Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Một vài nhận định tổng quan về thực trạng nhân quyền ở Việt nam.
Nhân quyền hay c̣n gọi là quyền
con người, nói một cách vắn tắt
là quyền được sống đúng như một
con người. Đó là quyền căn bản
của mọi con người trong mọi dân
tộc, mọi quốc gia.
Để
đạt được chân lư tưởng chừng đơn
giản đó, ḷai người đă phải trả
giá bằng cả máu và sinh mạng của
hàng triệu người. Biết bao triều
đại, bao chế độ chính trị đă sụp
đổ v́ đi ngược lại mong muốn đó
của ḷai người.
Ngày 2- 9- 1945 Hồ Chí Minh,
trong tuyên ngôn độc lập đă nhắc
lại chân lư này: “ Tất cả các
dân tộc trên thế giới sinh ra
đều b́nh đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do….”. Tư tưởng đó
đă phản ánh rằng quyền được sống
và mưu cầu hạnh phúc của con
người là chân lư, là ước mơ của
ṭan bộ nhân lọai. Chân lư này
ḥan ṭan không phụ thuộc vào
quan điểm hay thể chế chính trị.
Quyền con người là tự nhiên, là
ắt có và hằng có, là bất khả xâm
phạm, tồn tại độc lập và không
phụ thuộc vào việc có hay không
thể chế nhà nước.
Kể
từ sau tuyên ngôn này của Hồ Chủ
Tịch, những nhà lănh đạo Việt
nam đă “ thay đổi” quan điểm,
phủ nhận tính tự nhiên và tồn
tại độc lập của quyền con người
với thể chế chính trị. Họ cho
rằng quyền con người phụ thuộc
vào các điều kiện kinh tế và
chính trị. Quyền con người không
những mang tính phổ quát được
nhân lọai thừa nhận mà có tính
riêng biệt, phụ thuộc vào đặt
tính văn hóa của từng dân tộc.
Quan điểm này nhằm bảo vệ cho sự
tồn tại của một chế độ chính trị
độc tài. Họ đặt sự tồn tại của
đảng cộng sản trên các giá trị
nhân quyền đă được cả nhân lọai
thừa nhận. Đây chính là nguyên
nhân chủ yếu làm cho hệ thống
pháp luật lũng cũng và mập mờ,
mang tính h́nh thức và thiếu khả
năng thực thi trong thực tiễn.
Hầu hết các các giá trị quyền
con người nhà nước Việt nam đều
thừa nhận bằng cách tham gia
họăc kư kết các điều ước quốc tế
. Nhà cầm quyền Việt nam cũng cố
gắng thể hiện sự thừa nhận các
quyền con người của ḿnh trong
các hiến pháp. Tuy nhiên, bản
thân các hiến pháp, đặt biệt là
Hiến pháp hiện tại chứa đựng quá
nhiều xung đột giữa quyền con
người và chế độ chính trị. Các
văn bản luật dưới Hiến pháp luôn
có khuynh hướng ưu tiên cho sự
tồn tại của chế độ, làm mất khả
năng thực thi các quyền con
người trong thực tiển. Sự cản
trở này là nguyên nhân chủ yếu
gây ra các xung đột giữa chính
quyền với người dân. Tạo ra các
hiện tượng phản kháng xă hội.
Bảo
đảm và phát triển các quyền con
người là bảo đảm cho người dân
của ḿnh có quyền mưu cầu hạnh
phúc và tự do.
Thực trạng về nhân quyền ở Việt
nam có thể nh́n thấy qua các
nhận định sau:
1-
Đối với nhóm quyền về kinh tế xă
hội, bao gồm các quyền: quyền
lao động ; quyền tự do kinh
doanh; quyền sở hữu hơp pháp về
tài sản; quyền được bảo vệ sức
khỏe; quyền bảo vệ về hôn nhân
gia đ́nh; quyền mang tính ưu
tiên như quyền trẻ em; quyền phụ
nữ.
Quyền lao động, đó là sự tự
do lựa chọn nghề nghiệp phù hơp
với ḿnh. Không thể nói nhà nước
đă bảo đảm quyền này khi mà gần
70% dân số việt nam sống bằng
nông nghiệp, mà tư liệu sản xuất
là đất đai bị nhà nước nắm giữ.
Hệ thống các cơ sở công đ̣an
mang nặng tính h́nh thức, không
dám đấu tranh cho quyền lợi của
người lao động.
