|
Kể từ 9/2009, khi
Trung Quốc gửi lên LHQ tấm
bản đồ "đường lưỡi ḅ" trên
Biển Đông, đến nay họ đang
đi vào giai đoạn hiện thưc ư
đồ bành trướng này.
Nh́n vào bản đồ Biển Đông,
ta thấy:
Đường lưỡi ḅ lấy tâm điểm,
hay chính xác hơn điểm hạt
nhân là Hoàng sa và Trường
sa.
Nếu Hoàng sa và một số đảo
Trường sa không thuộc Trung
quốc quản lư như hiện nay,
th́ yêu sách đường lưỡi ḅ
là hoàn toàn vô lư , không
có một chút cơ sở pháp lư
nào.
Ta hăy trở lại với việc
Trung quốc tranh dành Hoàng
sa, Trường sa với Việt nam
ra sao, để hiểu rơ hơn kế
sách mà Trung quốc đang tiến
hành.
KẾ HIỂM "VÔ TRUNG SINH HỮU"
: TRONG CÁI KHÔNG SINH CÁI
CÓ.
Nếu chỉ kể từ thế kỷ thứ 19
đến nay, th́ ngay từ năm
1816 Hoàng đế Gia Long Triều
Nguyễn đă tuyên bố chủ quyền
với Hoàng Sa sau khi triều
đại này thành lập năm 1802.
Năm 1930 Pháp tuyên bố chủ
quyền đối với Hoàng Sa của
An Nam, và chủ quyền đối với
Trường Sa cho Pháp. Năm 1933
Pháp chính thức chiếm cứ một
số đảo thuộc quần đảo Trường
Sa, trong đó bao gồm đảo
Trường Sa, Ba B́nh, Thị Tứ
và Loại Ta.
Năm 1939, Phát xít Nhật
chiếm toàn bộ Hoàng sa và
Trường sa từ tay Pháp và
Việt nam , biến 2 quần đảo
ấy thành căn cứ quân sự trên
Biển Đông , đối chọi với Hoa
kỳ .
Năm 1945, Chiến tranh thế
giới thứ II kết thúc, Nhật
đă rút khỏi hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, đặt
các đảo vào t́nh trạng
‘không có người ở’ .
Năm 1946, lợi dụng Pháp đang
gặp khó khăn trong việc
chiếm lại Việt nam , Trung
quốc cho quân lập sự hiện
diện trên đảo Phú Lâm ( ở
phía Đông của quần đảo Hoàng
Sa) và Ba B́nh (Trường Sa).
Bia chủ quyền trên đảo Hoàng Sa |
Như vậy mặc dù từ không có
ǵ , Trung quốc đă cố t́nh
bỏ qua chủ quyền của Việt
nam, thiết đặt sự hiện diện
của ḿnh tại Hoáng sa và
Trường sa . Sự hiện diện này
là trái với luật pháp quốc
tế, xâm phạm chủ quyền của
Việt nam. Sau khi đă có mặt
trên một số đảo của Hoàng sa
và Trường sa , Trung quốc
bắt đầu xây dựng cơ sở pháp
lư bằng tuyên bố chủ quyền
của họ đối với Hoàng sa,
Trường sa.
Kế biến không thành có của
họ là như vậy .
Do sự nhận thức yếu kém của
Việt nam về biển đảo. Do sự
mù quáng, cả tin vào chủ
nghĩa quốc tế vô sản, Việt
nam đă đấu tranh không đủ
mạnh cả về việc đưa ra công
luận thế giới, cả đến việc
cương quyết không chịu lùi
một tất đất , tất biển của
tổ tiên để lại.
Ngày hôm nay, toàn bộ Hoàng
sa đă nằm trong quyền kiểm
soát của Trung quốc sau việc
dùng vũ lực 1974.
Một số đảo thuộc Trường sa
cũng bị Trung quốc chiếm
bằng hải chiến 1988.
Trên cơ sở này , Trung quốc
dấn tiếp bành trướng ra Biển
Đông băng đường chín khúc "
lưỡi ḅ trung hoa ". Đặt
Biển Đông vào quyền lợi cốt
lơi của Trung quốc , ngụ ư
sẽ dùng tất cả biện pháp kể
cả vũ lực để bảo vệ "" cốt
lơi" ấy. Trung quốc đang gây
căng thẳng trên Biển Đông .
Đây cũng là một h́nh thức
hợp pháp hóa cho cái gọi là
"có" sau khi được hóa phép
từ "không có".
Đường lưỡi ḅ là hậu quả
nghiêm trọng của chính sách
cầu ḥa, quị lụy của chính
phủ cộng sản Việt nam .
