Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Việt Nam - Những điều trông thấy...
Định Nguyên
Tháng
Năm vừa qua, có việc gia đ́nh, tôi
đă về Việt Nam trong hơn ba tuần.
Tôi ghi lại đây những ǵ mà tôi tạm
gọi là “thiên hạ sự” mắt thấy, tai
nghe trong thời gian thăm quê. Tuy
cùng là người Việt sống ở nước
ngoài, ngoại trừ những người chưa về
quê lần nào, có người về Việt Nam
thường xuyên, có người về chỉ vài
lần, và mỗi người về một ngả, mỗi
người có một mục đích riêng, có cái
nh́n riêng… nên những ǵ tôi tŕnh
bày có thể không giống quan điểm,
nhận xét của người khác. Đây chỉ là
sự quan sát, nhận định cá nhân, viết
ra để bà con đọc cho... đỡ buồn, và
nếu cần, để rút kinh nghiệm khi về
Việt Nam.
Bước ra khỏi máy bay, điều khắc
nghiệt mà tôi gặp phải đầu tiên là
sự oi bức của khí hậu. Trong khi sắp
hàng tŕnh giấy tờ nhập cảnh, mồ hôi
đă đổ ra ướt cả áo, điều không hề
xẩy ra trên đất Mỹ (ở Mỹ, nếu làm
việc nặng ngoài trời lâu dưới nắng
nóng mới đổ mồ hôi). Trong phi
trường cũng có máy lạnh nhưng có lẽ
v́ tiết kiệm điện nên hơi mát không
đủ đô cho một người “ngoại quốc” xứ
lạnh như tôi. Trong suốt thời gian
tại Việt Nam, tôi ở khách sạn, đi
đâu th́ đi taxi v́ có máy lạnh. Nhà
tôi ở vùng quê, nghèo khổ, điện đóm
thất thường (thường hay cúp điện),
lại không có máy lạnh nên dù đă bao
năm xa cách muốn ở lại với mẹ già
vài đêm cũng không thể được. Thăm bà
xong là tôi vọt lên thành phố, vào
khách sạn trốn nóng. Nóng khắp miền
Nam, kể cả Vũng Tàu. Nóng đến nỗi
ngồi bên băi biển cũng nóng. Chỉ lúc
xuống tắm mới hết nóng.
Có lẽ, điều cốt lơi mà bà con muốn
biết là giây phút đối diện với công
an hải quan phi trường Tân Sơn Nhất?
Th́ cũng thế, khi đến lượt ḿnh
tŕnh Passport Mỹ có Visa nhập cảnh
của Việt Nam cũng phải làm “thủ tục
đầu tiên” chút đỉnh. Người công an
lanh tay giấu kín tờ bạc xanh trước
khi làm thủ tục cho chúng tôi nhập
nội. Tuy đă nghe nói có lệnh cấm
Việt kiều không được đưa tiền cho
công an, nhưng lệnh cấm ở đâu chúng
tôi không thấy mà chỉ thấy anh công
an ngồi đó, người có thể gây khó
khăn cho chúng tôi! Thôi th́ “trộm
lệnh” chi chút đỉnh trước để mua sự
mau mắn, sau coi như một món quà mọn
cho người “đồng hương” gặp gỡ đầu
tiên nơi quê nhà. Không biết có phải
nhờ uy lực của “Bác Washington” hay
không mà công an đối xử với chúng
tôi lịch sự, tử tế. Khi chúng tôi ra
phi trường trở lại Mỹ, không có “thủ
tục đầu tiên” nữa, công an vẫn không
gây rắc rối ǵ cho chúng tôi cả, họ
vẫn làm việc tử tế, và đặc biệt họ
không c̣n ánh mắt biểu lộ lập trường
bạn-thù hằn học như trước. Chỉ có
thế, suốt thời gian ở Việt Nam, tôi
không gặp thêm một người công an
nào, không tiếp xúc với một cơ quan
chính quyền nào, đi đâu cũng không
bị ai hỏi giấy tờ hay làm khó dễ cả.
