Fax: +493046795841 Email: thongtinberlin@gmail.com Tel. +4917678132650
www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de

Há miệng mắc quai

Ḿnh là nạn nhân mà lại đi xin “cầu ḥa” th́ chỉ có thể chủ động bởi kẻ yếu hèn không c̣n biết đến liêm sỉ của con người, nói chi đến chuyện thay mặt cho Lănh đạo một quốc gia như trường hợp Hồ Xuân Sơn, Thứ trưởng Ngoại giao, đă làm trong cuộc gặp Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc tại Bắc Kinh ngay 25/06 (2011) để chuyển ư kiến của lănh đạo Việt Nam tới lănh đạo Trung Quốc về quan hệ hai nước và t́nh h́nh Biển Đông thời gian gần đây.

Cuộc họp đă diễn ra đúng một tháng sau ngày tầu Hải giám của Trung Hoa ngang nhiên xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tới 80 hải lư, (bên trong phạm vi 200 hải lư) đề trấn áp và cắt giây cáp Tầu B́nh Minh 2 khi Tầu này đang thực hiện công tác thăm ḍ đáy biển cho Công ty Dầu khí Việt Nam tại vùng biển tỉnh Phú Yên.

Sau đó, đến ngày 9-6, một tầu đánh cá lớn khác của Trung Hoa đă tấn công trực diện tầu Viking II, cũng làm công tác thăm ḍ đáy biển cho Công ty Dầu khí Việt Nam trong lănh hải Vũng Tầu.

Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga, lần đầu tiên, đă nói mạnh: “Việt Nam kiên quyết phản đối hành động của phía Trung Quốc phá hoại, cản trở các hoạt động thăm ḍ khảo sát b́nh thường của Việt Nam trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gây thiệt hại lớn cho Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam. Hành động này đă vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của ḿnh, vi phạm Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc, trái với tinh thần và lời văn của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) kư giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002 cũng như nhận thức chung của lănh đạo cấp cao hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt ngay, không để tái diễn những hành động vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đồng thời bồi thường thiệt hại cho phía Việt Nam”.

Vậy cuộc họp giữa Ḥang Xuân Sơn và Đới Bỉnh Quốc kết qủa ra sao?

Bản Thông tin báo chí chung hai bên, do Thông tấn xă Việt Nam phổ biến ngày 27-6 (2011) viết rằng : “Ngày 25-6 tại Bắc Kinh, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn, đặc phái viên của lănh đạo cấp cao Việt Nam đă gặp Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc, chuyển ư kiến của lănh đạo Việt Nam tới lănh đạo Trung Quốc về quan hệ hai nước và t́nh h́nh Biển Đông thời gian gần đây.

Ủy viên Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc đă tŕnh bày lập trường và chủ trương của phía Trung Quốc về việc phát triển quan hệ song phương và vấn đề trên biển. Trước đó, Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn đă hội đàm với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân.

Hai bên cho rằng, quan hệ Việt-Trung phát triển lành mạnh, ổn định, đáp ứng nguyện vọng chung và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước Việt-Trung, có lợi cho ḥa b́nh, ổn định và phát triển của khu vực.

Hai bên nhấn mạnh cần kiên tŕ đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển theo đúng phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

Hai bên khẳng định, cần tích cực thực hiện nhận thức chung của lănh đạo hai nước, giải quyết ḥa b́nh các bất đồng trên biển giữa hai nước thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị; áp dụng biện pháp có hiệu quả, cùng nhau duy tŕ ḥa b́nh và ổn định tại Biển Đông; tăng cường định hướng đúng đắn dư luận, tránh lời nói và hành động làm tổn hại đến t́nh hữu nghị và ḷng tin của nhân dân hai nước; đẩy nhanh tiến độ đàm phán để sớm kư kết “Thỏa thuận về các Nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc”; thúc đẩy việc thực hiện “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và các công việc tiếp theo, cố gắng sớm đạt tiến triển thực chất.”

Sau khi về đến Hà Nội, Hoàng Xuân Sơn vội vă tiếp xúc với Báo chí của đảng để nói thêm những điều c̣n úp mở trong Thông báo chung.

Sơn nói : “Nội dung Thông điệp (của cuộc họp) tập trung vào 3 điểm chính sau:

1. Khẳng định Việt Nam luôn coi trọng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, Việt Nam sẽ nỗ lực cùng với Trung Quốc để thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa hai nước ngày càng thiết thực, hiệu quả hơn v́ lợi ích của nhân dân hai nước, v́ ḥa b́nh, ổn định, hợp tác của khu vực và thế giới.

2. Bày tỏ quan ngại về những vụ việc vừa qua ở Biển Đông; đồng thời khẳng định rơ lập trường của Việt Nam đối với vấn đề Biển Đông, nhấn mạnh Việt Nam chủ trương duy tŕ ḥa b́nh ổn định trên Biển Đông, đề nghị các bên nghiêm túc thực hiện “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”, giải quyết tranh chấp và các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp ḥa b́nh trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Đề nghị hai bên thực hiện nghiêm túc thỏa thuận của cấp cao hai nước, không có những việc làm gây phức tạp thêm t́nh h́nh, không để vấn đề Biển Đông ảnh hưởng đến quan hệ hai nước.