Quyền tự do kinh doanh
là quyền tự do lựa chọn các
nghành nghể kinh doanh không bị
nhà nuớc cấm. Trước năm 1999,
nhà đầu tư muốn kinh doanh phải
xin phép nhà nuớc. Năm 2000, khi
cho ra đời luật doanh nghiệp,
nhà nước không buộc nhà đầu tư
phải có đơn xin phép nữa mà
chuyển sang đơn đăng kư kinh
doanh. Mặc dù thay đổi ngôn từ
từ “ xin phép” sang “ đăng kư”
nhưng bản chất xin – cho vẫn tồn
tại thông qua hồ sơ và tŕnh tự
đăng kư kinh doanh. Đó là bước
đầu thành lập, khi vào kinh
doanh nhà đầu tư phải vựơt qua
hàng lọat giấy phép con khác, do
các bộ, các nghành quản lư tự
đặt ra. Năm 2000, thống kê chính
thức của nhà nuớc cho thấy Việt
nam có trên 300 lọai giấy phép
kinh doanh khác nhau. Khi đó
chính Thủ tướng phải ra lệnh băi
bỏ trên 100 lọai giấy phép,
nhưng đến nay th́ lại h́nh thành
gần 400 lọai giấy phép khác nữa.
Với một “ rừng” giấy phép như “
thiên la điạ vơng” như vậy làm
sao nói Việt nam có quyền tự do
kinh doanh. Mặc khác khi nói đến
tự do kinh doanh không thể không
nói đến sự cạnh tranh lành mạnh,
điều này không thể có với nền
kinh tế thị trường theo định
hướnh XHCN.
Quyền sở hữu tài sản
hợp pháp là quyền sơ đẳng nhất
bảo đảm cho điều kiện sinh tồn
của con người. Đất đai, nhà cửa
là một trong những điều kiện đó,
ng̣ai ra nó c̣n lài tài sản có
giá trị lớn, là hành hóa luân
chuyển, và đặt biệt là tư liệu
sản xuất chủ yếu của đa số người
dân Việt nam. Nhà nước cho đến
nay vẫn chưa cho người dân có
quyền sở hữu về đất đai. Giao
quyền sử dụng đất đai như một sự
ban phát, nhà nước có thể thu
hồi bất cứ lúc nào. Đây là
nguyên nhân chủ yếu của hàng
lọat vụ xung đột giữa nhà nước
và người dân. Ng̣ai ra c̣n rất
nhiều lọai tài sản khác, nhà
nước bắt người dân phải đăng kư
để quản lư. Các định chế về quản
lư hành chính vô h́nh chung tước
đọat và hạn chế quyền tự định
đọat tài sản hợp pháp của người
dân.
Quyền đươc bảo vệ sức
khỏe, ứng với quyền này là nghĩa
vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng
của nhà nước. Trước tiên phải
thấy rằng hệ thống bệnh viện từ
trung ương đến địa phương đă
xuống cấp trầm trọng. Các bệnh
xá ở vùng cao, vùng xa hết sức
sơ sài và lạc hậu, cá biệt có
nhiều nơi không có bệnh xá. Hệ
thống pháp luật về bảo hiểm y tế
c̣n nhiều bất cập, hay thay đổi
gây nhiều bất lợi cho người dân,
đặt biệt người dân nghèo gần như
không thể tiếp cận được với các
dịch vụ y tế công.
Quyền bảo vệ hôn nhân
và gia đ́nh. Nói đến quyền này
không thể không nói đến tŕnh tự,
thủ tục đăng kư kết hôn. Đặt
biệt là kết hôn với người nuớc
ng̣ai. Với 19 lọai giấy tờ khác
nhau, hồ sơ đăng kư kết hôn với
người nước ng̣ai trở thành ‘ác
mộng” với những cặp trai gái yêu
nhau và muốn thành vợ chồng. Cá
biệt có cặp phải chia tay nhau
v́ không thể nào ḥan thành đủ
19 lọai giấy tờ đó. Chưa hết,
sau khi ḥan tất hồ sơ, phải
trăi qua một cuộc thẩm vấn.
Nhiều câu hỏi thẩm vấn hết sức
vô duyên của cán bộ cộng chức
làm đôi trai gái ngượng đỏ cả
mặt, không dám trả lời. Mà không
trả lời xem như không thể thành
vợ thành chồng.
Đối
với nhóm quyền tự do cá nhân,
bao gồm: qưyền tự do đi lại và
cư trú; quyền ra nước ngoài;
quyền bất khả xâm phạm về thân
thể; quyền được bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm; quyền bất khả xâm phạm về
chổ ở; quyền được an toàn và bí
mật về thư tín;quyền khiếu nại
tố cáo.
Quyền tự do đi lại và cư trú.
Chế độ “hộ khẩu” vẫn c̣n ám ảnh
từng người dân cho tới bây giờ.
Nó mặc nhiên tước bỏ quyền tự do
đi lại và cư trú của 86 triệu
dân Việt nam. Có thời kỳ chế độ
“ hộ khẩu” là đề tài tranh luận
sôi nổi của công luận. Rồi Quốc
hội cũng tham gia để bàn xem có
nên bỏ chế độ hộ khẩu hay không.
Người dân th́ muốn bỏ để bớt
phiền toái và tự do hơn, Nhà
nước th́ sợ mất “ hộ khẩu” th́
sẻ không “quản” người dân được.
