Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
35 năm sau ngày 30-4-1975 Vài khẳng định cần thiết
Những ǵ đă xảy ra đều
có nguyên do. Nhưng vấn
đề là lư do nào, lư do
vững chắc và chính đáng
hay chỉ là hậu quả của
sự mù quáng vụng dại.
Trong cách suy tư đó
nhân dịp kỷ niệm 35 năm
biến cố 30-4-1975, ta có
thể đặt câu hỏi tại sao
đă có cuộc chiến
1945-1975 và tại sao nó
đă kết thúc như thế?
Ngày nay, ngoài một số
người ngụy biện hoặc có
vấn đề tâm thần, c̣n ai
nghĩ rằng cuộc chiến 30
năm 1945-1975 là cần
thiết và có lợi cho Việt
Nam? Nó đă tàn phá đất
nước, làm chết năm triệu
người, gây một số thương
tật lớn hơn nhiều, để
lại những đổ vỡ t́nh cảm
giữa người Việt không
thể hàn gắn trong một
hai thế hệ và áp đặt một
trong những chế độ độc
tài bạo ngược và tham
nhũng nhất thế giới, với
hậu quả là từ một trong
những nước nhiều triển
vọng vươn lên nhất Việt
Nam trở thành một trong
những nước tụt hậu nhất
vùng Đông Nam Á. Và
người Việt Nam vẫn chưa
được sống như những con
người tự do.
Lư do được đảng cộng sản
đưa ra để biện minh cho
cuộc chiến này là để có
độc lập và thống nhất.
Nhưng tại sao các nước
khác không cần có chiến
tranh mà đă được độc lập
và thống nhất sớm hơn
chúng ta trong những
điều kiện thuận lợi hơn
hẳn? Chúng ta đă trả giá
rất đắt để có được một
số phận bi đát. Dứt
khoát là đă có một cái
ǵ đó rất không b́nh
thường.
Lấy quan điểm dân tộc mà
nh́n lại th́ cuộc chiến
1945 – 1954, mà đảng
cộng sản gọi là cuộc
chiến tranh chống Pháp,
đă là một sai lầm. Chế
độ thuộc địa phải cáo
chung như là một hậu quả
của bối cảnh thế giới
sau Thế Chiến II. Dĩ
nhiên là người Pháp
không ân cần trao trả
lại độc lập. Họ tham lam
và ngoan cố. Nhưng họ
cũng không thể cưỡng lại
được cả một trào lưu đă
chín muồi ngay cả tại
chính nước Pháp. Vả lại
chính họ cũng đă nhanh
chóng nh́n nhận trên
nguyên tắc chủ quyền của
một nước Việt Nam độc
lập, qua hiệp uớc sơ bộ
với Hồ Chí Minh ngày
6-3-1946, rồi thỏa uớc
Hạ Long với Bảo Đại ngày
5-6-1948. Họ chỉ có thể
dùng dằng để bảo vệ tối
đa quyền lợi và ảnh
hưởng. Chúng ta vẫn phải
tranh đấu để có độc lập
trong thời gian ngắn
nhất và trong những điểu
kiện thuận lợi nhất,
nhưng đàng nào th́ kết
thúc của cuộc đấu tranh
đă biết trước và chiến
tranh giải phóng là điều
không cần thiết, như các
nước cùng hoàn cảnh với
chúng ta đă chứng tỏ.
Cuộc tranh luận xem cuộc
chiến này có cần thiết
hay không thực ra là một
cuộc tranh luận vô duyên,
lạc đề, và hơn thế nữa
bất lương, bởi v́ cuộc
chiến này không hề là
một nhận định sai lầm về
quyền lợi quốc gia trong
bối cảnh quốc tế lúc đó.
Mọi người đều biết nó
không cần thiết và hơn
nữa c̣n là một thảm kịch
cho đất nước nhưng nó đă
diễn ra v́ độc lập không
phải là mục tiêu của
đảng cộng sản, lực lượng
áp đảo lúc đó. Độc lập
chỉ là một biện minh,
mục tiêu thực sự của
đảng cộng sản là áp đặt
chế độ cộng sản. Mục
tiêu này không chấp nhận
được cho nhiều người
Việt Nam và cũng là một
thách thức đối với khối
dân chủ tư bản, do đó
chiến tranh là điều
không tránh khỏi. Ngày
nay, khi chủ nghĩa cộng
sản đă hiện nguyên h́nh
như một sai lầm đẫm máu,
và hơn thế nữa một chủ
nghĩa tội ác về bản chất,
cuộc chiến này phải bị
lên án, ít nhất như một
sự cuồng dại.