Theo tôi biết (từ giới chức khách
sạn), nếu ḿnh về lưu trú ở địa
phương (bất cứ địa phương nào) ḿnh
phải tŕnh diện, nạp hộ chiếu tại
công an địa phương. Nhưng nếu ḿnh ở
khách sạn, nạp hộ chiếu cho khách
sạn th́ nhân viên khách sạn sẽ lo
chuyện đó, họ sẽ báo cáo sự có mặt
của ḿnh lên công an thành phố, xong
muốn đi đâu th́ đi (nhưng nhớ mang
theo Visa mà toà Đại sứ hay Tổng
lănh sự VC cấp cho ḿnh về).
Việt Nam đă thay đổi như thế nào?
Theo tôi nghĩ, về cơ sở vật chất,
Việt Nam đă có thay đổi. Đây là một
sự thay đổi đương nhiên, v́ với thời
gian 35 năm, nếu không thay da đổi
thịt th́ mới là điều lạ. Những nơi
tôi đến đều đă thay đổi, nhưng sự
thay đổi không đồng đều. Có nơi thay
đổi tốt, có quy cách, có kế hoạch;
có nơi sự thay đổi chỉ là một mớ tạp
nham, rất ồn ào, hỗn tạp, có thể ví
như cỏ dại chen sống với vườn rau.
Trong số những nơi phát triển có kế
hoạch, “ấn tượng” nhất là Phi trường
Tân Sơn Nhất. Tuy phi đạo chưa được
cải tạo nhưng nhà ga TSN (Terminal)
đă được xây lại khá hiện đại, khang
trang, có thể so sánh với những phi
trường bậc trung trên thế giới. So
với thành phố ồn ào và nhốn nháo
ngoài kia, sân ga Tân Sơn Nhất nổi
lên như một thế giới riêng, có vẻ
sạch sẽ, văn minh và tươm tất hơn
nhiều. Thứ đến là thành phố Đà Nẵng.
Tôi đă từng làm việc tại thành phố
nầy 4-5 năm trước 1975, nhưng nay về
lại khó mà nhận ra được, nếu không
đi taxi th́ có lẽ chẳng t́m ra
đường. Xong việc gia đ́nh, tôi thuê
bao xe vào Đà Nẵng. Xe không phải
leo đèo như trước mà đi đường hầm
Hải Vân, một công tŕnh đáng kể, rất
tiện lợi cho việc giao thông, vừa
tiết kiệm thời gian, vừa an toàn hơn
nhiều. Qua khỏi đèo Hải Vân, tài xế
chở chúng tôi dọc băi biển từ Nam Ô
(cũng lạ hoắc), qua cầu Thuận Phước
(có dáng dấp như cầu treo Golden
Gate tại San Francisco nhưng ngắn và
nhỏ hơn nhiều), đến thẳng núi Sơn
Trà, nơi có chùa Linh Ứng với tượng
Quán Thế Âm cao ngất. Trong thời kỳ
chiến tranh không có con đường rộng
răi, có dáng dấp của một “Free Way”
nầy. Từ núi Sơn Trà, chúng tôi chạy
dọc, sát bờ biển Mỹ Khê, cũng trên
con đường khá rộng và tốt như đường
dọc bờ biển Nam Ô, đến Non Nước.
Trong vài ngày sau đó, chúng tôi đi
thăm trung tâm Mỹ Sơn tại Quảng Nam
của người Chàm cũng dùng con đường
nầy. Quay về sông Hàn, trước đây chỉ
có cầu Trịnh Minh Thế, nay đă có
thêm hai cầu nữa (cầu quay sông Hàn
và cầu Thuận Phước, nghe đâu đang dự
định xây thêm một cầu nữa). Hai bên
bờ sông Hàn được đúc xi măng rộng,
lát gạch hoa, sạch sẽ và thoải mái
cho người muốn dạo chơi, hưởng gió
ban đêm. Nh́n chung, Đà Nẵng đă thay
đổi có kế hoạch, nó có thể trở một
thành phố cỡ Hồng Kông trong tương
lai. Nơi thứ ba có thay đổi tốt là
Vũng Tàu. Thành phố du lịch này đă
có những đường sá rộng, sạch, trồng
nhiều cây, hoa đẹp rất công phu. Sự
thay đổi của Sài G̣n, Huế tuy có
phát triển bề ngang và chiều cao,
ngoài những vùng tân lập ngó được,
những nơi cũ đường hẹp mà nhà cửa
xây thêm, xây lên quá nhiều, xe cộ
vô số kể (nhất là xe gắn máy hai
bánh) nên trông rất hỗn tạp và nhốn
nháo. Ngoài ra, sự thay đổi hổ lốn
nầy làm Huế không c̣n là Huế nữa.
