|
Ngày nay, y theo lời dạy của Đức Từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, khắp nơi nơi, Chùa chiền, Tu viện, Thiền viện hằng năm đều trang trọng tổ chức chu toàn cho tứ chúng được hội tụ về tham dự mùa an cư, sau đại lễ Phật đản. Với trí tuệ của một bậc toàn giác, Đức Phật đă để lại kho báu quí giá vô tận, củng cố niềm tin vào chân lư bất biến và khai mở trí tuệ bát nhă cho hàng đệ tử trong các mùa an cư khi Ngài c̣n tại thế.
- Thế nào là an cư?
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn h́nh tướng của người tu bao gồm xuất gia và tại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ). Ngày xưa, chỉ có giới xuất gia - chư Tăng và chư Ni - hành pháp an cư, mỗi năm một lần, thường là vào mùa hạ, nên gọi là an cư kết hạ, hay an cư kiết hạ. Ngày nay, ở khá nhiều nơi, v́ muốn gieo duyên xuất gia thù thắng trong một thời gian hạn định, các bậc Tôn túc cho phép hàng Cư sĩ, Phật tử tại gia tham dự an cư, tập tu đời sống xuất gia, t́m hiểu học hỏi kinh Phật, nghe giảng giáo pháp, làm quen cách sống đơn giản tri túc trong thiền môn và c̣n có dịp tạo phước hộ tŕ tam bảo. Tứ chúng tùng hạ an cư đều chân thành thúc liễm thân tâm, thăng tiến giới hạnh, trưởng dưỡng từ bi, khai mở trí tuệ, cùng chung mục tiêu giác ngộ và giải thoát.
Mùa an cư giúp người tu tập xa rời sinh hoạt ồn ào của cảnh trần, an trụ một nơi, có thời gian nghiên tầm kinh điển, giúp cho mắt tai mũi lưỡi thân ư (gọi chung là sáu căn) được thanh tịnh. An cư chính là phương tiện thù thắng giúp thân được an, tâm được định, ư nghĩ lời nói việc làm đều thường tỉnh giác và luôn sống với tâm vô ngă vị tha, tâm từ bi tâm hỷ xả. Đó cũng là con đường t́m về “Kho Báu của Niềm Tin và Trí Tuệ”.
KHO BÁU CỦA NIỀM TIN
Đạo tràng an cư giúp người tu thanh tịnh tâm và là nơi câu hội của tứ chúng tu học, tụng kinh, niệm Phật, tham thiền, tŕ chú, nghe pháp, học hiểu kinh, tŕ giới luật, tham vấn luận, để phát sanh niềm tin chánh tín vào giáo lư Đức Bổn Sư Thích Ca; hiểu rơ được chân lư vô thường, sanh, lăo, bịnh, tử, đang chi phối cuộc sống con người.
- Niềm tin sâu xa nơi luật nhân quả b́nh đẳng, con người tạo nghiệp thiện, tất nhận kết quả an vui; tạo nghiệp ác tất phải tự lănh chịu hậu quả đau khổ. Nghiệp thiện hay nghiệp ác tạo tác từ thân khẩu ư. Dụ như ḥn đá nặng (nghiệp ác, tâm nặng nề) tất nhiên phải ch́m trong nước, giọt dầu nhẹ (nghiệp thiện, tâm khinh an) tất nhiên nổi trên mặt nước. Đó là nhân quả không sai, không phân biệt người nào.
- Niềm tin mănh liệt nơi chính ḿnh, nhận được bản tâm thanh tịnh vốn không sanh không diệt. Cứu cánh giải thoát sanh tử y cứ vào văn tư tu, tức là con người lắng nghe giảng chánh pháp, thực hành chánh pháp thấy có lợi lạc, tu chánh pháp dứt hết phiền năo, sạch tội nghiệp, đạt đến niết bàn tịch tĩnh.
- Niềm tin vững chắc là căn bản của sự thành công chiến thắng tự tâm, nhiếp phục vọng tâm, là nguồn gốc của muôn hạnh lành. Niềm tin sáng suốt của người tu theo Phật không cuồng nhiệt, không sôi nổi, không so đo và không bản ngă (cái tôi).
- Niềm tin chân chánh là sự tự do thật sự, không bị ép buộc, cũng không v́ động lực của ḷng tham, sân, si sai khiến. Tu và học phải song hành, từ đó phát sinh niềm tin kiên cố, phân biệt chánh tà, đúng sai rơ ràng, không c̣n rơi vào mê tín hay bị dụ dẫn.
- Niềm tin bất thoái chuyển nơi Tam Bảo là thấy được giá trị lợi ích đối với đời sống con người trong xă hội.
- Thế nào là Tam Bảo?
- Tam Bảo là ba điều quí giá, cao tột.
Tam Bảo bên ngoài là Phật Pháp Tăng.
Tam Bảo tự tâm là tâm sáng suốt, tâm chân chánh và tâm thanh tịnh.
