|
Duy Ái
|
Trong vài ngày qua, dư luận Việt Nam lại xôn xao bàn tán về bức công hàm ngoại giao mà Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gởi vị tương nhiệm Chu Ân Lai của Trung Quốc năm 1958, sau khi bản tin hôm 28 tháng 6 của Tân Hoa Xã nhắc đến văn thư này như một bằng chứng cho thấy Việt Nam thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Ban Việt ngữ VOA đã tiếp xúc với Thạc sĩ Hoàng Việt, một thành viên của Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông, để tìm hiểu thêm về vấn đề được một số người Việt Nam cho là "làm sôi sục cả tim gan" này.
VOA: Xin cảm ơn giáo sư đã có nhã ý cho
chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này. Trước hết, xin ông trình
bày sơ qua về nội dung của lá thư thường được gọi là "công hàm
Phạm Văn Đồng" và cho biết văn kiện ngoại giao này được đưa ra
trong bối cảnh như thế nào?
Hoàng Việt: Thưa anh, trước hết là về bối cảnh
đưa ra công hàm mà năm 1958 ông Phạm Văn Đồng đã ký. Thứ nhất là
lúc đó quan hệ Việt Nam-Trung Quốc vẫn còn như là anh em, vừa là
đồng chí vừa là anh em. Năm 1949, Quân Giải phóng Việt Nam còn
tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ của Trung Quốc,
sau đó trao trả lại cho Trung Quốc. Thế rồi sang năm 1957 Trung
Quốc chiếm lại từ tay một số lực lượng khác đảo Bạch Long Vĩ và
sau đó đã trao trả lại cho Việt Nam.
Muốn nói tới câu chuyện đó để làm gì? Đấy là lúc đó hai nước
tình cảm rất là chặt chẽ với nhau. Và năm 1958 nó có bối cảnh là
gì? Sau sự thất bại của hội nghị La Haye về luật biển năm 1930
để pháp điển hóa luật biển, đến năm 1958 – từ khoảng tháng 2 đến
tháng tư, đã có hội nghị đầu tiên về Công ước Luật biển. Và sau
đợt họp này đã ra được 4 công ước khác nhau, trong đó có Công
ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải. Tuy nhiên, hội nghị
này thất bại vì đưa ra được giới hạn là lãnh hải tối đa 12 hải
lý nhưng không thống nhất được là 12 hải lý. Và mỗi quốc gia lại
đưa ra một yêu sách khác nhau: Mỹ yêu cầu lãnh hải là 3 hải lý,
có một số nước là cho 4,5 hải lý, còn Trung Quốc đưa ra quan
điểm là 12 hải lý, và một số nước Nam Mỹ còn đưa ra quan điểm là
200 hải lý.
Trong bối cảnh đó Trung Quốc đưa ra tuyên bố của ông Chu Ân Lai
về lãnh hải và tuyên bố lãnh hải là 12 hải lý, và vận động quốc
tế, trong đó có Việt Nam, là nước có mối tình thân thiết với
Trung Quốc, để yêu cầu ủng hộ cho tuyên bố 12 hải lý đó. Còn nội
dung công hàm thì có một số điều cơ bản như thế này. Thứ nhất,
ông nói rằng dựa vào tuyên bố của ông Chu Ân Lai cho rằng lãnh
hải Trung Quốc kéo dài 12 hải lý ông Đồng nói rằng chúng tôi tán
thành và chấp nhận “hải phận” 12 hải lý. Đấy là bối cảnh và nội
dung của công hàm Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên sau này người ta diễn
giải, đặc biệt là Trung Quốc. Chắc có lẽ ông Đồng cũng không ngờ
là sau này công hàm của ông lại được Trung Quốc diễn giải một
cách khác nhau rất nhiều như vậy.