Đường phố không c̣n đất để bát phố,
người ta để xe cộ chật ních cả. Có
thể nói, Việt Nam bây giờ bị “bê
tông hoá” và bị xe hai bánh tràn
ngập, đường lúc nào cũng kẹt xe nên
thời tiết đă nóng lại càng nóng
thêm, đă nhớp càng nhớp thêm, đă bụi
càng bụi thêm.
Trong điều kiện đường sá và xe cộ
như thế, Việt Nam khó mà có được một
một sự giao thông trật tự, văn minh,
sạch sẽ và rơ ràng như ở Mỹ được. Ở
Mỹ lái xe không cần c̣i. Tại Việt
Nam suốt ngày nghe c̣i inh ỏi. Xe
lớn c̣i xe nhỏ cũng c̣i, không c̣i
là không đi được, họ nói như thế.
Đường cũng có luồng (lanes) đàng
hoàng nhưng chẳng ma nào giữ luồng
cả, xe hai bánh cũng như xe bốn bánh
cứ chạy tràn với nhau, ai nhanh nấy
được. Thật khó tưởng tượng nổi, xe
hơi có thể quay đầu (U turn) ngay
chính giữa ḷng đường trong khối
lượng giao thông nêm chặt như thế,
không cần phải đợi đến ngă tư, ngă
ba, chuyện không thể thấy ở các nước
văn minh.
Về sinh hoạt xă hội, có thể nói
người Việt Nam quá tất bật. Nhà buôn
lớn, kẻ buôn nhỏ, các dịch vụ di
chuyển hàng hoá, vật liệu…hoạt động
suốt ngày, có khi qua đêm. Nh́n
chung, sự sinh hoạt kinh tế của
người dân nhộn nhịp hơn xưa nhiều.
Ngày xưa, ở Huế chỉ có đường Trần
Hưng Đạo, Gia Long (Phan Bội Châu)
là hai đường phố thương măi chính,
kế đó là Gia Hội, Hàng Bè. Nhưng
ngày nay đường nào cũng có cửa hàng
buôn bán, dù lớn hay nhỏ. Đặc biệt
đường Mai Thúc Loan trong nội thành,
ngày trước chỉ toàn là nhà ở kiểu
xưa, thấp lè tè, im ĺm buồn tẻ.
Ngày nay đường nầy buôn bán c̣n sầm
uất nhộn nhịp hơn cả Trần Hưng Đạo,
nhà lầu mọc lên san sát. Nói thế
không có nghĩa là dân Việt Nam bây
giờ đă giàu. Cuộc sống tuy có khá
hơn xưa, nhưng hố cách biệt về giàu
nghèo c̣n quá sức lớn. Có người thu
nhập một tháng cả một trăm ngàn đô
(tôi đă gặp trực tiếp người này và
được ông ta xác nhận) nhưng đại đa
số quần chúng c̣n trong sự nghèo
nàn. Không những dân quê chỉ bám vào
ruộng vườn để kiếm ăn, may ra đủ
sống; tại các thành phố vẫn c̣n rất
nhiều người bán vé số, nhiều người
buôn thúng bán bưng, nào thức ăn các
loại, nào báo, nào sách v.v. được bà
con đem bán dạo. Thu nhập của những
người nầy chừng 5-7 chục ngàn Việt
Nam là cùng. Mua một tờ báo (bốn
ngàn đồng Việt Nam) mà cho thêm họ
một ngàn đồng (khoảng vài cents của
Mỹ) là họ đă mừng ra mặt rồi.