Việc để cho đất đai tổ tiên
rơi vào tay Trung quốc mà
không có đối sách rơ ràng,
đă khuyến khích Trung quốc
ngang ngược thực hiện kế
hoạch bành trướng của họ ra
Biển Đông .
Nguy hiểm hơn nữa , Trung
quốc vẫn chưa chịu dừng ở vị
trí này .
Họ c̣n muốn nhiều hơn nữa .
Muốn chiếm hết cả Biển Đông
. Cả vùng biển 200 hải lư
tính từ đất liền của Việt
nam.
Việc cắt cáp thăm ḍ dầu khí
ngày 26/5/11 của tầu B́nh
minh 02, cắt cáp của tầu
Viking II ngay 9/6/11 tại
vùng biển 200 hải lư của
VIỆT NAM, việc chính phủ
Trung quốc tuyên bố đây là
lănh hải thuộc Trung quốc ,
đang được các nhà b́nh luận
chính trị Việt nam và thế
giới đánh giá là
Trung quốc tiếp tục dùng mưu
biến không thành có , biến
vùng biển của Việt nam thành
vùng biển của Trung quốc ,
biến vùng biển không tranh
chấp thành vùng có tranh
chấp. Đây là sự kiện
chưa hề có trên thế giới .
Hành động ngang ngược này
của Trung quốc chứng tỏ dă
tâm lớn của Trung quốc .
Đây là mưu cũ mà có nội dung
mới . Chung qui vẫn chỉ là :
cướp của Việt nam , to mồm
la làng , dùng sức mạnh lấn
lướt ép Việt nam chịu lép .
Lâu ngày Việt nam phải thua
, phải chịu chấp nhận hiện
trạng .
Theo đánh giá của Trung
Quốc, trữ lượng dầu khí ở
Biển Đông khoảng 213 tỷ
thùng, trong đó trữ lượng
dầu tại quần đảo Trường Sa
có thể lên tới 105 tỷ thùng.
Với trữ lượng này và sản
lượng khai thác có thể đạt
khoảng 18,5 triệu tấn/năm
duy tŕ được trong ṿng 15 -
20 năm tới. Các khu vực có
tiềm năng dầu khí c̣n lại
chưa khai thác là khu vực
thềm lục địa ngoài cửa Vịnh
Bắc Bộ và bờ biển miền
Trung, khu vực thềm lục địa
Tư Chính. Trữ lượng và sản
lượng dầu khí của Việt Nam
đứng vào hạng trung b́nh
trong khu vực, tương đương
Thái Lan và Malaysia.
Biển Đông ngoài trữ lượng
dầu hỏa , khí đốt, c̣n mang
lại nguồn hải sản lớn lao .
Thí dụ Trung Quốc là nước
đánh bắt cá lớn nhất thế
giới (khoảng 4,38 triệu
tấn/năm). Một điều rất quan
trọng là vị trí chiến lược
của nó trong tranh dành
quyền lực của Trung quốc với
Hoa kỳ tại Châu á Thái b́nh
dương.
V́ vậy việc hy vọng dùng lẽ
phải, dùng luật quốc tế để
thảo luận với Trung quốc cơ
hồ đ̣i lại chủ quyền ở Hoàng
sa , Trường sa là điều gần
như không tưởng .
Vụ cắt cáp ngày 26/5 và 9/6
trong lănh hải Việt nam là
một bước tiến nguy hiểm của
Trung quốc trong kế hoạch
bành trướng của họ ra Biển
Đông . Trong kế hoạch này ,
họ sẽ đưa tầu sân bay vào
hoạt động trên Biển Đông ,
đưa đe dọa không lực tới gần
vùng biển đang tranh chấp
.Cũng trong giai đoạn này ,
Trung quốc sẽ đưa vào Biển
Đông dàn khoan khổng lồ có
khả năng khoan sâu 12 000 m,
để khai thác dầu khí .
Nếu tính từ 1958, khi quốc
hội Trung quốc tuyên bố chủ
quyền của Trung quốc đối với
Hoàng sa, Trường sa, đến
1974, khi Trung quốc dùng
hải chiến chiếm Hoàng sa, là
16 năm. Nếu tính từ 9/2009,
khi Trung quốc lấp lửng nói
về đường lưỡi ḅ, đến ngày
29/5/11 khi người phát ngôn
chính phủ Trung quốc tuyên
bố việc tầu hải giám của họ
vào sâu 80 hải lư hải phận
Việt nam , cắt cáp thăm ḍ
dầu khí, là việc làm b́nh
thường trong lănh hải Trung
quốc, th́ thời gian là chưa
đến 2 năm .
Trung quốc đang rất cần dầu
hỏa. Trung quốc đang bất
chấp tất cả . Trung quốc
đang "Biến không thành có"
: đang biến không tranh chấp
thành có tranh chấp. Đang
biến vùng biển Việt nam
thành vùng biển Trung quốc.
