![]() ![]()
Fax: +493046795841 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
![]() ![]()
Fax: +493046795841 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Chuyện Tình Khoai Lang
Chuyện tình này có thật, rất là cảm động, đã được nhiều anh em biết tới. Theo đúng như những kết luận về chuyện tình thời cổ tích, hai vai chính tới nay vẫn còn sống, vẫn thương yêu nhau, gia đình thật là đầm ấm.
Chuyện tình yêu này thật là đẹp, thật là đáng ghi nhớ, hay hơn tất cả những chuyện tình yêu trên thế giới. Love Story của Mỹ cũng thua xa! Một câu chuyện tình yêu kéo dài cả ba năm trời, trong đó hai vai chính, một nam một nữ không hề quen biết nhau, không hề tiếp xúc với nhau, nhưng kết cục lại lấy được nhau thật là ngọt ngào. Câu chuyện tình yêu này đã được đặt tên là... Chuyện Tình Khoai Lang, theo lời kể của một chịến hữu Nhẩy Dù của tôi, như sau:
***
Ngày đó, vào khoảng năm 1977, tôi đang bị bọn VC bắt đi tù vì tội có ông Tổng Thống đầu hàng. Cả bọn tôi, đa số là các Sĩ Quan trẻ (cấp bậc từ Thiếu Úy tới Đại Úy) được tập trung ở trại Suối Máu, sau đổi qua Trảng Bom (Biên Hòa). Bọn VC độc ác bắt chúng tôi làm việc cật lực nhưng không cho ăn uống tử tế, thuốc men hoàn toàn không có . Ai sống được thì sống, ai về chầu ông bà ông vải thì cứ việc đi. Phương cách giết người này thật là độc ác, giết nguời mà không cần gươm súng. Mỗi ngày đi lao động bên ngoài, anh em cố gắng kiếm được thêm cái gì thì ráng mà kiếm để sống cho qua ngày. Có người lượm được cái trứng chim, bắt được con thằn lằn, rắn mối...cũng đã cho rằng mình có số sung sướng lắm rồi. Dân làng thì ở ngoài xa, thỉnh thoảng mới gặp một vài người. Bọn VC quái ác không cho dân tiếp xúc với anh em chúng tôi và cũng cấm tuyệt anh em chúng tôi không được lân la tới khu dân chúng. Đói, đói lắm, đói thê thảm, đói lả người ra! Nhưng anh em còn trẻ, sức chịu đựng cao, tinh thần càng cao hơn, nên ráng sống đợi một ngày mai tươi sáng.
Bọn VC khoe với chúng tôi: " Đảng ta đã . . . Đại Thắng Lợi"
Thì chúng tôi lại vui mừng nhìn nhau, nói trong ý nghĩ: "Anh em ta . . . Đợi Thắng Lại!"
Ruộng
mía,
khoai
lang,
khoai mì
của đồng
bào ở
chung
quanh
rất
nhiều,
nhưng
chúng
tôi
không
đụng
tới, vì
đó là
của dân,
mồ hôi
nước mắt
của họ.
Họ cũng
đói như
chúng
tôi vậy,
đâu thể
nào lấy
của dân
được.
Ngày
xưa,
chúng
tôi bảo
vệ họ,
ngày nay
không
làm gì
được nữa
nhưng
không vì
đói mà
mất tư
cách.
Đồng bào
biết
chúng
tôi đang
bị đầy
đọa, họ
cũng
thương
cảm lắm,
họ cũng
đã tìm
đủ mọi
cách mà
giúp đỡ
chúng
tôi. Bọn
VC cũng
biết như
vậy, cho
nên mỗi
lần phải
đưa
chúng
tôi di
chuyển
ngang
khu dân
cư, bọn
chúng đi
kè kè
sát bên,
không
cho ai
tiếp xúc
với ai.
Muốn mua
thêm ít
đường,
ít muối
cũng khó
lòng mà
làm
được!
Thế
nhưng
trời cao
còn có
mắt mà,
không
sao!
Miễn
được
thấy dân
là lòng
người
lính
thấy ấm
lại rồi!
Buổi
sáng hôm
đó,
chúng
tôi đang
trên
đường đi
lao
động. Từ
xa,
chúng
tôi đã
thấy khu
dân cư ở
đằng
trước,
và thấy
bóng
dáng
những
trẻ em,
những cô
gái đang
tung
lúa,
thẩy
khoai
lang ra
trước
nhà để
phơi.
Khi tới
gần
khoảng
chừng
chục
thước,
chúng
tôi thấy
một bóng
dáng phụ
nữ cầm
thúng
thẩy
khoai
lang ra
ngoài
đường
đi, chỗ
chúng
tôi đang
bước
thấp
bước
cao.