Phải nói thật rơ: đại
bộ phận những người đă
chiến đấu dưới lá cờ đỏ
sao vàng trong cuộc
chiến này đă chiến đấu
v́ ḷng yêu nước, họ
phải được tôn vinh,
những người phải bị lên
án là những người đă
quyết định cuộc chiến
này. Họ đă hành động v́
chủ nghĩa cộng sản, độc
lập dân tộc và quyền lợi
đất nước không phải là
động cơ của họ. Đó đă là
lư do khiến họ tàn sát
thẳng tay các đảng viên
Việt Nam Quốc Dân Đảng
mà họ thừa biết là rất
yêu nước.
Cuộc chiến 1954-1975, mà
đảng cộng sản gọi là
cuộc chiến tranh chống
Mỹ lại càng vô lư hơn.
Đứng trên quan điểm dân
tộc, nó là một sự ngu
xuẩn tuyệt đối. Mỹ hoàn
toàn không phải là một
đế quốc thực dân, trái
lại c̣n là một cường
quốc chống chủ nghĩa
thực dân. Từ ngày lập
quốc họ chưa hề đánh
chiếm để sáp nhập hay
thống trị một nước nào.
Mỹ là một cường quốc
không gian, hàng hải và
thương mại, cần thị
trường chứ không cần
thuộc địa. Cho tới nay
họ vẫn từ chối sáp nhập
Porto Rico dù không ai,
kể cả người Porto Rico,
chống lại; họ trả độc
lập cho Philippines sau
khi mua lại quần đảo này
từ Espana. Sự hiện diện
của Mỹ tại Việt Nam đáng
lẽ đă phải được coi là
một may mắn lớn, nó đem
lại cho chúng ta sự hợp
tác tận t́nh của cường
quốc mạnh nhất, giàu
nhất, tân tiến nhất và
sáng tạo nhất thế giới
mà không hề có nguy cơ
mất nước.
Cuộc chiến này đă chỉ
xảy ra v́ quyền lợi dân
tộc không phải là ưu tư
của đảng cộng sản. Ưu tư
của họ là áp đặt chế độ
cộng sản trên cả nước.
Thống nhất đất nước chỉ
là một lư cớ và một
chiêu bài, như độc lập
dân tộc đă chỉ là một lư
cớ và một chiêu bài cho
giai đoạn chiến tranh
1945 – 1954. Cái trở
thành của đất nước hầu
như không có một tầm
quan trọng nào so với
mục tiêu cộng sản hóa
miền Nam. Ông Hồ Chí
Minh từng nói sông có
thể cạn, núi có thể ṃn,
nhiều thành phố có thể
bị tiêu hủy nhưng quyết
tâm thống nhất dưới chế
độ cộng sản không thể
lay chuyển. Nhiều cấp
lănh đạo cộng sản khác
c̣n sẵn sàng chấp nhận
đốt sạch dăy Trường Sơn.
Nếu quyền lợi dân tộc
c̣n có một tầm quan
trọng nào đó th́ người
ta không thể lư luận như
thế. Đất nước phải về
tay chúng tôi hoặc sẽ
tan tành không bao giờ
là một lập trường yêu
nước. Vả lại mục tiêu
cộng sản hóa đă được
chứng tỏ một cách rất
thẳng thừng ngay sau
chiến thắng: Đảng Lao
Động được đổi tên thành
Đảng Cộng Sản Việt Nam,
nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Ḥa được đổi tên
thành Cộng Hoà Xă Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam, miền
Nam bị đối xử như một
vùng đất chiếm đóng.
“Cần nhấn mạnh là ngay
trong nền tảng triết lư
của nó, chủ nghĩa
Mác-Lênin không bao giờ
coi nội chiến là một
điều nên tránh và cũng
không bao giờ do dự khi
có thể sử dụng bạo lực.
Cả Marx lẫn Lenin, đặc
biệt là Lenin, đều coi
nội chiến như là một bắt
buộc.”