Đang biến không có chủ quyền
thành có chủ quyền.
Kế sách này do Quỷ cốc tử
truyền dậy, có tên gọi là
"Vô trung sinh hữu ": trong
không biến thành có.
Trung quốc đă áp dụng một
cách thành công kế sách này
trong đàm phán biên giới
trên bộ với Việt nam . Họ đă
có kinh nghiệm trong đấu
tranh dành phần lợi cho ḿnh
. Quả vậy , ta thấy Ải Mục
nam quan , nơi Nguyễn Trăi
gạt giọt lệ thương cha
Nguyễn Phi Khanh , quay đầu
, lấy kế sách đuổi giặc Minh
làm "hiếu" , đă nằm trong
đất Trung quốc . Thác Bản
giốc, một phong cảnh tuyệt
đẹp của rừng núi Việt nam,
đă mất một nửa với lũ người
tham lam này . Cao điểm 1509
Hà giang, năm 1984 c̣n chứng
kiến sự hi sinh anh hùng của
hơn 3770 chàng trai Việt, đă
trở thành nơi chụp ảnh khoe
khoang của bọn lính Trung
quốc…
Ngày nay, họ định dựng
chuyện hải phận 200 hải lư
của Việt nam là của Trung
quốc.
Họ định nói nhiều lần th́
thế giới phải quen, Hoa kỳ
phải quen. Sau đó, khi thơi
cơ thuận lợi, sẽ tạo cớ để
dùng vũ lực để đè bẹp Việt
nam . Nếu Việt nam hèn kém ,
rệu rạo, không đủ sức chống
lại th́ vùng biển này sẽ là
của Trung quốc . Nếu Việt
nam có sức chống lại , nhưng
đảng cộng sản Việt nam sợ
nhân dân hơn sợ Trung quốc ,
họ sẽ hối lộ Bộ chính trị
ĐCS VN, sẽ đề nghị “chia
đôi” , hay “gác chủ quyền ,
cùng nhau khai thác”.
Đây chính là kế sách “trong
không sinh có”, mà Trung
quốc đang áp dụng .
Nhưng người việt nam không
phải ai ai cũng là những
"con cừu" . Thế giới không
phải ai ai cũng khờ khạo để
Trung quốc qua mặt . Bộ mặt
của một anh “hàng xóm to xác
nhưng xấu tính “, tham lam,
nhỏ mọn, hay dùng mẹo bẩn,
tiểu nhân... đă bị cả thế
giới vạch trần.
Những sự kiện ngày 26/5/11
và 9/6 /11 đă bộc lộ hết bản
chất xấu chơi , bành trướng
quyết liệt , bất chấp thủ
đoạn của ĐCS Trung quốc .
Đây là cột mốc để ĐCS VN ,
chính phủ Việt nam từ bỏ hợp
tác chiến lược với Trung
quốc , từ bỏ đường lối 16
chữ sảo trá , 4 tốt đểu giả
, lật lọng , bước một bước
mạnh sang cộng đồng các nước
dân chủ trên thế giới .
Đây cũng là cột mốc đánh giá
sự thất bại của một chính
sách cầu ḥa , một chính
sách ngu muội đặt lợi ích
đảng cộng sản việt nam lên
trên lợi ích dân tộc Việt
nam. Đây là sự xụp đổ của ảo
vọng dựa vào các đồng chí
Trung quốc , dựa vào tinh
thần quốc tế vô sản của đảng
cộng sản trung quốc, ḥng
nắm độc quyền lănh đạo dân
tộc, đất nước Việt nam của
đảng cộng sản việt nam .
CÔNG HÀM CỦA THỦ TƯỚNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM PHẠM VĂN ĐỒNG
GỬI THỦ TƯỚNG CỘNG SẢN TRUNG
QUỐC CHU ÂN LAI ngày 14
tháng 9 năm 1958.
Đây là lá bài tẩy duy nhất
mà Trung quốc có thể dùng để
đấu tranh chủ quyền ở Hoàng
sa , Trường sa của họ . Cho
đến nay , họ chưa công bố
được một tài liệu có tính
lịch sử nào, có thể chứng
minh họ có quyền bàn luận về
chủ quyền ở Hoàng sa ,
Trường sa .
Để bài viết có tính chặt chẽ
, tôi xin trích dưới đây 2
văn kiện quan trọng :
1. Tuyên bố cua Chính phủ
nước cộng ḥa nhân dân Trung
Hoa .
