Fax: +493046795841 Email: thongtinberlin@gmail.com Tel. +4917678132650
www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de

Quyền Lợi Quốc Gia, Công Bằng Quốc Tế

TS. LS. Luu Nguyen Dat


1. Ứng Dụng Quyền Lợi Quốc Gia
Quyền lợi quốc gia đối chiếu với hai thuật ngữ “National Interest” [Anh ngữ] và “Raison d’État” [Pháp ngữ]. Vậy quyền lợi quốc gia gồm những quan tâm và tham vọng, những chủ trương và chỉ đạo về mặt quyền lực quân sự, kinh tế, văn hoá mà một quốc gia đôn đốc thành lợi ích cốt lơi, thành quốc sách hay định hướng căn bản.
Về mặt quốc sự, quyền lợi quốc gia thường có những thuật ngữ bổ túc, liên đới, như quyền tự quyết, quyền bá chủ, an ninh quốc gia, bí mật quốc gia, bí mật quân sự, v.v.
Về mặt quốc gia sinh tồn, quyền lợi quốc gia thường phát xuất từ các nhu cầu phúc lợi, thịnh vượng, phát triển kinh tế, sáng tạo kỹ thuật, lănh đạo tài chính, hiệp thương, v.v.
Về mặt văn hoá, quyền lợi quốc gia bao gồm những truyền thống tư tưởng, ư thức hệ chỉ đạo; những tập tục, tín ngưỡng làm mạch sống tinh thần của dân tộc hay của nhóm người lănh đạo quốc gia.
Quyền lợi quốc gia, về mặt quốc tế công pháp, thường bầy tỏ sắc thái chính trị thực tế [real politics], đôn đốc quyền lực trong mọi giao dịch đối ngoại, nhất là khi có đối tác rơ rệt.
Vậy trên thực tế, quyền lợi quốc gia muôn mặt, vô cùng đa dạng.