Một điểm rất quan trọng
cần được nhấn mạnh để
đánh tan một lần cho tất
cả mọi ngộ nhận. Sau
ngày 30-4-1975 không ai,
dù đă có chọn lựa nào
trong cuộc chiến, c̣n
phủ nhận sự vinh quang
và vai tṛ lănh đạo của
đảng cộng sản. Mọi người
miền Nam đều cùng một ư
nghĩ là cho dù cuộc
chiến này có vô lư đến
đâu đi nữa nó cũng đă
kết thúc, nó đă kéo dài
quá lâu, đă tàn phá quá
nhiều và đă đến lúc phải
bắt tay nhau xây dựng
lại đất nước. Đó là thời
điểm lư tưởng để thực
hiện ḥa giải và ḥa hợp
dân tộc. Đó cũng là t́nh
trạng lư tưởng cho đảng
cộng sản. Họ tuyệt đối
không có đối thủ. Chế độ
Việt Nam Cộng Ḥa đă
hoàn toàn sụp đổ và
không để lại một chính
đảng nào. Ngay cả nếu có
tự do chính trị th́ cũng
phải ít nhất vài thập
niên mới có thể h́nh
thành nổi một chính đảng
đủ tầm vóc để cạnh tranh
với đảng cộng sản. Đảng
cộng sản có thừa thời
giờ để sửa chữa những
vấp váp không tránh khỏi
lúc ban đầu và lănh đạo
đất nước trong một thời
gian rất lâu với tất cả
sự chính đáng.
Nhưng chính quyền cộng
sản đă “tập trung cải
tạo” toàn bộ các sĩ quan
và viên chức có một vai
tṛ điều khiển nào đó
của của chính quyền Việt
Nam Cộng Ḥa, kể cả các
sĩ quan biệt phái, nghĩa
là những người đă học
hết trung học và đă từng
bị động viên nhưng đă
rời quân ngũ. Tư cách
“sĩ quan biệt phái” chỉ
có mục đích duy tŕ một
khả năng lư thuyết là
chính quyền có thể gọi
họ trở lại quân đội khi
cần, một khả năng mà
chính quyền Sài G̣n đă
không dùng tới ngay cả
lúc bị tấn công dữ dội
và sắp sụp đổ. Hầu như
tất cả những người miền
Nam đă học hết trung học
và có sức khỏe b́nh
thường nếu không là sĩ
quan th́ cũng là sĩ quan
biệt phái.
Nhiều người giải thích
một cách hời hợt rằng
đảng cộng sản không hiểu
t́nh trạng miền Nam.
Nhưng làm sao họ có thể
không hiểu? Họ đă gài
được hàng trăm, hàng
ngàn người vào guồng máy
hành chính và quân đội
Việt Nam Cộng Ḥa, có
người làm phụ tá tổng
thống, có người lên đến
cấp tướng, cán bộ nằm
vùng thuộc diện sĩ quan
biệt phái nhan nhản. Họ
biết hết. Vấn đề là họ
muốn tiêu diệt sinh lực
của miền Nam để có thể
áp đặt chế độ cộng sản
mà không bị chống đối.
Họ đă đạt mục tiêu.
Những năm dài tù tội
nghiệt ngă không biết
ngày nào ra cùng với sự
xỉ nhục hàng ngày và sự
xót thương cho vợ con
đang đói khổ trong một
xă hội suy sụp đă bẻ gẫy
hầu hết các nạn nhân.
Ngay cả những người sau
này ra được nước ngoài
cũng không thể trở lại
b́nh thường. Cả một thế
hệ ưu tú của miền Nam –
cũng là thành phần có
kiến thức nhất của cả
nước v́ cho tới 1975 cố
gắng của miền Bắc chỉ
tập trung vào chiến
tranh – bị hy sinh trên
bàn thờ chủ nghĩa
Mác-Lênin. Đó là một
chính sách diệt chủng
kiểu mới, không tiêu
diệt thân xác nhưng hủy
hoại đầu óc và ư chí.
Ngày nay, 35 năm sau
cuộc chiến, nếu có một
điều phải khẳng định dứt
khoát th́ đó là cuộc
chiến 1945-1975, đặc
biệt là giai đoạn
1954-1975 đă là một cuộc
nội chiến, một cuộc nội
chiến khốc liệt với
những tàn hại kinh khủng
và lâu dài cho đất nước.