Cuối cùng, Luật cư trú cũng ra
đời, và công cụ quản lư bằng hộ
khẩu vẫn được giữ nguyên. Mỗi
khu phố đều có “ nơi đăng kư tạm
trú, tạm vắng”, “điểm đăng kư
tạm trú tạm vắng”. Nói là “đăng
kư” nhưng bản chất của sự xin
cho vẫn c̣n đó. Hằng đêm, lực
lương công an, dân pḥng vẫn
lùng sục từ khách sạn sang trọng
cho đến hang cùng, ngơ cụt để
kiểm tra sự cư trú của người dân.
Quyền ra nước ngoài. Nói là
quyền nhưng nếu không được sự
cho phép của Nhà nước th́ sẽ bị
khởi tố h́nh sự. Thời gian gần
đây dư luận phát hiện ra rất
nhiều trường hợp bị cấm ra nước
ngoài. Có nhiều người khi đến
sân bay mới biết ḿnh nằm trong
danh sách “cấm xuất cảnh” của Bộ
Công an. Danh sách này được giữ
bí mật. Lư do bị cấm rất đơn
giản nhưng cũng rất trừu tượng :
liên quan vấn đề an ninh quốc
gia. Đó là người có hộ chiếu,
c̣n người chưa có hay hết hạn
th́ sẽ không được cấp nếu bị
liệt vào danh sách có liên quan
đến an ninh quốc gia. Với lư do
an ninh quốc gia, rơ ràng danh
sách bí mật này của Bộ công an
sẻ càng lúc càng dài hơn, có thể
một lúc nào đó, toàn bộ dân Việt
Nam đều bị cấm v́ tất cả đều có
thể liên quan đến an ninh quốc
gia.
Quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, quyền được bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm. Bộ luật h́nh sự đă dành
hẳn một chương để bảo đảm các
quyền này. Tuy nhiên, vấn đề làm
cho dư luận rất bức xúc hiện nay
đó là sự xâm phạm đến từ những
người làm nhiệm vụ bảo vệ các
quyền này. Đặt biệt là lực lượng
công an. Nhiều cái chết oan ức,
từ người già đến trẻ em, đă ngă
xuống dưới họng súng của những
người này. Chưa kể nhiều thanh
niên đang khỏe mạnh, bị áp giải
đến đồn công an, chỉ sau vài
tiếng, đă lăn đùng ra chết một
cách hết sức bí mật. Tra tấn,
bức cung, nhục h́nh cũng là một
hiện tượng phổ biến. Rất nhiều
phiên ṭa, bị can, bị cáo phản
cung công khai tố cáo sự tra tấn
của công an, nhưng ṭa vẫn không
xem xét v́ cho rằng thiếu chứng
cứ.
Danh dự, nhân phẩm là cái ǵ đó
rẻ rúm, nếu như người đó có “
liên quan đến an ninh quốc gia”
hoặc “bất đồng” với Nhà nuớc. Từ
trí thức giáo sư tiến sĩ cho đến
các bậc tu hành khả kính, nếu
liên quan an ninh quốc gia đều
bị truyền thông Nhà nước “đập”
cho tă tơi. Sự nhục mạ và bôi
bác tràn lan trên các mặt báo,
có khiếu nại hay tố cáo cũng vô
ích v́ không ai giải quyết.
Quyền được an toàn và bí mật về
thư tín. Các Bưu điện, các công
ty truyền số và dữ liệu vẫn do
Nhà nước quản lư và kiểm soát.
Hiện tượng bị nghi ngờ và bị
nghe lén các thiết bị điện thoại
không phải là cá biệt. Các công
ty truyền số và dữ liệu sẵn sàng
cung cấp bí mật của khách hàng
cho cơ quan công an. Nhiều thông
tin bí mật mà công ty cung cấp
đă trở thành chứng cứ tại ṭa để
buộc tội “ khách hàng” của ḿnh,
nhất là các vụ án về an ninh
quốc gia.
Quyền khiếu nại và tố cáo. Đây là quyền rất đặc biệt, nó cho phép người dân tự hành động để bảo vệ các quyền khác. Chưa có con đường tố tụng nào đau khổ bằng con đường khiếu nại của người dân Việt nam. Sự thờ ơ vô trách nhiệm của cán bộ công chức là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự đau khổ này. Lẽ ra, ứng với quyền khiếu nại của người dân là nghĩa vụ phải giải quyết của Nhà nước nhưng đa số cán bộ công chức đều tự cho ḿnh cái quyền giải quyết khiếu nại hay không. Hiện tượng khiếu nại kéo dài từ năm này sang năm khác vẫn không đươc giải quyết là rất phổ biến ở tất cả các tỉnh thành trên cả nước. Có nhiều gia đ́nh khiếu nại từ đời cha cho đến đời con với hàng ngàn lá đơn gửi từ trung ương đến địa phương. Tất cả đều rơi vào im lặng! Không thể không nhắc đến hiện tượng khiếu nại đông người hiện nay, có nơi trở thành các cuộc biểu t́nh phản đối cách làm việc của cơ quan nhà nước. Nhiều người chẳng những không được giải quyết khiếu nại mà c̣n bị kết tội gây rối trật tự công cộng, tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ.v.v.v.