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại
hội uỷ viên thường vụ đại
biểu nhân dân toàn quốc hội
nghị thứ 100 thông qua quyết
định phê chuẩn về tuyên bố
lănh hải của chính phủ nước
cộng ḥa nhân dân Trung Hoa
Chính phủ nước cộng ḥa nhân
dân Trung Hoa tuyên bố:
* Một: Lănh hải của nước
cộng ḥa nhân dân Trung Hoa
rộng 12 hải lư. Quy định này
áp dụng cho toàn bộ lănh thổ
nước cộng ḥa nhân dân Trung
Hoa, bao gồm Trung Quốc đại
lục cùng với duyên hải của
các hải đảo, với Đài Loan
cùng các ḥn đảo xung quanh
cách đại lục bằng hải phận
quốc tế, những ḥn đảo của
khu vực Bành Hồ, quần đảo
Đông Sa, quần đảo Tây Sa
(Hoàng Sa), quần đảo Trung
Sa, quần đảo Nam Sa (Trường
Sa) và những ǵ thuộc về
những hải đảo của Trung
Quốc.
2. Trả lời của Thủ tướng
Việt nam Phạm Văn Đồng.
Toàn văn :
“Thưa Đồng chí Tổng lư,
Chúng tôi xin trân trọng báo
tin để Đồng chí Tổng lư rơ :
Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng Ḥa ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày ngày
4 tháng 9 năm 1958, của
Chính phủ nước Cộng Ḥa Nhân
dân Trung Hoa, quyết định về
hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng Ḥa tôn trọng quyết
định ấy và sẽ chỉ thị cho
các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lư của
Trung Quốc, trong mọi quan
hệ với nước Cộng ḥa Nhân
dân Trung Hoa trên mặt bể
Chúng tôi xin kính gởi Đồng
chí Tổng lư lời chào rất
trân trọng.
Hà-Nội, ngày 14 tháng 9 năm
1958
Phạm Văn Đồng (ấn kư)
Thủ tướng Chính phủ
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
Ḥa
Kính gửi :
Đồng chí Chu Ân Lai
Tổng lư Quân vụ viện”
Trang mạng BVN ngày
16/06/2011, có đăng bài "Có
phải bức công hàm của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng là lá
bài tẩy trong t́nh hữu nghị
Việt-Trung?" tác giả Đinh
Kim Phúc đă phân tích chi
tiết nội hàm của bức công
hàm của Thủ tướng Việt nam
gửi Thủ tướng Trung quốc Chu
Ân Lai .
Ở đây tôi xin đưa ra những
lĩnh hội và ư kiến bản thân
về bức Công hàm quan trọng
này.
1. Công hàm đề ngày
14/9/1958. Trong công hàm
của Thủ tướng Việt nam chỉ
rơ là "Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng ḥa ghi
nhận và tán thành bản tuyên
bố ngày 4-9-1958 của Chính
phủ nước Cộng ḥa Nhân dân
Trung Hoa quyết định về hải
phận của Trung Quốc."
Bản Tuyên bố của Trung quốc
có 2 điểm chính mà ta phải
để ư :
(1) Chiều rộng lănh hải của
nước Cộng ḥa Nhân dân Trung
Hoa là 12 hải lư.
(2) Điều lệ này áp dụng cho
toàn lănh thổ nước Cộng ḥa
Nhân dân Trung Hoa, bao gồm
phần đất Trung Quốc trên đất
liền và các hải đảo ngoài
khơi, Đài Loan (tách biệt
khỏi đất liền và các hải đảo
khác bởi biển cả) và các đảo
phụ cận, quần đảo Bành Hồ,
quần đảo Đông Sa, quần đảo
Tây Sa, quần đảo Trung Sa,
quần đảo Nam Sa, và các đảo
khác thuộc Trung Quốc.
Việc Thủ tướng cộng sản Việt
nam tán thành Tuyên bố của
chính phủ Trung quốc chỉ là
một cử chỉ có tính chính trị
mà không có tính pháp luật .
Ḥang sa , Trường sa lúc này
đang thuộc chủ quyền của
Việt nam cộng ḥa do Tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm đứng đầu
.
V́ thế mà Thủ tướng Việt nam
không dám đả động một từ nào
về Hoàng sa , Trường sa ,
ông ta chỉ viết :"Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng
ḥa tôn trọng quyết định ấy
và sẽ chỉ thị cho các cơ
quan Nhà nước có trách nhiệm
triệt để tôn trọng hải phận
12 hải lư của Trung Quốc
trong mọi quan hệ với nước
Cộng ḥa nhân dân Trung Hoa
trên mặt biển."
Trung quốc không thể coi đây
là sự chấp nhận chủ quyền
của Trung quốc tại Hoàng sa
, Trường sa được .
Công hàm này chỉ có giá trị
khi Việt nam chưa thống nhất
. Từ 1975 trở lại đây ,
chính phủ của nước Việt nam
thống nhất chưa hề tuyên bố
nhất trí với tuyên bố của
Phạm Văn Đồng .