Dân Việt Nam thật cũng lạ, cứ khoảng
4 giờ chiều, gần như đa số đàn ông
cả nước “xuống đường” ăn nhậu. Kẻ
giàu lên trên các nhà hàng cao tầng
với cao lương mỹ vị và rượu ngoại
bia cao cấp, có em út phục vụ đến
nơi đến chốn; người trung lưu vào
các quán nhậu b́nh dân trên khắp mọi
đường phố; thứ dân nghèo nàn th́
nhậu trên lề đường, trong hẻm sâu
với mực khô, khô thiều, hay đạm bạc
với vài trái xoài, ổi chắm muối
ớt…cùng bia rẻ tiền hay ba xi đế
cũng có thể “dzô, dzô” để vui đời
như ai. Đi qua các nơi, tôi thấy
không có nơi nào nhậu “đại trà” như
Đà Nẵng. Từ bên này cầu Sông Hàn qua
bên Mỹ Khê, dọc con đường mới ấy,
bên cạnh các khách sạn, nhà hàng
sang trọng, các quán nhậu b́nh dân
mọc lên san sát, người ăn nhậu dày
đặc nhung nhúc (đa số là giới trẻ),
xe gắn máy dựng la liệt, chẳng biết
tiền đâu mà họ hưởng thụ đời đến
thế. Điều đáng để ư là h́nh như họ
không biết, hoặc không quan tâm ǵ
về chính trị, về t́nh h́nh đất nước
cả. Hỏi thử họ có biết VC cắt đất
nhường biển cho Tàu không, có biết
Trung cộng chiếm Hoàng Sa, Trường
Sa, đánh đập những ngư phủ Việt Nam
không, th́ hoặc họ trợn mắt như
người từ hành tinh khác tới, hoặc họ
khoát tay xin miễn bàn! T́m hiểu
chuyện này ngoài xă hội, một số trí
thức, kể cả đảng viên CS biết nhưng
chẳng ai dám hé môi. Với chính sách
tàn độc của VC, người Việt Nam bây
giờ trông có vẻ đang sống như những
kẻ “hiện sinh” (!), vô cảm trước
t́nh h́nh đất nước, và đặc biệt có
vẻ bạc nhược hơn ngày xưa nhiều! Để
bảo vệ quyền lực của ḿnh, VC đă
tiêu diệt hào khí, triệt tiêu ḷng
yêu nước của người Việt Nam rồi
chăng? Có người nói, VC đă ngầm
khuyến khích, tạo điều kiện cho dân
vui chơi, ăn nhậu để đừng để ư đến
những ǵ họ làm. “Một ngày như mọi
ngày”, ngoài công việc kiếm sống, cứ
mỗi sáng thức dậy, mở cửa phóng xe
ra đường ăn sáng, uống cà phê, hoà
nhập cùng biển người và xe cộ, dưới
một rừng cờ và biểu ngữ đỏ chói
tuyên truyền cho chế độ, giăng mắc
trên khắp các nẽo đường; tối đến,
cùng nhau lố nhố ngất ngây “xị xô”
dưới ánh đèn màu là đă lên đến “đỉnh
điểm” của cuộc đời rồi, chẳng cần
làm ǵ thêm, chẳng cần nghĩ ǵ thêm.
Tất cả đă có đảng lo. Tuân phục đảng
th́ sẽ có tự do, chống đảng sẽ phải
nằm co trong tù! Phải nói là, ngoại
trừ một thiểu số hiểm hoi can đảm ra
mặt chống chế độ độc tài đ̣i dân chủ
mà chúng ta đă biết, đa số dân Việt
Nam ở thành phố, kể cả thành phần
trí thức và một số đảng viên cộng
sản cũng đều bất măn chế độ, nhưng
họ không dám làm ǵ để chống lại v́
“sợ nằm co trong tù”! Họ muốn có “tự
do” để giữ nồi cơm và xa hơn nữa là
để hưởng thụ.
Mỹ hay Tàu?
Quan sát sinh hoạt chính trị của
những chóp bu VC, ai cũng nghĩ rằng
Việt Nam không sớm th́ muộn cũng bị
lệ thuộc Trung cộng. Nhưng nếu để
mắt vào sinh hoạt của người dân
trong xă hội, người ta không thấy
bóng dáng nào của Chú Chệt cả. Các
bảng hiệu lớn nhỏ một phần bằng bằng
tiếng Việt, một số bằng tiếng Anh,
phần khác Anh-Việt đề huề, chẳng có
cái nào bằng tiếng Tàu (trong Chợ
Lớn có thể khác). Nói chuyện qua lại
hằng ngày cũng thế, ngoài giới lao
động b́nh dân dùng tiếng Việt hoàn
toàn, những tầng lớp trên dùng cả
tiếng Việt lẫn tiếng Mỹ. Từ “OK” đă
quá thông dụng. Những người bồi
pḥng khách sạn cũng “OK” tía lia.
