Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
May mà Việt Nam c̣n có Sài G̣n!
Trần Tiến Dũng
“Chỉ cần vô Sài G̣n, có một cái bơm xe, ngồi ở vỉa hè SG cũng sống được, cũng thoát khổ mà tính chuyện khởi nghiệp.”… Và từ những năm đen tối nhất của lịch sử cho đến thời tạm dễ thở, không một nơi chốn nào của đất nước này được hàng triệu triệu người Việt đồng tâm tin rằng: May mà VN c̣n có Sài G̣n!…
Người Sài G̣n từ thời hộ khẩu đến kinh tế thị trường
Khi có ư đi t́m người Sài G̣n, không hiểu sao khi chưa ra khỏi nhà tôi đă biết có đi phỏng vấn đến tết Congo cũng không ai người Sài G̣n tự nhận ḿnh là người Sài G̣n gốc 3 đời hoặc mấy chục đời cả. Chắc rằng mọi người sẽ hỏi lại tôi, sao hỏi chi cái chuyện tào lao, tầm phào hết sức vậy cha nội, kiếm sống được ở Sài G̣n, là người Sài G̣n rồi.
Thật ra trên khắp thế giới, phần căn cước của một người ít ai phân biệt dân tỉnh lẻ hay dân thủ đô và đó là văn minh dân quyền căn bản nhất. Riêng ở Việt Nam th́ khác. Dưới chế độ cộng sản, việc phân biệt dân thủ đô, dân thành phố lớn hay dân tỉnh lẻ, nông thôn, dân kinh tế mới,… là chuyện căn bản. Ai cũng biết sự phân biệt đối xử của chế độ hộ khẩu là khắc nghiệt, vấn nạn đó lâu ngày tạo nên cả một gói “tự hào” về địa vị chính trị, kinh tế, văn hóa… dành cho dân có hộ khẩu thủ đô, thành phố trước phần dân cư c̣n lại của cả nước.
Khi nền kinh tế mở cửa, dù chế độ hộ khẩu vẫn không thay đổi nhưng những yếu tố kinh tế thị trường tư bản đă phá vỡ toàn bộ những công dụng chuyên chế của chế độ hộ khẩu. Theo nhu cầu mưu sinh và nhu cầu nhân lực của kinh tế thị trường, dân tỉnh lẻ, nông thôn tràn về đô thị bất chấp chuyện họ sống đời không hộ khẩu hoặc chỉ có cái gọi là chứng nhận KT3 (một loại giấy tạm trú).
Theo thời gian, đội quân nhập cư tăng theo cấp số nhân và cả người nhập cư thành đạt, người kiếm sống qua ngày trở thành nguồn dân số bá chủ. Chính nguồn dân số và chất lượng dân số bùng nổ này đă dồn những ai tự huyễn hoặc cho ḿnh dân thủ đô gốc, dân thành phố cố cựu vào hội chứng yếu đề kháng, trở thành những kẻ thất bại.
Nếu ai c̣n tự cho ḿnh là dân Hà Nội gốc, thật ra đó là lối nghĩ của dân được bảo hộ bởi chế độ hộ khẩu thiếu dân quyền. Họ có thể trưng ra lư do là ông bà cha mẹ sống ở Hà Nội trước chế độ cộng sản và họ thừa kế cái gốc người Hà Nội. Cơ sở lư lẽ này là không minh bạch, v́ trong lịch sử cận đại Việt Nam, theo t́m hiểu, trước thời cộng sản nắm quyền không có chuyện độc đoán khoanh tṛn mực đỏ dân Hà Nội điểm tối ưu, và phần dân c̣n lại chỉ có điểm trung b́nh kém.
Tượng Đức Thánh Trần Hưng Đạo, một trong số những biểu tượng của Sài G̣n. |
Người Hà Nội trước thời cộng sản đủ khỏe mạnh tinh thần và trí thức để rộng tay đón nhận tất cả các nguồn dân cư như đón nhận ḍng máu mới, cũng như đủ ứng xử văn minh để biết rằng cực đoan địa phương tính là ngớ ngẩn. Chuyện dân thủ đô được tôn trọng kính nể… đó là do phẩm chất người, chất lượng từ những công việc phục vụ cộng đồng, quốc gia và được cộng đồng xác nhận trong chuẩn giá trị văn hóa chung, chứ không phải một dạng đặc quyền đặc lợi do một thể chế độc tài chỉ đạo.
Người Hà Nội đủ văn hóa để nh́n thấu rằng hiện trạng hư hỏng của xă hội Việt Nam đều có nguyên nhân do thiếu nhân quyền. Cả dân tộc, không phân biệt bất kỳ ai, vùng miền nào đều phải gánh chịu hiện trạng xă hội hư hỏng tệ hại này.