Việt nam dân chủ cộng ḥa
không thể công nhận cho
Trung quốc một điều mà bản
thân ḿnh không sở hữu : chủ
quyền Hoàng sa , Trường sa
đang thuộc về quốc gia khác:
Việt nam cộng ḥa .
Hơn nữa chủ quyền về Biển và
đảo quyết không chỉ do một
công hàm của Thủ tướng cộng
sản quyết định.
Kết thúc mục này, tôi đính kèm bản đồ "lưỡi ḅ trung quốc". |
Nó phải được một quốc hội
Việt nam đại diện cho toàn
dân tộc Việt nam quyết định
. Ngay cả quốc hội hiện nay
do 90% đảng viên đảng cộng
sản Việt nam chiếm giữ, cũng
không đại diện cho toàn bộ
dân tộc Việt nam .
Người Trung quốc đă thừa
biết như thế nào là những
hiệp định, hiệp ước bất b́nh
đẳng khi Trung quốc yếu,
buộc phải kư với những nước
mạnh hơn .
Họ không thể sử dụng công
hàm ngày 14/9/1958 làm bằng
chứng cho rằng chính phủ
nước Việt nam đă công nhận
chủ quyền của họ ở Hoàng sa
, Trường sa.
Những người dân chủ Việt nam
tuyên bố rằng: Toàn bộ quần
đảo Hoàng sa là của Việt nam
. Trung quốc phải trả lại
Hoàng sa cho Việt nam. Trung
quốc phải trả lại cho Việt
nam những ḥn đảo thuộc
Trường sa mà họ đă dùng vũ
lực đánh chiếm. Không những
thế, trên bộ, Nhà nước
cộng sản Việt nam đă kư hiệp
ước bất b́nh đẳng với Trung
quốc, để cho Trung quốc lấn
chiếm Ải Mục Nam quan , thác
Bản dốc, cao điểm 1509 Hà
giang... Những điểm bất b́nh
đẳng này phải được xét lại
trong tương lai dân chủ của
Việt nam.
Bạn đọc có thể thấy, nếu
Việt nam đ̣i thành công
Hoàng sa ,. Trường sa, th́
đó cũng là lúc mộng bành
trướng Biển Đông của người
trung quốc tan vỡ. Họ sẽ
phải quay trở lại, hài ḷng
với đường cong có thể sẽ
nhiều hơn chín đoạn, chạy
song song với bờ biển của họ.
Lúc đó cái lưỡi ḅ ấy sẽ
không c̣n khuấy động được
sóng nước Biển Đông nữa .
Lúc đó Biển Đông sẽ lặng
sóng bành trướng.
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KHÔNG
CÓ KHẢ NĂNG LĂNH ĐẠO DÂN TỘC
CHỐNG LẠI BÀNH TRƯỚNG TRUNG
QUỐC.
Trước hết sự yếu kém của ĐCS
VN nằm ở chính học thuyết
Quốc tế vô sản, một bộ phận
của CN Mác -Lênin. Đảng cộng
sản Việt nam không lĩnh hội
được bản chất của CN quốc tế
vô sản là dương ngọn cờ giai
cấp, thông qua viện trợ gọi
là vô tư “quốc tế vô sản”,
mà các nước cộng sản lớn như
Trung quốc , Liên xô khống
chế , để lệ thuộc các nước
đàn em vào phe cánh của ḿnh
.
V́ nhận viện trợ của Trung
quốc mà Phạm Văn Đồng phải
hạ bút kư Hiệp định Genève,
1954 chia cắt lănh thổ Việt
nam . Điều này chỉ có lợi
cho Trung quốc : có một nước
Việt nam yếu ớt bị chia cắt
bên cạnh biên giới ḿnh an
toàn hơn một nước Việt nam
thống nhất , hùng cường .
V́ viện trợ quốc tế vô sản
mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng
không dám mếch ḷng Trung
quốc trong công hàm ngày
14/5/1958. Đây là cớ để
Trung quốc thực hiện các mưu
kế " vô trung sinh hữu" đối
với Hoàng sa , Trường sa .
V́ viện trợ quốc tế vô sản
mà năm 1974 , khi Trung quốc
đánh chiếm Hoàng sa từ tay
Việt nam cộng ḥa , chính
phủ cộng sản Miền Bắc Việt
nam không một lời phản đối .
V́ viên trợ quốc tế vô sản
mà 1975 , quân đội Việt nam
nhận được lệnh giải phóng
các đảo do VNCH cai quản mà
không dám động đến các đảo
do Trung quốc đă cướp từ tay
chính quyền Sài g̣n 1974.