1.1. Quyền Lợi Quốc gia của Hoa Kỳ
V́ quyền lợi quốc gia đặt trên căn bản phát triển kinh tế, xă hội song song với hệ thống bảo vệ an ninh, quốc pḥng, nên Hoa Kỳ ngay từ Đệ Nhị Thế Chiến thường đôn đốc phát triển liên hợp tài chính quân sự kỹ nghệ [financial military industrial complex], sẵn sàng nuôi dưỡng các đại cơ sở chiến lược như BAE Systems, Lockheed Martin, Boeing, Northrop Grumman, General Dynamics, Raytheon, EADS, Halliburton [Energy Services Group], v.v. với tác dụng hỗ trợ Quốc Pḥng Pentagon và mọi khía cạnh an ninh toàn quốc.
Thật vậy, từ chiến lược pḥng thủ an ninh hoà b́nh của Hoa Kỳ thường xuất phát song hành hiện tượng hợp lư hoá xung đột [conflict justification] bằng chiến tranh lạnh với chiến lược be bờ và những thế ứng dụng liên hệ [cold war, containment strategy, Korea war, Vietnam war], chiến tranh khu vực [Desert Storm war, Iraq war, Afghanistan war…], chiến tranh hỗ trợ các cuộc Nổi Dậy Toàn Dân Ả Rập/Arab spring.
Về mặt nổi, Hoa Kỳ luôn luôn đôn đốc lư tưởng dân chủ tự do, bảo trọng nhân quyền và sự thịnh vượng chung trên toàn thế giới, nên sẵn sàng ra tay phát triển các quốc gia kém mở mang, cứu độ các dân tộc nạn nhân của bạo quyền Phát Xít, Cộng Sản quốc tế, hoặc pḥng ngừa viễn tượng chiến tranh khủng bố phá hoại [preventive war] do các nhóm phiệt Ả Rập cuồng tín Taliban, al-Qaeda v.v. gây biến tại New York, Virginia-Washington, DC, Pensylvania [September 11 attacks] và trên khắp thế giới.
Về mặt đáy, Hoa Kỳ ứng dụng lư do tồn tại [raison d’être] của quyền lợi quốc gia theo yêu sách của tổ hợp tài chính quân sự kỹ nghệ, song song với nhu cầu nuôi dân Hợp Chúng Quốc.
Theo chiều hướng đó, nhà sách lược, nguyên Cố vấn An ninh, nguyên Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Condoleezza Rice đă ghi nhận trong bài tham luận, “Promoting the national interest,” Foreign Affairs Jan/Feb 2000, Volume: 79, Issue: 1: With no Soviet threat, America has found it exceedingly difficult to define its “national interest.” Foreign policy in a Republican administration should refocus the country on key priorities: building a military ready to ensure American power, coping with rogue regimes, and managing Beijing and Moscow. Above all, the next president must be comfortable with America’s special role as the world’s leader [tạm dịch: không có nguy cơ Nga Xô, Hoà Kỳ khó định nghĩa rơ “quyền lợi quốc gia” của ḿnh. Ngành ngoại giao Hoa Kỳ của chính phủ Cộng Hoà nên đặt trọng tâm vào những ưu tiên chỉ đạo như sau: cập nhật hoá thế lực quân sự để đương đầu với các chính thể gian giảo và cầm chừng Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh. Nhất thiết, Tổng Thống kế vị [George W. Bush] phải thích nghi với vai tṛ lănh đạo thế giới].
1.2. Quyền Lợi Quốc gia của Trung Quốc
Đối với Trung Quốc, một siêu cường quốc hạng nh́ đang nhô lên, quyền lợi quốc gia là tham vọng phát triển một nền kinh tế ồ ạt, nhiều lượng, ít phẩm, cốt để cầm hơi hơn một tỷ 3 trăm triệu dân tạp chủng Hán, Thanh, Mông cổ, Hồi, Tây Tạng, nhưng thật ra chỉ là để củng cố Đảng cộng phỉ đương cuộc. Do đó Trung Quốc ngày hôm nay đă khơi mào một chủ nghĩa tân đế quốc nhằm “thuộc địa hoá” những khu vực kém mở mang tại Phi Châu, Trung Đông, Nam Mỹ, Đông Nam Á, cốt để trục lợi và làm giầu cấp tốc, không đếm xỉa tới t́nh trạng phá sản, xuống cấp nơi khai thác.
Theo chiều hướng tham vọng tài phiệt và nhu cầu sinh tồn nội bộ trên, Trung Quốc [1] đă vạch ra thủy lộ chữ U hay “đường lưỡi ḅ”, nhằm liếm láp mọi quyền lợi hải sản, tài nguyên thiên nhiên tại Biển Đông mà Trung Quốc muốn gọi là Nam Trung Quốc Hải (南中國海), hay gọi tắt là Nam Hải (南海); [2] đă lấn ranh, mua rừng, mua quặng Bauxite với giá rẻ mạt của Việt Nam; [3] đă xây đập thủy điện trên sông Lan Thương (tên Trung Quốc của sông Mékong), “lợi bất cập hại”– ảnh hưởng đến giao thông hàng hải, thủy lợi, bất chấp mọi phá phách thủy lộ, ô nhiễm môi sinh nơi ḍng dưới, tức Mékong [Mae Nam Khong], tại Lào, Thái Lan, Kampuchia và ḍng Cửu Long, tại Nam Việt; cũng như [4] đă t́m cách phóng đường tàu cao tốc Đông Phương nối Thượng Hải, Nam Kinh với Malaysia, Singapore, mà không ngần ngại lấn đất Myanmar [Miễn Điện], Lào, Kampuchia, Thái Lan. Dân làng Bopiat, Boten, miền bắc nước Lào là những nạn nhân đầu tiên của chương tŕnh phóng đường sắt, khi công tŕnh này phá ấp, cắt làng cốt để thực hiện quyền lợi khai mở mạch sống thăng cấp của Trung Quốc.
Chu Ân Lai đă từng thổ lộ: “Nước chúng tôi th́ lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong đảng Lao Động Việt Nam mở cho một con đường xuống Đông Nam Á”. Nhưng từ nhu cầu t́m dưỡng khí sinh tồn tới lộng hành phóng đại “lưỡi ḅ” liếm láp toàn khu vực Đông Nam Á, cụ thể là việc điều động các tàu hải quân đến hăm doạ các nước trong khu vực tranh chấp ở Biển Đông, hay ngoan cố há miệng rồng nuốt chửng vô tội vạ những cọc mốc ranh giới, rừng già, đất đỏ bauxite, đất làng của những người đàn em thấp kém, quỵ luỵ, th́ “quyền lợi dân tộc” theo xă hội chủ nghĩa – made in China - của Trung Quốc hoàn toàn bất xứng, bất chính, chẳng khác ǵ chủ nghĩa bá đạo, cướp bóc, xâm lăng thổ phỉ, mafia tống tiền trắng trợn, thanh thiên bạch nhật.