3. Nêu một số kiến nghị cụ thể về việc thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian tới, như việc duy tŕ tiếp xúc cấp cao, tổ chức phiên họp lần thứ 5 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam – Trung Quốc tại Hà Nội.”

Hồ Xuân Sơn c̣n nói: ”Nhận thức chung giữa lănh đạo cấp cao hai nước đă được ghi nhận trong các Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc nhân các chuyến thăm của lănh đạo cấp cao hai nước, gần đây nhất là Tuyên bố chung tháng 10/2008 nhân dịp Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng thăm Trung Quốc. Theo đó, hai bên khẳng định quan tâm ǵn giữ ḥa b́nh, ổn định ở Biển Đông, tuân thủ nghiêm túc nhận thức chung giữa lănh đạo cấp cao hai nước và tinh thần “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”, duy tŕ cơ chế đàm phán vấn đề trên biển, căn cứ nguyên tắc và chế độ pháp lư đă được xác định bởi luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Luật biển của LHQ năm 1982 t́m kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu và bàn bạc về hợp tác cùng phát triển để t́m ra mô h́nh và khu vực thích hợp. Trong quá tŕnh đó, hai bên cùng nỗ lực ǵn giữ t́nh h́nh ổn định ở Biển Đông, không áp dụng hành động làm phức tạp hóa hoặc mở rộng thêm tranh chấp. Hai bên đồng ư, với nguyên tắc dễ trước khó sau, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực như nghiên cứu khoa học hải dương, bảo vệ môi trường, dự báo khí tượng thủy văn, thăm ḍ khai thác dầu khí, t́m kiếm cứu hộ trên biển, tàu hải quân đi thăm lẫn nhau, xây dựng cơ chế trao đổi thông tin trực tiếp giữa quân đội hai nước.”
Có 2 vấn đế cần làm sáng tỏ : Từ lâu, Bắc Kinh đă không coi “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” giữa Trung Hoa và Hiệp hội gồm 10 nước Đông Nam Á (ASEAN) kư tại Nam Vang năm 2002 có gía trị ràng buộc các bên kư kết phải tuân thủ v́ Văn kiện này không có tính cách pháp lư mà ḥan ṭan tùy thuộc vào thiện chí của mỗi quốc gia.

Thứ hai, việc hợp tác “thăm ḍ khai thác dầu khí”, theo quan điểm của Việt Nam và các nước trong ASEAN chỉ có thể diễn ra trong vùng “c̣n tranh chấp” như khu vực Trường Sa chứ không thể nào được thực hiện trong vùng biển đă có chủ quyền lănh thổ như trường hợp Ḥang Sa của Việt Nam.

Ngược lại phía Trung Hoa lại đ̣i hợp tác khai thác cùng có lợi ngay trên vùng biển Trung Hoa tự nhận của ḿnh đă do Bắc Kinh tự vẽ giống h́nh “Lưỡi Ḅ”, hay vùng “9 đoạn” chiếm diện tích từ 80 đến 85% diện tính của Biển Đông, tức lấn sang vùng biển của nước khác thay v́ tại vùng chưa có ranh giới rơ ràng như ở Trường Sa.

Các bản tin của phía Việt Nam và lời tuyên bố của Hoàng Xuân Sơn không hế nói đến Công hàm của Phạm Văn Đồng ngày 14 tháng 9 năm 1958 gửi Chu Ân Lai, Tổng lư của Trung Hoa thời bấy giờ, nh́n nhận tuyên bố chủ quyền lănh thổ của Bắc Kinh bao gồm của hai quần đào Ḥang Sa và Trường Sa mà thời đó thuộc quyền cai qủan của Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa ở miền Nam Việt Nam.

Hành động của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa miền Bắc Cộng sản lúc bấy giờ có dụng ư ǵ th́ không ai biết. Những nhân chứng quan trọng nhất như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh đều đă chết nên “hành động lịch sử vô trách nhiệm” này của đảng CSVN đă để lại hệ lụy cho dân tộc đến ngày nay.

Bằng chứng đă được Hồng Lỗi, Phát ngôn nhân của Bộ Ngọai giao Trung Quốc nhắc khéo với phía Việt Nam trong Cuộc họp báo ngày 28-6 (2011).

Theo Tân Hoa Xă của Trung hoa, Xinhua, th́ Hồng Lỗi đă kêu họi Việt Nam hăy “thi hành sự đồng thuận về vấn đế Biển Đông đă đạt được trong chuyến thăm Trung Quốc tuần qua của đặc phái viên của Việt Nam, Hồ Xuân Sơn.”

(China on Tuesday called on Vietnam to implement a bilateral consensus on the South China Sea issue that was reached during the China visit of Vietnam’s special envoy Ho Xuan Son last weekend.)