VOA: Thưa giáo sư, theo chỗ chúng tôi được
biết thì phải mất mấy mươi năm sau Trung Quốc mới lấy lá thư năm
1958 của ông Phạm Văn Đồng làm một luận cứ để hỗ trợ cho đòi hỏi
của họ về chủ quyền biển đảo ở Biển Đông. Ông nghĩ sao về việc
Trung Quốc giờ đây lại đề cập tới "công hàm Phạm Văn Ðồng" vào
thời điểm như thế này?
Hoàng Việt: Chính sách của Trung Quốc là tuyên
truyền bằng mọi cách để làm sao bảo vệ được luận cứ của họ ở
Biển Đông. Có lẽ là bắt đầu từ cuộc căng thẳng mà hai bên tranh
chấp với nhau ở quần đảo Trường Sa năm 1988. Tôi cũng chưa có
thời gian để coi lại xem trong các tuyên bố chính thức của Trung
Quốc họ đưa ra cái luận điểm, cái công hàm này, từ khi nào.
Nhưng trong tất cả các sách sử của Trung Quốc, ngay từ các cuốn
sách như cuốn “Ngã quốc Nam hải chư đảo sử liệu hối biên”, vân
vân.. một loạt các sách khác của Trung Quốc, khi nào nói về quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa họ cũng đưa cái công hàm này vào trong
đó. Và tôi có kiểm tra lại thì ngay cả trong năm 2000 trên
website của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đưa lên những thông
tin như vậy. Có lẽ là trong bối cảnh vừa rồi, trong vụ cắt cáp
tàu Bình Minh và tàu Viking, cũng như sự xung đột va chạm căng
thẳng lên, Trung Quốc đưa ra những lập luận để bảo vệ yêu sách
biển của họ, trong đó có yêu sách đường lưỡi bò.
VOA: Thưa giáo sư, giới nghiên cứu Biển
Đông ở Việt Nam nhận định như thế nào về giá trị của "công hàm
Phạm Văn Ðồng" trong vụ tranh chấp pháp lý với Trung Quốc về chủ
quyền ở Biển Đông? Và giới học thuật quốc tế, không kể tới Trung
Quốc và Đài Loan, nghĩ sao về văn kiện này?
![]() |
Thạc sĩ Hoàng Việt |
Hoàng Việt: Đương nhiên, các học giả quốc tế
cũng có hai trường phái. Một trường phái, ví dụ như ông Daniel
J. Dzurek cố vấn pháp lý của công ty Crestone Oil, là công ty
được Trung Quốc cấp phép để thăm dò khai thác dầu trên bãi Tư
Chính năm 1992. Ông ấy cho rằng như vậy có nghĩa là đã được công
nhận rồi. Còn một số các học giả khác, như Monique Chemillier-
Gendreau thì cho rằng nó chưa thành một cái công nhận.
Còn quan điểm của bên Việt Nam, như tôi là một học giả bình
thường, tôi cho như thế này:
Thứ nhất, ông Đồng hay bất cứ ông nào ở miền Bắc lúc đó cũng
chẳng có quyền gì mà có thể nói chuyện công nhận hay cho ai cái
gì được cả. Bởi vì theo hiệp định Geneve 1954 thì [Việt Nam] đã
chia đôi, từ vùng vĩ tuyến 17 trở về bên ngoài là chính quyền
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý lãnh thổ đó, từ vĩ tuyến 17
vào trong là chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý. Và như vậy
là rõ ràng là các ông ở miền Bắc, dù có là ông nào đi chăng nữa,
tôi nghĩ rằng cũng chẳng có quyền gì mà lại tuyên bố được với
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc một chính quyền khác
quản lý. Thế Việt Nam Cộng hòa có phải là một quốc gia không? Là
một quốc gia chứ! Là một quốc gia bình thường và thậm chí năm
1957 Liên hiệp quốc còn định đưa trở thành một thành viên chính
thức của Liên hiệp quốc, nhưng mà sau đó có một phiếu phủ quyết
của Liên Sô. Nếu không thì [đã được gia nhập Liên hiệp quốc
rồi]. Thật ra Việt Nam Cộng hòa vẫn là một quốc gia bình thường.