Những điều Đức Phật dạy và những ǵ bản thân Ngài chứng đắc trong quá tŕnh tu tập và hành đạo khổ hạnh, đă để lại cho hàng đệ tử xuất gia, tại gia, con đường đi đến Niết Bàn, là sự giải thoát hoàn toàn viên măn.
- Phật: Bậc sáng suốt, giác ngộ cao tột, tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn, phước đức và trí tuệ lưỡng toàn. Phật là tự tâm sáng suốt của mỗi người.
- Pháp: Con đường chân chánh, phương pháp lợi ích rốt ráo đưa đến giải thoát sanh tử, là cứu cánh để trau giồi giá trị phẩm hạnh, đạo đức, thánh thiện. Pháp là tự tâm chân chánh của mỗi người.
- Tăng: Tăng già là tập thể thanh tịnh ḥa hợp, đời sống đơn giản trong sạch, quên ḿnh v́ lợi ích chúng sanh, cứu người giúp đời, tu hành theo Bồ Tát hạnh. Tăng là tự tâm thanh tịnh của mỗi người.
Những buổi cúng dường trai tăng, trai nghi trong mùa an cư, được tổ chức rất trang nghiêm thanh tịnh, tứ chúng đồng tu tụng niệm, hồi huớng cho gia đ́nh thí chủ và cho tất cả mọi chúng sanh trong khắp pháp giới, đời đời được gặp chánh pháp, để tiến tu cho đến ngày giác ngộ và giải thoát. Trước khi thọ thực, mọi người đều thầm niệm tam đề và ngũ quán.
Tam đề:
Một là nguyện không làm các điều ác,
Hai là nguyện siêng làm các việc lành,
Ba là nguyện độ tất cả chúng sanh.
Ngũ quán:
1. Một là nghĩ đến công sức cực khổ của thí chủ cúng dường vật thực,
2. Hai là xem xét đức hạnh có xứng đáng thọ dụng vật thực,
3. Ba là ngăn ngừa ḷng tham ăn và thói quen chê khen,
4. Bốn là xem vật thực như món thuốc trị bệnh đói,
5. Năm là tạm dùng vật thực để có sức khoẻ hành đạo.
Tam đề và ngũ quán là phương tiện chư Tổ dạy người tu nhiếp phục tâm, trước và trong khi thọ dụng vật thực cúng dường của đàn na tín thí. Điều quan trọng là giúp hành giả trên đường hành đạo luôn tinh tấn dũng mănh, cố gắng trau giồi đức hạnh, tăng trưởng ḷng từ bi, quyết tâm đạt đến Phật quả và nguyện độ tất cả chúng sanh được viên măn. Đó là “Kho Báu Của Niềm Tin” mà mọi người tu xuất gia hay tại gia đều mong đợi và tin tưởng.
KHO BÁU CỦA TRÍ TUỆ
“Nhân thân nan đắc. Diệu đạo nan cầu” - Thân người khó được. Chánh pháp khó gặp. Kiếp này đă được thân người, hội ngộ Phật Pháp, lại được gặp bạn đồng tu. Người biết cách tu không phí th́ giờ v́ những phiền năo thị phi, quyết tâm tu tiến, trừ sạch các tâm ô nhiễm ganh tỵ, đố kị, tham lam, sân hận, si mê.
“Phản quan tự kỷ” - Xoay lại xét ḿnh, không phê phán người, người tu sẽ thấy rơ thật tánh của bản thân. Thúc liễm thân tâm thanh tịnh, trau giồi giới, định, tuệ, đó là t́m về trí tuệ sáng suốt, tâm sáng suốt, c̣n gọi là Phật tánh hay Phật tâm.
Sinh hoạt tập thể là cơ hội tốt thực hành nếp sống tri túc, phát triển tâm vị tha khiêm tốn, đối trị tâm vị kỷ ngă mạn. Tứ chúng đồng tu theo Pháp Lục Ḥa, tuy có khác nhau về xuất xứ, trong hay ngoài giáo hội, nhưng tất cả đều bất tùy phân biệt, cư xử b́nh đẳng, từ vật chất đến tinh thần. Thân ḥa, tâm ḥa, vui vẻ chấp tác, hăng hái hành đường, giúp đỡ nhau công quả từ chuyện lớn nhỏ, việc nặng nhẹ, tất cả đều hiểu biết và kính quí nhau trong t́nh đạo vị của chốn thiền môn an tịnh. Mục đích đưa người tu đến chân thiện mỹ.
Pháp Lục Ḥa là sáu phương pháp cư xử ḥa hợp, thanh tịnh, trong đời sống tập thể như sau:
1. Thân ḥa đồng trú: Sống chung tập thể, ḥa thuận, đùm bọc, nhường nhịn nhau trong t́nh thân. Không ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ thế hiếp cô. Tránh việc phe phái chia rẽ.