V́ viện trợ của Trung quốc
bị bọn Việt nam phản bội mà
Trung quốc gây chiến tranh
biên giới 1979.
V́ tinh thần giai cấp anh em
mà 1988 , khi Trung quốc hải
chiến chiếm một số đảo tại
Trường sa , Việt nam bỏ qua
như không phải đảo biển của
tổ tiên để lại .
Từ năm 1990 lại đây , ĐCS
VN, chính phủ Việt nam đă
hoàn toàn bất lực trước các
thủ đoạn nham hiểm của Trung
quốc . Sau khi bị mê hoặc
bởi 16 chữ và 4 điều tốt ,
Đảng cộng sản Viẹt nam đă
tạo điều kiện cho Trung quốc
giăng thiên la địa vơng trên
tổ quốc yêu quí của chúng ta
:
1. Trung quốc cho vay tiền,
để làm những công tŕnh có
hại cho quốc pḥng như Thủy
điện Sơn la .Trường hợp xẩy
ra chiến tranh với Trung
quốc như 1979, th́ việc dọa
phá sập đập thủy điện này là
một đ̣n cân năo khủng khiếp.
Bởi v́ 9,3 tỷ m3 nước sẽ làm
ngập lụt đồng bằng Bắc bộ từ
4m đến 60 m. ...
2. Đưa ô nhiễm môi trường
vào Việt nam , thí dụ khai
thác bôxit Tây nguyên. Những
bể bùn đỏ bôxit khi bị vỡ sẽ
gây ô nhiễm trầm trọng cho
đồng bằng phía dưới Tây
nguyên .
3. Đưa người trung quốc vào
các địa bàn có tính chất an
ninh chiến lược của Việt nam
như Tây nguyên , rừng biên
giới …
4. Trung quốc tạo các bẫy nợ
nần về kinh tế , bẫy kinh tế
Việt nam sa vào, như Dự án
đường sắt cao tốc …
5. Trung quốc như tằm ăn rỗi
, quyết tâm chinh phục
Cămpuchia , Lào nhằm bao bọc
Việt nam, cô lập Việt nam về
mặt chiến lược . Gần đây
nhất là chiến tranh Tây -Nam
1978 của Việt nam . Sự hi
sinh của các chí nguyện quân
Việt nam tại Lào , Cămpuchia
đang trở thành vô nghĩa do
sự bất tài chính trị của ĐCS
VN .
Trung quốc đang dùng chiêu :
trên cao th́ Mác -Lênin giai
cấp , dưới thấp th́ bành
trướng Đại Hán . Đảng cộng
sản Việt nam đă khoanh tay
chịu bất lực trước chiêu
thức này, như con ếch nhỏ
trước con rắn hổ mang hung
tợn.
Các vụ ngày 26/5/11 và
9/6/11 vừa qua đă gây xúc
động mạnh mẽ trong t́nh cảm
yêu nước của dân tộc Việt
nam . Các cuộc xuống đường
tự phát ngày 5/6/11 và
12.6/11 đă bị chính phủ Việt
nam đàn áp gián tiếp và trực
tiếp. Thí dụ như việc bắt
các blogers Người buôn gió ,
mẹ Nấm , Bùi Chát ...trước
ngày 5/6/11, hay dùng lực
lượng công an mật trấn áp
những người tụ tập bột phát
trong ngày 12/6/11.
Đây là một bước đi nguy hiểm
của chính phủ cộng sản việc
nam.
Việc sử dụng lực lượng mật
vụ vào đàn áp những người
yêu nước phản đối Trung quốc
xâm phạm chủ quyền Việt nam
là nuôi dường tinh thần sợ
Trung quốc , cầu ḥa với
Trung quốc .
Các lực lượng an ninh này
nếu nắm chính quyền, sẽ:
ngoài th́ thần phục Trung
quốc , trong th́ tàn sát
người Việt nam yêu nước .
Đây sẽ là giai đoạn đẫm máu
của dân tộc Việt nam.
Đây chính là sự quay trở lại
của chế độ diệt chủng Polpot
áp dụng tại Việt nam.
Thử hỏi nếu Nhà Trần bức hại
những người thích trên cánh
tay hai chữ "SÁT THÁT" , th́
liệu họ có lập nên trang sử
3 lần chiến thắng Nguyên -
Mông không?
Sợ nhân dân yêu nước , đặt
quyền lợi của một nhóm chóp
bu cộng sản lên trên quyền
lợi dân tộc ,với đạo đức suy
đồi , tham nhũng tràn lan
khắp các cấp, Đảng cộng sản
Việt nam đă không c̣n khả
năng đoàn kết toàn dân tộc
Việt nam chống bành trướng
Trung quốc.
SỨC MẠNH CỦA TRUNG QUỐC NẰM
Ở ĐÂU?