2. Quyền Lợi Quốc gia và Công Bằng Quốc Tế
Quyền lợi quốc gia khi đôn đốc quá mức, nhất là khi tập trung trong tay các đại cường quốc dễ chuyển thế thành bá quyền, hoặc đế quốc hệ.
Đối với Hoa Kỳ, bá quyền là định hướng kết sinh hoà b́nh thịnh vượng trên toàn cầu theo đường lối dân chủ tự do, tự quyết. Nỗ lực liên hợp tài chính quân sự kỹ nghệ của Hoa Kỳ quy tụ vào việc bảo vệ trật tự chính trị liên đới này.
Trong khi đó, Trung Quốc theo xă hội chủ nghĩa chủ trương bá quyền thôn tính, nhằm đế quốc hoá khu vực Đông Nam Á và thuộc địa hoá các nước kém mở mang trên thế giới. Hiểm hoạ Trung Cộng không chỉ riêng cho khu vực mà c̣n cho toàn cầu, khi mức độ xâm nhập sản phẩm ngụy tạo và kinh tài bất chính mỗi lúc gia tăng.
Để đối phó với thế lực bá chủ thôn tính của Trung Quốc, các quốc gia lâm nạn hay thất thế có những biện pháp nào để giải toả áp lực xâm lược hiện hữu?
Trước hết, về mặt căn bản quốc tế công pháp, mỗi quốc gia đều có chủ quyền ngang nhau trong cộng đồng thế giới đa dạng; đều có chính nghĩa bảo trọng quyền lợi quốc gia ḿnh một cách tương xứng, đúng mức, nhờ đó thực hiện công bằng quốc tế.
Vậy trước hanh vi xâm lược của Trung Quốc chủ trương thu nhập toàn cơi hải phận đang tranh chấp, Việt Nam và các quốc gia giáp biển phải thực hiện một số biện pháp đối tác như sau:

2.1. Các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cần dấn thân hội nhập trong thế liên đới hỗ trợ phát triển và sinh tồn, vừa để thực hiện quyền lợi quốc gia mỗi bên, vừa để bảo trọng quyền lợi chung của toàn khu Đông Nam Á. Đây là cơ hội thuận lợi để các quốc gia thanh viên của ASEAN [1] thực thi sứ mạng [2] và cập nhật hoá trách nhiệm [3] của Tổ chức.

2.2. Khai triển sứ mạng của tổ chức ASEAN, cần củng cố liên minh khu vực, từ ngoại giao tới quân sự, nhằm hợp lực ngăn cản tức khắc và toàn diện chiến lược “tằm ăn dâu” của Trung Quốc. Nếu để quá lâu, hiện trạng lằng nhằng giây mơ rễ má này sẽ trở thành một thực trạng chấp hữu chẳng đặng đừng, khi hành vi quấy nhiễu, liên tục chiếm đoạt, độc quyền vây biển, lấn đất, lấn đảo đă kết đủ cơ sở và hiệu lực.
 