Nó phải bị lên án như
một tội ác hay ít nhất
như một sự điên dại. Cần
nhấn mạnh là ngay trong
nền tảng triết lư của nó,
chủ nghĩa Mác-Lênin
không bao giờ coi nội
chiến là một điều nên
tránh và cũng không bao
giờ do dự khi có thể sử
dụng bạo lực. Cả Marx
lẫn Lenin, đặc biệt là
Lenin, đều coi nội chiến
như là một bắt buộc.
Những ai chưa tin điều
này chỉ cần đọc lại
Lenin, ông ta đă nhắc
lại rất nhiều lần rằng
“nội chiến là sự tiếp
nối, phát triển và tăng
cường độ tự nhiên của
đấu tranh giai cấp”.
Cũng không thể dựa vào
sự can thiệp của Mỹ để
biện luận rằng đó là một
cuộc chiến chống xâm
lăng. Quyết định chiến
tranh của đảng cộng sản
đă có rất lâu trước khi
Mỹ can thiệp và cũng
không phải chỉ có miền
Nam dựa vào nước ngoài.
Cuốn sách “Năm đường ṃn
Hồ Chí Minh” vừa xuất
bản gần đây tại Hà Nội,
trích dẫn một sưu tập
của đại tá Trần Tiến
Hoạt, cho biết Hà Nội đă
nhận một lượng viện trợ
quân sự rất lớn từ khối
cộng sản (1). Binh sĩ
Liên Xô và Trung Quốc tử
trận tại Việt Nam cũng
không ít, một số vẫn c̣n
được chôn cất ngay tại
Việt Nam tại các nghĩa
trang dành riêng cho họ.
Nói như thế không có
nghĩa là chế độ Việt Nam
Cộng Ḥa đă có chính
nghĩa. Chính quyền Quốc
Gia Việt Nam, sau này
trở thành Việt Nam Cộng
Ḥa, đă được thành lập
như là sự tiếp nối của
chế độ Pháp thuộc trên
một chiến hạm Pháp ở
ngoài khơi vịnh Hạ Long,
do một sự dàn xếp giữa
người Pháp và một số
cộng sự viên của Pháp
đứng đầu là Bảo Đại, vị
vua trác táng và bất
xứng nhất của triều
Nguyễn đă thoái vị và
trao quyền cho đảng cộng
sản.
Trong suốt thời gian tồn
tại của các chính quyền
quốc gia yêu nước, quan
tâm chính trị và tinh
thần dân tộc không bao
giờ được coi là những
yếu tố tuyển chọn và
thăng tiến, trái lại c̣n
có thể là lư do để bị
ngờ vực và trù dập. Trừ
một vài ngoại lệ không
đáng kể, quyền hành luôn
luôn ở trong tay những
người đă từng cộng tác
với Pháp để chống lại
cuộc đấu tranh giành độc
lập hoặc con cháu họ và
một số ít ỏi đă hội nhập
và chấp nhận luật chơi
của những người này.
Những người này là một
lớp người riêng, rất
cách biệt với quần chúng
Việt Nam mà họ nh́n một
cách rẻ rúng. Trong
tuyệt đại bộ phận họ
không thạo tiếng Việt và
không hề biết đến lịch
sử Việt Nam; con cái họ
đi học các trường Pháp.
Vị tổng thống cuối cùng
và vị bộ trưởng cuối
cùng của chế độ Việt Nam
Cộng Ḥa là hai cựu sĩ
quan cấp thấp của quân
đội Pháp. Và họ cũng
không phải là một tổ
chức để gắn bó với nhau
trong một ư chí chung.
Họ chỉ là một khối bùng
nhùng của những người
coi guồng máy hành chính
và quân đội Việt Nam
Cộng Ḥa như là một môi
trường thăng tiến cá
nhân, rất chia rẽ nhưng
vẫn liên kết với nhau
trong một sự kỳ thị
chung với phần c̣n lại
của dân tộc.
Những người lănh đạo
cộng sản chỉ biết có
quyền lợi của đảng và
chủ nghĩa cộng sản,
những người lănh đạo phe
quốc gia chỉ biết có
quyền lợi và danh vọng
cá nhân. Và những cá
nhân, dù đông đảo và
nhiều phương tiện đến
đâu, không bao giờ chống
nổi một tổ chức.
Hồi cuối của của Việt
Nam Cộng Ḥa là một chế
độ quân phiệt.