Hơn 30 năm liên tục tăng
trưởng , kinh tế Trung quốc
đă đạt tầm cỡ của một nền
kinh tế cỡ thứ 2,3 trên thế
giới . Thật ra th́ không
phải đến bây giờ, mà trong
quá khứ, kinh tế Trung quốc
luôn là một nền kinh tế lớn
trên thế giới.
Ta hăy xem sức mạnh của kinh
tế trung quốc hiện đại này
nằm ở đâu?
Câu hỏi này , ai quan tâm
đến kinh tế đều trả lời được
: Nằm ở khâu xuất khẩu hàng
hóa . Bối cảnh toàn cầu hóa
phát triển mạnh đă vô h́nh
chung giúp Trung quốc phát
triển thành công mô h́nh
xuất khẩu này .
Xuất khẩu trung quốc dưa
trên :
a. Lao động công nhân rẻ mạt
.
b. Nhà nước Trung quốc can
thiệp vào trị giá đồng Nhân
dân tệ, giữ cho nó có giá
trị hối đoái thấp, làm đ̣n
bẩy cho xuất khẩu .
Sự can thiệp này là trái với
qui luật vận động tự nhiên
của nền kinh tế,của đồng
tiền. Khi kinh tế phát
triển, xă hội sản xuất ra
nhiều hàng hóa hơn th́ kèm
theo hiện tượng này là giá
trị đồng tiền cũng tăng .
Đây là tự nhiên , là b́nh
thường.
Chính phủ Trung quốc đă cố
t́nh giữ giá trị đồng tiền
của ḿnh ở mức thấp giả tạo,
ḥng kích hoạt sự tăng cường
của xuất khẩu . Đây là sự
cướp thành quả lao động của
hàng trăm triệu lao động
trung quốc . Chính phủ trung
quốc biến sức lao động của
người dân trung quốc thành
hàng hóa giá rẻ , xuất khẩu
, đưa đô la về làm dự trữ
chiến lược , phục vụ bành
trướng .
Câu hỏi đặt ra là: Việc
hàng trăm triệu lao động
trung quốc lao động kiệt sức
mà không được hưởng thành
quả của ḿnh, có dẫn đến bất
b́nh trong xă hội trung
quốc, làm đảo lộn các kế
hoạch bành trướng của Trung
quốc hay không?
Nói cách khác th́ giới hạn
sự nhẫn nhục chịu thiệt tḥi
của lao động trung quốc nằm
ở mức độ nào ? Khi nào th́
sự bất b́nh của lao động
trung quốc sẽ trở thành một
cuộc cách mạng ?
Trả lời câu hỏi này, ta phải
trở lại lịch sử Trung quốc .
Các chế độ phong kiến Trung
quốc đều dùng h́nh phạt thảm
khốc để duy tŕ chữ "sợ" mà
thống trị dân chúng .Như chu
di cửu tộc ...Chính phủ cộng
sản Trung quốc cũng không
ngoại lệ . Vụ đói nhân tạo
do các chính sách sai lầm
của Mao về kinh tế đă làm
gần 40 triệu người trung
quốc chết đói từ 1953-1957.
Sau đó là tem phiếu với khẩu
phần dành cho súc vật. Rồi
sáo trôn xă hội trong Cách
mạng văn hóa vô sản. Rồi xe
tăng tiến vào Thiên an môn
6/1989.
Tất cả các sự kiện này đă đè
đầu người lao động trung
quốc xuống hàng nô lê hiện
đại bởi chữ "sợ". Họ thần
phục các ư chỉ của Đảng cộng
sản Trung quốc.
Cũng c̣n một lư do quan
trọng nữa là các lănh đạo
cao cấp nhất của Trung quốc
c̣n trong sạch. Tham nhũng
chưa đến gần được họ.
Việc đảng trị tất nhiên sẽ
đưa đến tham nhũng đại trà .
Khi tham nhũng là đa số th́
cũng là lúc:
Thượng bất chính th́ hạ tắc
loạn , như Việt nam hiện
nay.
Ngày ấy không xa đâu . Là
con người , mức chịu đựng
cám dũ của đồng tiền ,của
phái nữ ...là có giới hạn .
Hàng trăm vị vua của Trung
quốc , có bao nhiêu minh
quân?
Ngày ấy sẽ đến và Trung quốc
sẽ rơi vào rối loạn .
Lúc này là lúc Việt nam phải
thu lại Hoàng sa , Trường sa
về Tổ quốc.
T̀NH H̀NH HIỆN TẠI VÀ ĐỐI
PHÓ VỚI BÀNH TRƯỚNG TRUNG
QUỐ .