UNCLOS LOGO

2.3. Khước từ mọi cuộc thảo luận song phương giàn xếp, xác định, chia chác tay đôi, v́ hành động xé lẻ như vậy sẽ vô cùng bất lợi, đồng thời mặc nhiêm công nhân vị trí chủ thể của Trung Quốc. Mọi thảo luận trên phải có tính cách đa phương, thực hiện theo diện liên đới hay liên hiệp giữa tất cả các quốc gia có quyền lợi chung về Biển Đông Nam Á, căn cứ vào vị thế lănh thổ và lănh hải của mỗi quốc gia liên hệ.
2.4. Cần tôn trọng và đôn đốc Công ước LHQ về Luật Biển 1982, United Nations Convention on Law of the Sea, viết tắt UNCLOS, vốn là cơ chế pháp lư quốc tế kiểm soát trật tự toàn cầu trên và dưới mặt biển cả. [4]
2.5. Cần huy động thế liên kết toàn cầu, căn cứ vào [a] chủ trương quốc tế giải quyết xung khắc bằng giải pháp đa phương và ôn ḥa, [b] trên căn bản bảo vệ tự do lưu thông hàng không và hàng hải trong hải phận quốc tế và không phận biển Đông, mà Hoa Kỳ sẵn sàng bênh vực, để thực thi trật tự thịnh vượng hoà b́nh chung.


Để Tạm Kết Luận,
Biển Đông là điểm nóng chiến lược tại Đông Nam Á, một mặt đ̣i hỏi sự đoàn kết khu vực để tự bảo vệ trước mọi mưu toan xâm lược thôn tính của bá quyền Hán Tộc, mặt khác hội nhập cộng đồng pháp trị toàn cầu để thực thi công bằng quốc tế, theo định hướng kết sinh hoà b́nh thịnh vượng, trên căn bản dân chủ tự do chân chính.
Riêng đối với Việt Nam, bảo vệ quyền lợi quốc gia, từ Biển Đông tới bờ cơi, từ biên giới tới khắp môi trường sinh tồn, c̣n đ̣i thực thi chủ quyền dân tộc, một cách chân chính, toàn diện và hữu hiệu.

TS-LS. LƯU NGUYỄN ĐẠT

[1] The Association of Southeast Asian Nations, commonly abbreviated ASEAN is a geo-political and economic organization of 10 countries located in Southeast Asia, which was formed on 8 August 1967 by Indonesia, Malaysia, the Philippines, Singapore and Thailand. Since then, membership has expanded to include Brunei, Burma (Myanmar), Cambodia, Laos, and Vietnam. Its aims include the acceleration of economic growth, social progress, cultural development among its members, the protection of the peace and stability of the region, and to provide opportunities for member countries to discuss differences peacefully.
ASEAN spans over an area of 4.46 million km2, 3% of the total land area of Earth, with a population of approximately 600 million people, 8.8% of the world population. In 2010, its combined nominal GDP had grown to USD $1.8 trillion. If ASEAN were a single country, it would rank as the 9th largest economy in the world and the 3rd largest in Asia in terms of nominal GDP.
[2] FUNDAMENTAL PRINCIPLES
In their relations with one another, the ASEAN Member States have adopted the following fundamental principles, as contained in the Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia (TAC) of 1976:
Mutual respect for the independence, sovereignty, equality, territorial integrity, and national identity of all nations;
The right of every State to lead its national existence free from external interference, subversion or coercion;
Non-interference in the internal affairs of one another;
Settlement of differences or disputes by peaceful manner;
Renunciation of the threat or use of force; and
Effective cooperation among themselves.
[3] The ASEAN Community is comprised of three pillars, namely the ASEAN Political-Security Community, ASEAN Economic Community and ASEAN Socio-Cultural Community. Each pillar has its own Blueprint, and, together with the Initiative for ASEAN Integration (IAI) Strategic Framework and IAI Work Plan Phase II (2009-2015), they form the Roadmap for and ASEAN Community 2009-2015.
[4] The United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS), also called the Law of the Sea Convention or the Law of the Sea treaty, is the international agreement that resulted from the third United Nations Conference on the Law of the Sea (UNCLOS III), which took place from 1973 through 1982. The Law of the Sea Convention defines the rights and responsibilities of nations in their use of the world’s oceans, establishing guidelines for businesses, the environment, and the management of marine natural resources. The Convention, concluded in 1982, replaced four 1958 treaties. UNCLOS came into force in 1994, a year after Guyana became the 60th state to sign the treaty. To date, 161 countries and the European Community have joined in the Convention. However, it is uncertain as to what extent the Convention codifies customary international law.