Clémenceau, vị thủ tướng
lỗi lạc của Pháp và
người hùng của Thế Chiến
I có một câu nói để đời:
“Chiến tranh là một
điều quá nghiêm trọng để
có thể giao phó cho các
tướng lănh”. Nhưng
Clémenceau cũng chỉ nói
tới những tướng lănh tài
ba chứ không phải các
tướng lănh như chế độ
Việt Nam Cộng Ḥa đă có,
những tướng lănh mà ông
Ngô Đ́nh Nhu gọi là
“những trung sĩ đeo lon
tướng”. Đàng này các
tướng lĩnh bất xứng này
nắm tất cả, không những
quân đội mà cả chính
quyền, ở cả trung ương
lẫn các địa phương. Sự
thất bại của miền Nam là
không tránh khỏi.
Vẫn c̣n một số người cho
rằng chế độ Việt Nam
Cộng Ḥa đă sụp đổ v́ bị
Mỹ bỏ rơi, nhưng sự bỏ
cuộc của người Mỹ không
thể là một bất ngờ. Mỹ
không kiên nhẫn và cuộc
chiến Việt Nam đă là
cuộc chiến dài nhất
trong lịch sử nước Mỹ.
Vả lại quan tâm chiến
lược của Mỹ cũng đă thay
đổi nhiều sau khi quân
đội Nam Dương tiêu diệt
đảng cộng sản và Hoa Kỳ
đă bắt tay với Trung
Quốc. Một điều cần được
lưu ư là dù số phận tùy
thuộc vào Mỹ, chính
quyền Việt Nam Cộng Ḥa
chưa bao giờ có một cơ
quan nghiên cứu và theo
dơi chính trường Mỹ.
Bằng chứng rằng chế độ
Việt Nam Cộng Ḥa không
có thực chất đă được
phơi bày rơ rệt sau
1975. Các bộ trưởng và
tướng lănh Việt Nam Cộng
Ḥa chạy ra nước ngoài ở
lứa tuổi đầy sinh lực
35-45 nhưng họ đă không
làm được ǵ, trong tuyệt
đại đa số họ đă không hề
thử làm một cái ǵ.
Chế độ Việt Nam Cộng Ḥa
đă rất xứng đáng với số
phận của nó, nhưng sự
sụp đổ nhục nhă cũa nó
cũng đă là một thảm kịch
và một bất công với rất
nhiều người. Không thiếu
những người yêu nước có
trí tuệ và dũng cảm đă
nh́n thấy sự độc hại của
chủ nghĩa cộng sản và đă
chấp nhận tranh đấu
trong hàng ngũ Việt Nam
Cộng Ḥa dù biết nó là
một chế độ bạc nhược và
thối nát để ngăn chặn
chủ nghĩa cộng sản, với
ước vọng xây dựng sau đó
một đất nước Việt Nam
dân chủ và lành mạnh.
Nhưng họ đă không giành
được thế chủ động;
quyền lănh đạo vẫn ở
trong tay khối bùng
nhùng của những người
thiếu cả khả năng lẫn ư
chí. Họ đă chỉ mới đạt
tới được những vai tṛ
trung cấp hoặc khá cao
cấp khi chính quyền Việt
Nam Cộng Ḥa bị bỏ rơi
và sụp đổ. Có thể tiếc
rằng họ đă không đủ thời
giờ, nhưng từ 1948 đến
1975 cũng đă là 27 năm;
nếu trong suốt thời gian
đó mà chế độ Việt Nam
Cộng Ḥa không thăng
tiến nổi một nhân sự
lănh đạo đúng nghĩa th́
nó phải được nh́n như
một thử nghiệm vô vọng
và không có lư do ǵ để
thương tiếc nữa.
Tại sao cuộc chiến này
đă xảy ra và đă kết thúc
như thế?
Cụ thể hơn, tại sao một
đảng chỉ coi đất nước là
thứ yếu, bên cạnh một
chủ nghĩa không những
sai mà c̣n là một chủ
nghĩa tội ác, lại có thể
động viên được sự hy
sinh của rất nhiều người
để toàn thắng dù trước
mặt họ là một chính
quyền với những phương
tiện hơn hẳn, được cả sự
yểm trợ tận t́nh của
cường quốc hùng mạnh
nhất thế giới? Câu hỏi
này sẽ c̣n day dứt nhiều
nhà nghiên cứu chính trị
trong nhiều thế hệ. Ta
chỉ có thể trả lời nếu
lư luận từng bước.