Đồng dollar của Mỹ rất có giá trị và
được ưa chuộng tại Việt Nam. Ngoại
trừ những chi tiêu lặt vặt phải trả
bằng tiền Việt, những chi tiêu lớn
chúng ta có thể dùng dollar song
song với tiền Việt, hoặc thay tiền
Việt. Cách phục sức, ngoài giới lao
động, buôn thúng bán bưng, sinh viên
học sinh, công chức…đều ăn mặc theo
lối Tây phương, theo kiểu Mỹ, không
ai mặc đồ kiểu Tàu cả.
Khi c̣n ở Đà Nẵng, tôi có dịp nói
chuyện với một người cháu trí thức,
bác sĩ mới ra trường được mấy năm.
Tôi hỏi nó: “Cháu có thấy nguy cơ
Việt Nam mất nước không? Cháu có
biết lănh đạo của Việt Nam quá yếu
hèn quá quỵ lụy trước sự lấn lướt
của Tàu không? Cháu có biết trí
thức, học sinh-sinh viên ḿnh biểu
t́nh chống Tàu chiếm Hoàng Sa,
Trường Sa mà bị nhà nước bắt bỏ tù
không? Người dân yêu nước chống
ngoại xâm mà bị chính quyền trừng
trị th́ chính quyền đó không phải là
tay sai ngoại bang th́ c̣n là ǵ?
Một dân tộc có chính quyền là tay
sai ngoại bang th́ chuyện mất nước
rất dễ xẩy ra”. Cháu tôi trả lời:
“Tụi con biết những chuyện đó nhưng
bị guồng máy xă hội cuốn hút chẳng
biết làm ǵ để chống lại họ, bác ơi.
Nhưng bác thấy đó, lănh đạo theo Tàu
nhưng dân theo Mỹ. Bác cứ nh́n sinh
hoạt của người dân, kể cả cán bộ
đảng viên th́ sẽ thấy”!
Tôi xin thuật lại những ǵ tôi đă
nói chuyện với cháu tôi hôm ấy để
tạm kết luận bài này: “Bác thấy, về
h́nh thức, Việt Nam đă thay đổi
nhiều. Nhưng sự thay đổi ấy chưa
phải là sự phát triển toàn diện và
đồng đều so với thời gian 35 năm
không có chiến tranh. Đặc biệt sự
thay đổi ấy không phải là một bằng
chứng chứng tỏ được tính độc lập của
dân tộc. Bác đồng ư với cháu sinh
hoạt xă hội và lối sống Việt Nam
hiện nay “tư bản” hơn cả trước 1975
tại miền Nam. Đó chỉ là chuyện b́nh
thường sau khi nhà nước Việt Nam mở
cửa, tiếp xúc với Tây phương. Người
Việt Nam bây giờ đi nước ngoài như
đi chợ, họ bắt chước theo lối sống,
theo cách làm ăn của người nước
ngoài là chuyện không có ǵ lạ.
Nhưng đó không phải là dấu hiệu của
ḷng yêu nước, đó chỉ là lối sống,
cách hoạt động “kinh doanh” mà thôi.
Người dân tại Trung cộng cũng sinh
hoạt như thế. Việt Nam nếu lệ thuộc
Trung cộng, dân chúng cũng sẽ được
sinh hoạt như thế.
Giữ được nước hay không là do ư thức
chống ngoại xâm, do ḷng yêu nước
bảo vệ quê hương, không phải sống
theo kiểu nào. Bác rất bi quan trước
thế nước ḷng dân. Thế nước đang
chênh vênh trên bờ lệ thuộc. Đảng
CSVN, đối với dân th́ cai trị bằng
thủ đoạn và sự tàn độc nhưng đối với
đàn anh Trung cộng th́ ươn hèn,
nhượng bộ quá đáng cốt để giữ quyền
lực. C̣n ḷng dân th́ sao? Bác rất
ngạc nhiên trước sự thờ ơ đối với
vận mệnh đất nước của đại khối người
Việt Nam, kể cả trí thức. Tại hải
ngoại, tinh thần chống cộng, chống
ngoại xâm rất cao nhưng phần lớn đă
già cả rồi, lại ồn ào mất đoàn kết,
hơn nữa ở quá xa, cách cả nửa ṿng
trái đất nên chẳng làm ǵ được.
Tương lai dân tộc đặt trong bàn tay
của các cháu. Nếu thế hệ trẻ các
cháu cũng “vô tư” với vận mệnh tổ
quốc như người lớn hiện nay, mất
nước là điều khó tránh khỏi”.