Một giáo sư sinh ra ở Hà Nội di cư vào Nam muốn giấu tên đă nói thật với chúng tôi rằng: “Chỉ thời đại này mới có kiểu tự tôn bệnh hoạn địa phương thượng đẳng.”
Sài G̣n, nay vẫn c̣n đó những xóm nhà ven kênh rạch nghèo xơ xác. |
Dân hào hiệp và dân nhập cư
Mỗi tháng tôi đều đến một tiệm hớt tóc của một ông chủ trẻ trên đường Hồ Bá Kiện. Tuổi chưa đến bốn mươi, anh có tổng cộng ba tiệm hớt tóc. Lần này anh mời tôi hớt tóc, lấy ráy tai, ở một tiệm mới khai trương. Cô gái lấy ráy tai cho tôi nói: “Ổng vài bữa nữa là sắm thêm xe hơi.”
Tôi hỏi thẳng ông chủ tiệm là anh có mấy chiếc xe hơi rồi, anh chàng nói giọng miền Nam lơ lớ: “Tính mua thêm một chiếc nữa là bốn. Xe tôi mua cho cơ quan công ty thuê, họp đồng tính theo năm.”
Rồi anh kể: “Năm 1980, anh từ Huế vô Sài G̣n làm phụ hồ, khổ trơ xương, ba năm không biết mùi bún ḅ, ḿ quảng là ǵ.” Tôi hỏi anh: “Anh thấy người Sài G̣n thế nào?” Mặt anh ngạc nhiên như người từ sao Hỏa xuống: “Rứa, lúc mới vào tôi cũng có nghĩ người trong này ăn ngon, chơi bạo khác người quê tôi, nhưng chỉ ở vài tháng là tôi thấy chỉ người có tiền là khác.”
Cái anh chàng chủ tiệm hớt tóc này cũng như hàng triệu người từ nhiều thế hệ đă nh́n thấy Sài G̣n là một nơi kiếm sống, kiềm tiền làm giàu. Đối với mọi người Việt Nam, tính cả dân thủ đô Hà Nội, Sài G̣n là vùng đất hứa, là một kiểu giấc mơ Mỹ của người Việt Nam.
Một trí thức người Bắc di cư kết luận: “Sài G̣n là đất Phật.” Nhiều người bạn ông bàn thêm: “Giá trị rơ nhất của đất Phật trước tiên đây là nơi chốn b́nh yên, b́nh yên cả trong chiến tranh, thiên tai và những vấn nạn đáng sợ khác có nguyên nhân từ con người. Sài G̣n không có chuyện phân biệt đối xử vùng miền, văn hóa và chủng tộc…”
Nhà báo TG. có lần nói: “Chỉ cần vô Sài G̣n, có một cái bơm xe, ngồi ở vỉa hè Sài G̣n cũng sống được, cũng thoát khổ mà tính chuyện khởi nghiệp.” Họa sĩ TC, có lần kể: “Trước 1975, thi sĩ Nguyễn Đức Sơn và cố nhà văn Nguyễn Thụy Long có thời ăn cơm cháy, uống trà đá, ngồi xỉa răng ở một quán cơm xă hội.”
Mỗi người, trong hàng triệu người từ nhiều thế hệ đều có riêng cho ḿnh những kỷ niệm sâu sắc về sự rộng ḷng của đất và người Sài G̣n. Có người c̣n nói nửa đùa nửa thật rằng, nếu ai có chí, dám đứng le lưỡi cho người ta dán tem ở bưu điện thành phố chắc chắn không thiếu khách hàng.
|
Người Sài G̣n hôm nay vẫn c̣n thói quen hóng gió trên bến Bạch Đằng. |
Nhưng Sài G̣n cũng có bất công. Điều bất công này không phải do Sài G̣n gây ra mà chính là do không ít người đến với Sài G̣n gây ra. Có thể thông cảm hiện trạng lúc nào họ cũng thương nhớ ca ngợi nguyên quán xuất thân của họ. Và Sài G̣n cũng dễ quên không chấp khi có những người nhập cư thành đạt, nên cơ nghiệp, chỉ nhận họ là người thành phố này, tỉnh nọ.
Sài G̣n không hề chỉ là Sài G̣n của nơi kiếm tiền, chỉ là một nơi tạm trú, bởi đa phần người nhập cư đă hoặc sẽ có khoảng đời sống ở thành phố này dài hơn so với lúc họ sống ở nguyên quán sinh ra. Hăy đến các nghĩa trang, các chùa có để cốt mà xem, hàng triệu người tứ xứ thuộc nhiều thế hệ đă chọn gởi lại cho Sài G̣n nắm xương tàn.