Internal waters

The convention set the limit of various areas, measured from a carefully defined baseline. (Normally, a sea baseline follows the low-water line, but when the coastline is deeply indented, has fringing islands or is highly unstable, straight baselines may be used.) The areas are as follows:

Covers all water and waterways on the landward side of the baseline. The coastal state is free to set laws, regulate use, and use any resource. Foreign vessels have no right of passage within internal waters.
Territorial watersOut to 12 nautical miles from the baseline, the coastal state is free to set laws, regulate use, and use any resource. Vessels were given the right of innocent passage through any territorial waters, with strategic straits allowing the passage of military craft as transit passage, in that naval vessels are allowed to maintain postures that would be illegal in territorial waters. “Innocent passage” is defined by the convention as passing through waters in an expeditious and continuous manner, which is not “prejudicial to the peace, good order or the security” of the coastal state. Fishing, polluting, weapons practice, and spying are not “innocent”, and submarines and other underwater vehicles are required to navigate on the surface and to show their flag. Nations can also temporarily suspend innocent passage in specific areas of their territorial seas, if doing so is essential for the protection of its security.
Archipelagic watersThe convention set the definition of Archipelagic States in Part IV, which also defines how the state can draw its territorial borders. A baseline is drawn between the outermost points of the outermost islands, subject to these points being sufficiently close to one another. All waters inside this baseline are designated Archipelagic Waters. The state has full sovereignty over these waters (like internal waters), but foreign vessels have right of innocent passage through archipelagic waters (like territorial waters).
Contiguous zoneBeyond the 12 nautical mile limit there was a further 12 nautical miles or 24 nautical miles from the territorial sea baselines limit, the contiguous zone, in which a state could continue to enforce laws in four specific areas: pollution, taxation, customs, and immigration.
Exclusive economic zones (EEZs)These extend from the edge of the territorial sea out to 200 nautical miles from the baseline. Within this area, the coastal nation has sole exploitation rights over all natural resources. In casual use, the term may include the territorial sea and even the continental shelf. The EEZs were introduced to halt the increasingly heated clashes over fishing rights, although oil was also becoming important. The success of an offshore oil platform in the Gulf of Mexico in 1947 was soon repeated elsewhere in the world, and by 1970 it was technically feasible to operate in waters 4000 metres deep. Foreign nations have the freedom of navigation and overflight, subject to the regulation of the coastal states. Foreign states may also lay submarine pipes and cables.
Continental shelfThe continental shelf is defined as the natural prolongation of the land territory to the continental margin’s outer edge, or 200 nautical miles from the coastal state’s baseline, whichever is greater. A state’s continental shelf may exceed 200 nautical miles until the natural prolongation ends. However, it may never exceed 350 nautical miles from the baseline; or it may never exceed 100 nautical miles beyond the 2,500 meter isobath (the line connecting the depth of 2,500 meters). Coastal states have the right to harvest mineral and non-living material in the subsoil of its continental shelf, to the exclusion of others. Coastal states also have exclusive control over living resources “attached” to the continental shelf, but not to creatures living in the water column beyond the exclusive economic zone.
Aside from its provisions defining ocean boundaries, the convention establishes general obligations for safeguarding the marine environment and protecting freedom of scientific research on the high seas, and also creates an innovative legal regime for controlling mineral resource exploitation in deep seabed areas beyond national jurisdiction, through an International Seabed Authority and the Common heritage of mankind principle.
Landlocked states are given a right of access to and from the sea, without taxation of traffic through transit states.


<<trở về đầu trang>>
free counters