“Trong suốt ḍng lịch sử
mà chúng ta tự hào là
“bốn ngh́n năm văn hiến”
chúng ta chưa có được
một nhà tư tưởng, chưa
nói tới tư tưởng chính
trị.”
Trước hết là họ đă không
có đối thủ. Việt Nam
Quốc Dân Đảng đă tan ră
từ sau 1930 và không có
một đội ngũ ṇng cốt để
phục hồi dù vốn cảm t́nh
rất lớn. Các đảng Đại
Việt ra đời trong và sau
Thế Chiến II, không
những chưa đủ thời giờ
để phát triển mà c̣n
thiếu hẳn một tư tưởng
chính trị; đó là những
kết hợp lỏng lẻo giữa
những người nói chung là
tốt nhưng đă chấp nhận
luật chơi của lớp cựu
cộng sự viên của chính
quyền thuộc địa trở
thành tầng lớp lănh đạo
phe quốc gia. Sau cùng
các đảng Đại Việt bị
biến chất và chỉ c̣n là
những liên kết giúp nhau
thăng tiến trong khuôn
khổ một chế độ tồi dở.
Các đảng Đại Việt không
phải là những chính đảng
đúng nghĩa dù quy tụ khá
nhiều người tốt. Phe
quốc gia, rồi Việt Nam
Cộng Ḥa, không thể
đương đầu với phe cộng
sản v́ nó không h́nh
thành nổi một chính đảng
đúng nghĩa, điều kiện
không có không được
trong đấu tranh chính
trị.
Cuộc chiến vừa qua là
một cuộc đấu tranh chính
trị trước khi là một
chiến tranh quân sự.
Thiếu điều kiện này th́
dù guồng máy hành chính
và quân đội có đồ sô đến
đâu, các phương tiện có
dồi dào đến đâu cũng
thất bại. Điều này h́nh
như đến bây giờ nhiều
người vẫn chưa hiểu.
Những người may mắn nắm
được chính quyền một
cách tương đối ổn vững,
Ngô Đ́nh Nhu và Nguyễn
Văn Thiệu, phần nào đă ư
thức được điều này do
phải trực diện với vấn
đề sống c̣n của chế độ.
Ông Nhu lập đảng Cần Lao,
ông Thiệu lập đảng Dân
Chủ, nhưng cả hai đều
thất bại và bỏ cuộc.
Không có ǵ đáng ngạc
nhiên, một chính đảng
đúng nghĩa chỉ có thể
h́nh thành trong đấu
tranh gian khổ, không ai
thành lập được một chính
đảng một khi đă cầm
quyền.
Bước kế tiếp là câu hỏi
tại sao trong suốt 27
năm trong phe quốc gia
đă không xuất hiện được
một chính đảng đúng
nghĩa? Đó là v́ một
chính đảng đúng nghĩa
chỉ có thể h́nh thành
được nếu được quan niệm
như là phương tiện để
thể hiện một tư tưởng
chính trị và thực hiện
một dự án chính trị (và
dù vậy cũng chỉ có thể
là thành quả của những
cố gắng thông minh và
bền bỉ trong hàng chục
năm). Nhưng phe quốc gia
không có tư tưởng chính
trị mặc dù khối lượng
bằng cấp khổng lồ và v́
thế không thể xây dựng
được những chính đảng có
tầm vóc. (Đảng cộng sản
ít ra đă mượn được một
tư tưởng chính trị, tư
tưởng Mác-Lênin và có
một dự án chính trị, dự
án thiết lập một chế độ
cộng sản).
Đó là hậu quả của một di
sản lịch sử. Trong suốt
ḍng lịch sử mà chúng ta
tự hào là “bốn ngh́n năm
văn hiến” chúng ta chưa
có được một nhà tư
tưởng, chưa nói tới tư
tưởng chính trị. Khi
tiếp xúc với phương Tây
thành phần ưu đăi cũng
đă chỉ học một cách thực
dụng để lấy bằng cấp và
đi làm quan chứ không
đầu tư vào tư tưởng
chính trị. Phan Châu
Trinh đă là một bước đầu
không được tiếp nối.