Nhưng người Sài G̣n anh là ai? Có người nói ngày nay muốn t́m người Sài G̣n th́ qua tiểu bang Cali ở Mỹ hoặc các cộng đồng người Việt lưu vong trên khắp thế giới. Nhưng chúng tôi vẫn muốn t́m người Sài G̣n ở Sài G̣n.
Một cô bạn của chúng tôi sinh ra ở một nhà bảo sanh trên đường G̣ Công quận 6, có ông bà nội là người Minh Hương, ông bà ngoại là dân sanh ra ở bến Mễ Cốc quận 8. Cô nói: “Nếu muốn biết ai là người Sài G̣n th́ chỉ cần nh́n cách họ đón tiếp đối xử với bà con cô bác ở quê lên thăm hoặc lên kiếm việc làm. Bà ngoại tôi mỗi lần gặp bà con là mừng lắm, tấm ḷng của người tha hương mà. Ai cũng có họ hàng dây mơ rễ má, chớ có phải ở đất nẻ chui lên đâu.”
Theo một ông già từng là lính VNCH, nay chạy xe ôm ở quận Tân B́nh, “đất Sài G̣n trước tiên là đất của những tay hảo hớn, bởi chỉ có những người mạnh mẽ từ tâm hồn đến thể xác mới quyết định bỏ xứ ra đi đến đất mới, cũng chính họ mở đường cho con cháu mưu cầu sự sống mới và tự do. Tánh hảo hớn và phóng khoáng là máu huyết căn cơ của người Sài G̣n.”
Ở góc đường Cao Thắng và Phan Thanh Giản cũ (nay là Điện Biên Phủ) có một cái miếu lớn gọi là Thành Hoàng Bổn Cảnh. Nơi đây hàng ngày hàng đêm vẫn nghi ngút hương khói tưởng nhớ những vong linh của tướng quân Lê Văn Khôi (con nuôi Tả quân Lê văn Duyệt) và các nghĩa binh bị xử chém, vùi xác ở quanh khu Kỳ Ḥa, thành Gia Định dưới thời vua Minh Mạng. Một nhà nghiên cứu lịch sử miền Nam có lần nói với tôi: “Không rơ lắm những nghĩa quân này có phải là người Sài G̣n không, nhưng tôi tin chắc khi họ chết, anh linh họ là người Sài G̣n.”
Và sẽ không t́m thấy một người Sài G̣n nào nếu tiếp tục nh́n lịch sử theo lối độc quyền và thiển cận. Người Sài G̣n chỉ có một khi lịch sử được minh bạch rằng, người Sài G̣n hôm nay chính là những người nhận được cơ hội từ những người từng đến, sống và chết từ Sài G̣n-Gia Định trong xuyên suốt các triều đại phong kiến, những anh linh tử sĩ VNCH, những vong linh người vượt biển v́ tự do và cả những nạn nhân khác của bóng tối lịch sử.
Chỉ từ cách nh́n nhận này mới sáng rơ đúng nghĩa tánh hảo hớn-hào hiệp v́ tự do và công bằng của người Sài G̣n.
Ngồi quán cà phê, một thói quen của người Sài G̣n. |
May mà c̣n có Sài G̣n
Gia đ́nh bên ngoại tôi có một người anh họ, anh tên là Ba V. Trước 1975 anh là lính sư đoàn 7 Bộ Binh VNCH đồn trú ở G̣ Công. Quê anh ở ở một xă heo hút dù không xa Sài G̣n nhưng rất nghèo… Sau biến cố 1975, anh và gia đ́nh càng lâm cảnh nghèo tệ hại hơn. Sài G̣n với anh là một thiên đường tại thế, có lần anh nói với tôi: “Tao phục mày quá, sống được ở Sài G̣n ngon thấy mẹ.” Lời anh đơn giản nhưng chí lư, người Sài G̣n thời nào cũng rất bảnh trong cách nh́n của người địa phương khác.
Có người sẽ phản bác tôi rằng, người Sài G̣n ngày nay không c̣n sang trọng nữa. Nhưng trường hợp gia đ́nh anh họ tôi th́ lại đồng ư với tôi. Sau 1975 cả bảy đứa con của anh họ tôi đều không đủ ăn đến xanh mặt. Khi Sài G̣n vào thời kinh tế thị trường cả năm đứa con trai, con gái của anh đều trở thành người Sài G̣n, anh chỉ giữ lại được đứa con gái và đứa con trai út làm người G̣ Công cày cấy trên nửa mẫu ruộng hương hỏa. Điều đáng nói là những người con Sài G̣n của anh, dù chỉ làm thợ hồ và nấu bếp ở Sài G̣n nhưng đă đem lại một cuộc cách mạng kinh tế, lối sống văn minh cho cả gia đ́nh anh. Chất nông dân cố cựu của anh không c̣n như trước, ở anh ngày càng rơ ra cái chất thị dân Sài G̣n do con anh truyền bá.