2. Khẩu ḥa vô tranh: Sống chung tập thể, với tinh thần đồng tu, giữ ǵn lời nói ôn ḥa. Không tranh căi, tranh chấp từng câu từng lời. Luận bàn trong sự tương kính và bao dung.
3. Ư ḥa đồng duyệt: Sống chung tập thể, ư nghĩ thiện lành, vui vẻ trong sáng, thanh tịnh. Không cố ư tạo bất ḥa, đố kỵ, ganh ghét. Đặt sự tôn trọng nhau và đồng ḥa giải trên hết.
4. Giới ḥa đồng tu: Sống chung tập thể, giữ ǵn giới luật, tự giác giữ ḿnh trong kỷ luật và qui tắc. Không xét việc người, tự soi ḿnh, kính trên ḥa dưới. Giúp đạo tràng trang nghiêm tề chỉnh và qui củ.
5. Kiến ḥa đồng giải: Sống chung tập thể, sách tấn nhắc nhở, cùng nhau học hỏi trong sự b́nh đẳng. Không phân cao thấp, hay dở, khen chê, chỉ trích. D́u dắt cùng tu, cùng lợi lạc.
6. Lợi ḥa đồng quân: Sống chung tập thể, lợi dưỡng đồng chia, tài lợi vật chất đối xử công bằng. Không giành phần tốt, để người khác chịu thiệt tḥi, so đo tính toán. Chia xẻ đồng đều quân b́nh như nhau.
Con người c̣n sống là c̣n động, c̣n sinh hoạt là c̣n phiền năo. Pháp Lục Ḥa tạo được ḥa khí trong t́nh đạo vị, xóa tan phiền năo ngăn cách. Hơn vậy nữa, pháp nầy có công dụng nhắc nhở sự b́nh đẳng trong tăng đoàn, dùng đức phục chúng, người tu trước biết thương yêu lo lắng người tu sau. Kỷ luật tự giác, thời khóa đúng giờ, tinh tấn khắc phục giải đăi, tăng niềm tự tin trong cuộc sống. Đó là “Kho Báu Của Trí Tuệ” ngàn năm vô cùng trân quí không bao giờ mất.
LỢI ÍCH CỦA AN CƯ
Những tháng ngày an cư, thật sự buông bỏ những lo âu phiền muộn, tứ chúng đồng tu có thêm niềm tin chánh tín và trí tuệ sáng suốt, giữ ǵn truyền bá chánh pháp mạnh mẽ lợi lạc rất nhiều. Giá trị ánh sáng của Phật Pháp được duy tŕ, đạo Phật càng phát triển sâu rộng, niềm hạnh phúc an lạc lan tỏa khắp nhân gian không thể nghĩ bàn.
Trong thời gian mùa an cư, mỗi buổi sáng, tứ chúng thức dậy thật sớm, trước thời khóa tụng kinh Lăng Nghiêm có 30 phút tịnh tâm, thiền định, mọi người trong chúng từng bước nhẹ nhàng ngồi vào chỗ của ḿnh, xếp chân với tư thế hoa sen, yên lặng thiền tọa, niệm Phật, tŕ chú trong yên lặng. Trong khung cảnh trang nghiêm thanh tịnh, không tạp niệm, buông bỏ phiền năo, không nói chuyện, không niệm Phật ra tiếng, cũng không lễ lạy. Thời khắc đó mọi người thấy rằng, nếp sống thanh tịnh của người tu cần thiết và lợi lạc vô cùng.
Những thời khóa tụng kinh như nhắc lại lời Phật dạy, tiếp thu Phật Pháp. Trong lời giảng chư Tôn đức giúp mở mang trí tuệ, sinh hoạt đối xử nhau đầy đạo t́nh đạo vị giúp cho tứ chúng đồng tu niềm tin sâu xa nơi Tam bảo. Nhờ có những mùa an cư lợi lạc, người tu mới hiểu biết cách tu đúng chánh pháp, trang nghiêm giới hạnh và đi đúng theo con đường Phật dạy để đạt đến cứu cánh Niết Bàn. Đó là phước báu của kiếp được làm thân người lại được sống trong giới pháp của Chư Phật.
Tứ chúng xuất gia và tại gia thành tâm đảnh lễ, cung kính tri ân Chư Tôn Thiền Đức tổ chức những mùa an cư hằng năm, đem tâm từ bi hỷ xả cao thượng trao truyền ngọn đuốc Phật Pháp vi diệu. Các Ngài đă tạo duyên lành cho hàng Phật tử xuất gia và tại gia chúng con được học hiểu sự lợi ích thực tế của công đức và phước đức, có thể áp dụng vào cuộc sống hằng ngày nơi trụ xứ. Ngưỡng nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ chánh pháp trường tồn, chúng sanh dị độ.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN. Thích Nữ Chân Liễu (Canada, Mùa An Cư 2011)
SAT (4.6.2011)
<<trở về đầu trang>>