Ngôn ngữ Việt Nam cho
tới nay vẫn c̣n rất
thiếu sót về triết, tâm
lư, chính trị và xă hội
học. Sự yếu kém về tư
tưởng chính trị của
người Việt thê thảm đến
độ rất nhiều người hoạt
động chính trị không
biết là có vấn đề tư
tưởng chính trị, và vẫn
nghĩ rằng ai cũng có thể
lập đảng, viết tuyên
ngôn, cương lĩnh, soạn
thảo chương tŕnh hành
động. Nhưng một dân tộc
không có tư tưởng chính
trị chỉ có thể đi từ sai
lầm này đến thảm kịch
khác.
Cuộc chiến vô lư và oan
nghiệt này để lại một di
sản cũng vô lư và oan
nghiệt không kém: chế độ
cộng sản. Nhân danh
chiến thắng trong cuộc
chiến điên rồ và tai hại
này, đảng cộng sản bắt
dân tộc Việt Nam phải
mang ơn họ và tự cho
phép cai trị đất nước
một cách độc quyền và
độc đoán bằng bạo lực
trong thời gian vô hạn
định. Chúng ta đă nói
nhiều về chế độ này, chỉ
cần nhắc lại điều căn
bản nhất: hoặc chế độ
này phải chấm dứt hoặc
nước Việt Nam sẽ không
c̣n.
Tại sao? Đó là v́ trong
thế giới toàn cầu hóa
hiện nay khái niệm bị
chất vấn gay gắt nhất
chính là khái niệm quốc
gia.
Khái niệm tổ quốc thiêng
liêng đă lỗi thời, một
quốc gia muốn tồn tại
phải có lư do tồn tại
chính đáng, nghĩa là
phải đem lại phúc lợi và
niềm tự hào cho người
dân.
Sẽ chỉ c̣n lại những
quốc gia được quan niệm
như là một t́nh cảm và
một không gian liên đới
của những con người tự
do, tự nguyên xây dựng
và chia sẻ với nhau một
tương lai chung. Các
quốc gia khác sẽ tan ră,
sẽ giải thể trong ḷng
người trước khi giải thể
thực sự, bắt đầu bằng
những quốc gia được quan
niệm một cách bệnh hoạn
như là những xiềng xích
trói buộc, những vùng
lộng hành tự do của
những tập đoàn cầm quyền
bạo ngược, như Việt Nam
trong lúc này.
Người Việt Nam nào c̣n
tín nhiệm chính quyền
này? Nó không giải quyết
được những vấn đề sống
c̣n của đất nước mà c̣n
là trở ngại. Một thí dụ:
nó không thể giải quyết
được vấn đề tham nhũng
bởi v́ cả lư thuyết lẫn
thực tế đều đă chứng tỏ
rằng không thể cải tiến
một chính quyền tham
nhũng để
nó bớt tham nhũng, giải
pháp duy nhất cho một
chính quyền tham nhũng
là thay thế nó bằng một
chính quyền khác. Một
thí dụ khác: nó cũng
không thể giải đáp được
bài toán tụt hậu, bài
toán sinh tử của đất
nước, bởi v́ ngày nay
tiến bộ đồng nghĩa với ư
kiến và sáng kiến, những
yếu tố chỉ có thể nảy nở
nơi những con người tự
do, trong một xă hội dân
chủ.
Phải chấm dứt khẩn cấp
những di sản oan nghiệt
này của cuộc chiến độc
hại này để đất nước c̣n
có thể có một tương lai.
Nguyễn Gia Kiểng
(1) Trong bài “Nguồn
viện trợ to lớn của Liên
Xô, Trung Quốc và các
nuớc xă hội chủ nghĩa”,
nguyệt san Sự kiện và
nhân chứng, Hà Nội, số
136, tháng 4-2005,
tr.80, đại Tá Trần Tiến
Hoạt đă đưa ra một thống
kê chi tiết về viện trợ
của khối cộng sản cho
Bắc Việt. Riêng về súng
cá nhân đước chuyển vào
miền Nam qua đường ṃn
Hồ Chí Minh, đại tá Hoạt
liệt kê: 2.227.677 khẩu
súng Trung Quốc, 439.198 khẩu súng Liên Xô và 942.988 khẩu súng của các
nước cộng sản khác (tổng
cộng 3.609.863 khẩu
súng).