Có hàng triệu gia đ́nh ở Việt Nam hôm nay giống như anh, người ta không thể thống kê hết những thay đổi theo kiểu Sài G̣n. Nhưng có một điều người ta chắc chắn là văn hóa thị dân Sài G̣n h́nh thành từ tinh hoa thể chế thực dân và ánh sáng của nền dân chủ tự do Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa, ánh sáng này đủ mạnh để dung chứa mọi cách sống và để truyền bá những điều tốt đẹp.
Tôi có dịp nói chuyện với cô gái người Hà Nội, cô vào Sài G̣n làm nghề báo. Tôi không biết cô có phải là người Hà Nội gốc hay không, cô nói: “Khi mắng cái dân thiếu văn minh ngoài đấy, em có Sài G̣n để chứng minh là trong này người ta không ai làm việc xấu hổ thế.”
Tất nhiên, không có vùng rộng của lối sống văn minh nào lại không có mặt tệ nạn, nhưng cộng đồng thị dân Sài G̣n không có kiểu hí hởn cả tập thể hùa nhau hái hoa Anh Đào của Nhật Bản triển lăm về làm của riêng, cũng không có những vấn nạn không thể tưởng tượng được như chiếm thang máy chung cư, cho thang máy chạy lên chạy xuống liên tục để vỗ con và đút cơm cho con ḿnh ăn ngon miệng.
Và không có cái kiểu nghĩ và hành xử như một cô ca sĩ trẻ mà tôi quen. Cô này từ Hà Nội vào Sài G̣n t́m cơ hội thành “sao.” Trong thời điểm Hà Đông có quyết định sáp nhập vào Hà Nội, cô luôn miệng tục tằn gay gắt với những người “đời đời kiếp kiếp” cô không nhận là người Hà Nội, dù hàng ngày đang cùng thở, cùng sống ở không gian Hà Nội mở rộng với cô.
Chính từ những cách nh́n kỳ thị kiểu này đă xác lập một thứ ranh giới mà ở đó người ta tự cho Hà Nội như ḿnh đây là tốt đẹp, phần c̣n lại là tệ hại v́ không phải là Hà Nội. Có ǵ đáng buồn cười và xấu hổ cho bằng kiểu kỳ thị “địa phương thượng đẳng” đó. Và chính đó mới là mầm mống, là nguyên nhân của vô số vấn nạn xă hội.
Vấn đề không phải Sài G̣n không có người nhập cư quê mùa kém cỏi, nhưng cái chính là văn minh Sài G̣n đủ mạnh để hướng mọi người đến phẩm chất tôn trọng lợi ích cộng đồng và tự trọng trong lối sống cá nhân.
Ở phạm vị rộng hơn, nhiều bậc thức giả chiêm nghiệm rằng, không phải năm 1975 “giải phóng Sài G̣n” mà chính là biến cố đó đem đến cơ hội giải phóng toàn diện xă hội miền Bắc.
Hơn ba mươi năm qua, những ai công tâm sẽ nh́n thấy những ḍng người không thể thống kê hết từ miền Bắc vào Sài G̣n để mưu cầu cuộc sống tốt hơn, qua từng cá nhân, họ hàng, thôn làng vào Sài G̣n vào miền Nam rồi về thăm quê đă đưa về, đă truyền bá lối sống văn minh vật chất và tinh thần Sài G̣n.
Bạn tôi, nhà thơ, là một người Hà Nội sang trọng, anh vào và chọn Sài G̣n để sống và cũng có thể coi anh là người tị nạn văn hóa ở Sài G̣n. Anh có những kỷ niệm vui buồn sâu sắc dành cho Hà Nội, nên mỗi lần về quê trở vào là anh nói: “Ḿnh đặt chân xuống phi trường Tân Sơn Nhất là thấy nhẹ người.” Tất nhiên cũng trùng hợp, người biết và chia sẻ tâm trạng “nhẹ người” này là những Việt kiều lưu vong mỗi khi rời Việt Nam bay trở lại đất nước bao dung ḿnh.
Và từ những năm đen tối nhất của lịch sử cho đến thời tạm dễ thở, không một nơi chốn nào của đất nước này được hàng triệu triệu người Việt đồng tâm tin rằng: May mà Việt Nam c̣n có Sài G̣n!