Hông Lỗi nói tiếp: “Chúng tôi đă thảo luận sâu rộng với phiá Việt Nam về vấn đề Biển Đông trong thời gian có cuộc thăm viếng của đặc sứ, và hai bên đă đồng ư giải quyết vấn đề tranh chấp qua tham khảo hữu nghị và tránh mọi động thái có thể làm phức tạp thêm vấn đề.”

(We had in-depth discussions with the Vietnamese side on the South China Sea issue during the visit of the special envoy, and the two sides agreed to solve disputes through friendly consultations and avoid making moves that may aggravate or complicate the issue,” said Foreign Ministry spokesman Hong Lei at a press briefing.)

Chúng tôi hy vọng phiá những người Việt Nam sẽ cùng với chúng tôi thực thi sự dồng thuận và cố gắng bảo vệ ḥa b́nh và sự ổn định của Biển Đông.”

(We hope the Vietnamese side will implement the consensus together with us and make efforts to safeguard peace and stability of the South China Sea,” Hong said.)

Một lần nữa, phiá Trung Hoa nhắc lại lập trường cố hữu không thay đổi rằng: “Trung Quốc đă tái khẳng định chủ quyền không thể tranh căi trên tất cả các đảo ở Biển Đông và vùng nước xung quanh.”

(China has repeatedly stated its indisputable sovereignty over the South China Sea islands and their surrounding waters.)

Bản tin của Tân Hoa Xă viết tiếp: “Tài liệu lịch sử của Trung quốc chỉ rơ vào năm 1958 rằng, Chính phủ Trung quốc đă tuyên bố chủ quyền trên các đảo ở Biển Đông là phần lănh thổ của Trung quốc, và nguyên Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đă bầy tỏ đồng ư của ông trong Công hàm Ngọai giao gửi tới nguyên Thủ tướng Chu Ân Lai.”
(Chinese historical records show that in 1958, the Chinese government claimed the islands in the South China Sea as part of China’s sovereign territory, and then Vietnamese Premier Pham Van Dong expressed agreement in his diplomatic note to then Premier Zhou Enlai.)

Vẫn theo Tân Hoa Xă th́ không hề có sự phản kháng của bất cứ quốc gia nào đối với chủ quyền của Trung quốc trên khu vực cho đến thập niên 1970 khi các nước, kể cả Việt Nam và Phi Luật Tân lên tiếng dành một phần chủ quyền.

(There was no dissension from any country on China’s sovereignty over the area until the 1970s, when countries including Vietnam and the Philippines claimed partial sovereignty.)

“Và sau một thời gian dài thương thảo, Đặng Tiểu B́nh mới đưa ra sáng kiến đề nghị rằng hăy gác sang một bên những tranh chấp để cùng hợp tác khai thác khu vực.”

(After long-term negotiations and disputes, Deng Xiaoping initiated his proposal on the issue that put aside the disputes and offered joint exploitation in the region.)

Sau hi nhắc lại Thỏa hiệp Nam Vang năm 2002 giữa Trung Hoa và Hiệp hội các nước Đông Nam Á về “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” , hăng Tân Hoa Xă (Xinhua) c̣n tiết lộ: “Vào tháng 3 năm 2005, 3 Công ty Dầu khí Trung Hoa, Việt Nam và Phi Luật Tân đă kư chung một Thỏa hiệp lịch sử tại Manila về cùng hợp tác t́m kiếm dầu và hơi đốt tại vùng tranh chấp ở Biển Đông.”

 

(In March 2005, three oil companies from China, Vietnam and the Philippines signed a landmark tripartite agreement in Manila to jointly prospect oil and gas resources in the disputed South China Sea.)

CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG

Tuy Tân Hoa Xă của Trung Hoa không nêu lư do tại sao họ lại lôi Công hàm của Phạm Văn Đồng ra để nhắc nhở Việt Nam phải tôn trọng những ǵ đă nói trong bối cảnh tranh chấp mới giữa hai nước, nhưng mục tiêu chiếm chủ quyền ở Biển Đông của Bắc Kinh th́ đă rơ.

Vấn đề bây giờ là trách nhiệm của đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam phải trả lời như thế nào để có thể sống yên thân với người Phương Bắc và với chính người dân Việt Nam.

Trong khi chờ đợi th́ mọi người hăy b́nh tĩnh đọc bức Công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng, nguyên văn như sau:

Thưa đồng chí Tổng lư

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lư rơ:

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lư của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lư lời chào rất trân trọng”.
Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958

(Kư tên-Đóng dấu

Phạm Văn Đồng

Thủ tướng Chính phủ

Nước Việt-Nam Dân chủ Cộng Ḥa)

Hành động cúi đầu khẩu phục Nhà nước Tầu khi ấy của Phạm Văn Đồng dù với mục đích ǵ chăng nữa cũng không sao xoá được vết nhơ trong lịch sử, v́ Bức Công hàm đă nói rơ cái tâm địa “phản nước, hại dân” của một người đứng đầu Chính phủ-/-

 

Phạm Trần
(06/011)


<<trở về đầu trang>>
free counters