Chí Minh coi đó là
một “thắng lợi của đường lối cách
mạng, quốc tế chủ nghĩa của Mao
Trạch Đông.” Cũng giống như khi về ở
Hang Pắc Bó sau mấy chục năm xa quê
hương, Hồ Chí Minh đă đem một ngọn
núi và một con suối nguồn của sông
đặt tên theo tên Karl Marx và Lenin.
Ḷng ông ta lúc nào cũng hướng về
chủ nghĩa quốc tế cộng sản.
Hồi kư của La Quư Ba kể rằng mùa
Đông năm 1951 Hồ Chí Minh một lần
nữa lại bí mật đến Bắc Kinh. La Quư
Ba đă theo Hồ tới yết kiến Mao Trạch
Đông tại Di Niên đường, “Người gặp
Mao Chủ Tịch như anh em xa cách lâu
ngày...” Trong cuộc gặp gỡ đó, La
kể, Hồ Chí Minh xin với Mao Trạch
Đông chỉ thị cho La Quư Ba “khi tham
gia hội nghị Bộ Chính Trị Trung Ương
của chúng tôi” đừng “quá thận trọng,
quá khiêm tốn” mà hăy “nêu nhiều ư
kiến hơn.” Sau đó, Mao, Lưu Thiếu
Kỳ, Chu Đức nói chuyện riêng với La
Quư Ba cũng nhắc nhở La phải “nêu
nhiều ư kiến, giúp đỡ nhiều hơn đối
với họ.”
Đọc hồi kư này mới biết là Hồ Chí
Minh đă mời La Quư Ba tham dự các
cuộc họp của Bộ Chính Trị đảng Cộng
Sản Việt Nam. Đây là một hành động
hiếm khi xảy ra, v́ Bộ Chính Trị là
cơ quan quyết định tất cả mọi việc
trong đảng, trong chính quyền. Vào
thế kỷ 19 khi quân Pháp đánh chiếm
Việt Nam trong hơn 20 năm, một điều
họ đ̣i hỏi là viên khâm sứ Pháp phải
có quyền tham dự các cuộc họp của Cơ
Mật Viện trong triều đ́nh Huế. Tám
mươi năm sau, Hồ Chí Minh tự ư tặng
cho cố vấn Trung Quốc đặc quyền đó.
Nếu không phải v́ t́nh đồng chí cùng
theo đuổi một cuộc cách mạng thế
giới th́ không ai làm như vậy. Ông
Hồ lúc đó là chủ tịch đảng, chủ tịch
nước, những việc ông làm là khuôn
phép cho các đồng chí cấp dưới noi
theo.
Xin nhắc đến một thí dụ khác trong
hành trạng của ông Hồ. Khi cuộc cải
cách ruộng đất được phát động theo
từng bước đúng bài bản của các cố
vấn Trung Cộng, Hồ Chí Minh có lúc
muốn tha chết cho bà Nguyễn Thị Năm,
một địa chủ đă có công cứu giúp
nhiều lănh tụ cộng sản Việt Nam, có
con đi bộ đội và đă hiến của cải cho
kháng chiến. Ông Hồ là chủ tịch
nước, ông có quyền ân xá. Ông họp cả
Bộ Chính Trị để bàn việc đó. Nhưng
cuối cùng ông đă không dám ân xá cho
một phụ nữ có công với tổ quốc Việt
Nam. Chỉ v́ một cố vấn Trung Quốc
nói: “Con hổ đực, hay hổ cái, con
nào cũng ăn thịt người!”
Người đứng đầu một chính phủ, đứng
đầu một đảng ở cấp quốc gia, mà
không dám làm trái lời một cố vấn
Trung Quốc cấp huyện. Trong lịch sử
chưa thấy người nào nhịn nhục đến
như thế. V́ khi đă nô lệ về tư
tưởng, th́ sẽ bị ràng buộc trong tất
cả mọi hành động.
Có thể nói Lê Duẩn đă phản ứng ngược
lại, sau năm 1975 quay đầu theo Liên
Xô, chống Trung Quốc đến độ cực đoan
cũng v́ phẫn uất v́ đă thấy Hồ Chí
Minh phải nhịn nhục với các cố vấn
nhiều quá. Nhắm mắt theo Trung Quốc
là dại, chống đối một nước lớn láng
giềng đến độ viết cả vào Hiến Pháp,
để đi theo một cường quốc ở xa, lại
càng dại dột hơn. Đến năm 1992 sau
khi Liên Xô đă sụp đổ, phái đoàn
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn
Đồng sang Thành Đô xin thần phục trở
lại th́ lúc đó chính quyền Trung
Quốc cũng không c̣n theo “chủ nghĩa
cách mạng quốc tế” của Mao Trạch
Đông nữa rồi. Lúc đó ở Bắc Kinh họ
rất mừng v́ “chủ nghĩa Đại Hán” đă
thực sự trở thành quốc sách, họ có
cơ hội thực hiện ngay. Khi ông Lê
Khả Phiêu sang Tầu xin tái lập một
“quốc tế cộng sản” mới th́ các đồng
chí Trung Quốc đă cảm ơn và từ chối!
Chủ nghĩa Đại Hán không cần đến thứ
chiêu bài lỗi thời đó nữa.
Vậy th́ trong thế kỷ 20 nước ta bắt
đầu chịu lệ thuộc Trung Quốc từ năm
nào? Từ năm 1992 hay là từ năm 1950?
Chắc các sử gia sau này sẽ c̣n bàn
măi. Nhưng người Việt Nam đang sống
trong cảnh lệ thuộc đó th́ không
quan tâm đến chuyện nó bắt đầu từ
bao giờ. Cả nước chỉ mong t́m cách
làm sao chấm dứt cảnh lệ thuộc đó mà
thôi.