Các vụ vào sâu lănh hải Việt
nam, cắt cáp của các tầu
thăm ḍ dầu khí ngày 26/5
/11 ngày 9/6/11 là những màn
kịch mà Trung quốc cố t́nh
diễn:
1. Để thử phản ứng của chính
phủ Việt nam , nhân dân Việt
nam.
2. Để thử phản ứng của công
luận Asean, thế giới , của
Hoa kỳ.
3. Để chuẩn bị dư luận cho
hơn 1300 triệu người dân
Trung quốc h́nh ảnh Việt nam
xâm phạm chủ quyền lănh hải
Trung quốc.
Sau khi có được kết quả phép
thử , họ sẽ điều chỉnh kế
hoạch lấn chiếm Biển Đông
thích hợp hơn với t́nh huống
hiện tại.
Việt nam phải làm ǵ trong
t́nh huống này?
Trước hết , ta b́nh tâm xét
các sự kiện lịch sử liên
quan đến dân tộc Việt nam
thời cận đại.
+ Cuộc chiến tranh với Pháp
, một nước mạnh hơn Việt nam.
+ Cuộc chiến tranh với Hoa
kỳ , một nước mạnh gấp bội
Việt nam
+ Cuộc chiến tranh tây- nam,
Việt nam đưa quân sang
Cămpuchia.
+ Cuộc chiến tranh biên giới
với Trung quốc, một nước
mạnh hơn Việt nam.
Truyền thông Trung quốc đang
dựa vào dư âm những sự kiện
trên để mô tả với thế giới ,
với nhân dân trung quốc h́nh
ảnh hiếu chiến , tiểu bá của
Việt nam . Họ mô tả Trung
quốc như một nạn nhân của
Việt nam hiếu chiến .Chính
phủ Trung quốc mới đây tuyên
bố không dùng vũ lực trong
tranh chấp Biển Đông là nhằm
mục đích này .Họ không thể
không dùng bạo lực, khi bạo
lực là con át chủ bài của
Trung quốc. Có thể họ sẽ
lừa chiêu , cài bẫy để Việt
nam trúng kế.
Việt nam không nên rơi vào
bẫy này.
Làm cho nhân dân trung quốc
hiểu được thực chất sự bá
quyền của Trung quốc trong
tranh chấp Biển Đông là
nhiệm vụ quan trọng của
ngoại giao Việt nam .
Để làm việc này , Bộ ngoại
giao VN cần ban hành ngay
sách trắng về Hoàng sa ,
Trường sa . Các trang mạng
về Hoàng sa , Trường sa cần
có thêm tiếng trung quốc .
Trong tương lai gần , Trung
quốc sẽ thường xuyên khiêu
khích Việt nam như các vụ
ngày 26/5/11 và 9/6/11 vừa
qua.
Khi xẩy ra các vụ như vậy ,
cần cho phép nhân dân việt
nam biểu t́nh tự phát . Các
cuộc biểu t́nh này sẽ tăng
cường quyết tâm chống ngoại
xâm của dân tộc Việt nam .
Việc đàn áp các cuộc biểu
t́nh như vậy chỉ vạch cho
Trung quốc biết chính phủ
Việt nam sợ nhân dân Việt
nam , không có hậu thuẫn ở
nhân dân. Trung quốc sẽ lấn
tới mạnh hơn.
Khi xẩy ra các vụ xâm phạm
hiển nhiên chủ quyền lănh
thổ , lănh hải Việt nam,
chính phủ Việt nam phải bảo
vệ được chủ quyền ấy bằng
mọi phương tiện và ḷng
quyết tâm.
Chống bành trướng Trung quốc
là thách thức tồn tại hay
không tồn tại của dân tộc
Việt nam . Việc chống bành
trướng phải do một chính phủ
được nhân dân việt nam tin
tưởng, giao cho trọng trách
nặng nề này.
Chúng ta đă chờ đợi sự cải
cách của Đảng cộng sản Việt
nam hơn 20 năm nay kể từ khi
Liên-xô xụp đổ.
Chúng ta đă góp ư cho Đại
hội 11 của Đảng cộng sản
Việt nam về đa nguyên, dân
chủ với tâm huyết nồng nàn
của những người yêu nước.
Nhưng họ đă bỏ ngoài tai,
khăng khăng độc quyền lănh
đạo.
Một chính đảng chỉ là một
câu lạc bộ của một nhóm
người.
Tổ quốc là không gian sinh
tồn , văn hóa , tập tục của
nhiều dân tộc sinh sống trên
mảnh đất ấy.
Quyền lợi của đảng phái phải
đặt dưới sự sinh tồn của tổ
quốc.
Đây là giờ phút quyết định
của Đảng cộng sản Việt nam .
Đây là giờ phút quyết định
của dân tộc Việt nam.
Nguyễn Nghĩa 650
<<trở về đầu trang>>