Và rõ ràng là anh không thể tuyên bố hay cho nhận cái gì của cái
không phải là của mình, không do mình quản lý. Đó là điều thứ
nhất.
Điều thứ hai là công hàm này cũng chỉ nói chung chung là công
nhận hải phận 12 hải lý. Cho nên sự diễn giải đấy có lẽ nếu đưa
ra tòa án quốc tế thì người ta phải xem trong bối cảnh nào, có
đúng là ý chí tự nguyện không, và xem xét như thế thì sẽ thấy
rằng có nhiều vấn đề mà như tôi đã trình bày với anh – trong bối
cảnh như thế và với những tuyên bố như thế và với hiệp định
Geneve chia như thế, thì có khả năng là tuyên bố này chẳng có
giá trị pháp lý gì nhiều cả.
VOA: Thưa ông, trong vài ngày qua chúng tôi
đọc được trên internet lời kêu gọi của một số người Trung Quốc
đòi thực hiện những cuộc biểu tình ở các thành phố lớn ở Trung
Quốc, như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu... vào ngày chủ nhật
tới đây để phản đối điều mà họ cho là Việt Nam xâm phạm chủ
quyền biển đảo của họ ở Biển Đông. Những người này cũng nói tới
chuyện gọi là "lấy lại" đảo Bạch Long Vĩ, nơi mà năm ngoái Chủ
tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết đã đến thăm và đưa ra một
tuyên bố cứng rắn để bày tỏ quyết tâm bảo vệ lãnh thổ. Ông nghĩ
sao về diễn tiến này?
Hoàng Việt: Trước nhất, tôi không hiểu vì sao
những người đó họ nói như vậy. Bời vì như vậy thì có hai khả
năng xảy ra: thứ nhất là họ không hiểu gì vấn đề liên quan tới
luật pháp quốc tế cả, và thứ hai là họ có thể bẻ cong nó đi. Bởi
vì đảo Bạch Long Vĩ cho đến bây giờ chưa bao giờ có tranh cãi
pháp lý chính thức về chủ quyền đảo Bạch Long Vĩ cả. Bạch Long
Vĩ là hoàn toàn của Việt Nam. Năm 1957 lúc đó Trung Quốc chiếm
nhưng rồi trao lại cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Và mới đây nhất là năm 2000 Việt Nam và Trung Quốc đã ký hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ. Hiệp định này trong luật pháp quốc tế được coi là hình thức pháp lý cao nhất, ràng buộc cả hai bên. Và trong hiệp định này qui định rõ có 21 điểm nối ở đường phân định biên giới trên Vịnh Bắc Bộ. Hiệp định đó còn kèm theo hai hải đồ. Hải đồ thứ nhất nói tới đường kéo dài phân chia vịnh bắt đầu từ cửa sông Bắc Luân. Và bản đồ thứ hai vẽ đường phân chia Vịnh Bắc Bộ gồm có 21 điểm, trong đó điểm thứ nhất kéo dài từ cửa sông Bắc Luân và kết thúc ở cửa Vịnh, xuống ngang tới đảo Cồn Cỏ. Và trong đường vẽ đó, đảo Bạch Long Vĩ hoàn toàn nằm ở phía Việt Nam. Và với một cái hiệp định đã được đại diện của hai quốc gia, hai nhà nước cùng ký kết thì tính chất pháp lý của nó là tuyệt đối rồi. Tức là không có gì để tranh cãi nữa.
Chưa bao giờ có tranh cãi pháp lý nào về chủ quyền trên đảo
Bạch Long Vĩ cả, và Bạch Long Vĩ hoàn toàn là của Việt Nam rồi.
Cho nên người mà họ nói ở đây tôi không hiểu là họ nói với duyên
cớ gì, nhưng khẳng định với anh một điều là không có chuyện
tranh chấp trên đảo Bạch Long Vĩ.
VOA: Chúng tôi xin thay mặt ban Việt ngữ,
các thính giả và độc giả cám ơn giáo sư đã có nhã ý dành thời
giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng
gửi cho Thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai năm 1958