Chúng
tôi
tuyệt
đối
không
đụng tới
tài sản
của dân,
dù là
mấy củ
khoai
lang nhỏ
bé, nên
vẫn cứ
thế mà
bước
đều. Mấy
hôm sau,
khi đi
ngang
qua xóm
nhà này,
chúng
tôi lại
thấy
bóng
dáng
người
phụ nữ
này. Cô
cũng
dáng
điệu như
cũ, cầm
thúng
khoai
lang
thẩy ra
đường
đi. Lần
này cô
nói bâng
quơ:
- Má à, mấy đám khoai lang hư này, mình đâu có bán cho ai được! Thôi, dục bỏ, nha Má!
Cô vừa nói vừa thẩy khoai lang ra chỗ chúng tôi.
Cô đứng ở xa nói tới, chúng tôi cũng không đi gần nên chỉ nghe cô nói như vậy thôi. Nói là cô gái thì cũng là nói vậy thôi, chứ không thấy rõ hình dáng, nói chi tới mặt mày.
Mấy hôm
sau nữa,
chúng
tôi lại
có dịp
đi lao
động
ngang
qua khu
dân cư
này.
Chúng
tôi lại
thấy cô
gái hôm
trước.
Cô vẫn
đứng xa
xa,
nhưng
lần này
cô cố
tình cầm
khoai
lang
thẩy vào
chúng
tôi rồi
bỏ đi,
dáng vẻ
rất là
bình
thường.
Tối về
khu
trại,
chúng
tôi bàn
tán về
cô gái,
về những
củ khoai
lang mà
cô thẩy
ra
ngoài.
Chúng
tôi cùng
đồng ý
là thái
độ của
cô rất
lạ:
Không có
ai phơi
khoai
lang ở
chỗ
đường đi
đó, mà
cũng
không có
ai dục
khoai
lang
trên
đường đi
như vậy
cả.
Một người bạn - tên Phúc - đã nói với tôi:
- Tao
nghĩ
rằng cô
gái này
muốn cho
mình
những củ
khoai
lang đó.
Chứ nếu
cô muốn
dục đi,
thì
thiếu gì
chỗ dục.
Hơn nữa,
khoai
lang dù
là hư,
không
cho
người ăn
được thì
để cho
heo ăn,
dễ gì mà
dục bỏ!
Lần sau
nữa, khi
đi ngang
khu nhà
dân đó,
chúng
tôi lại
thấy cô.
Lần này
chúng
tôi
không
thấy cô
thẩy
khoai
lang ra
nữa, mà
đứng yên
ở phía
xa xa
chỉ trỏ
chỗ này,
chỗ kia,
ý như
muốn chỉ
cho
chúng
tôi
những củ
khoai
lang mà
cô đã
thẩy ra
trước
đó.
Tối về, chúng tôi lại có dịp bàn tán. Phúc nói với tôi:
- Tao có nhìn thấy mấy củ khoai lang ngay trên đường mình đi. Tao thấy khoai lang kỳ này cũ rồi, không tươi như bữa trước nữa. Tao nghĩ rằng, cô thẩy ra cho tụi mình lượm, nhưng không ai lấy, nên cô lại thâu lại để dành, bữa nay thẩy ra nữa. Chắc chắn là cô cho tụi mình đó, tụi mày đồng ý không?
Tất cả cùng có ý nghĩ đó! Chắc là cô còn có lòng thương những người lính sa cơ đói khổ, mà tặng những củ khoai lang ăn lót lòng. Củ khoai lang nhỏ nhoi không đáng là bao, nhưng tấm lòng của cô thật đáng quý! Chẳng có ai ở không mà chờ anh em chúng tôi đi gần tới mới thẩy khoai lang ra. Cũng chẳng có ai có nhiều khoai lang để mà thẩy chơi như vậy. Chắc chắn là khi chúng tôi đi khỏi, cô lại thâu lại những củ khoai đó mà để dành thẩy lại cho chúng tôi vào ngày hôm sau. Anh em chúng tôi cùng đồng ý là kỳ tới, nếu có đi ngang khu nhà dân, nếu cô còn có lòng hảo tâm mà thẩy khoai lang ra, chúng tôi sẽ chia nhau lượm.
Dịp may đã tới, chúng tôi lại có dịp đi ngang khu nhà dân cũ, và lại thấy bóng dáng cô từ xa. Cô lại thẩy khoai lang ra rồi bỏ đi. Chúng tôi đã bàn với nhau trước rồi, nên chia ra làm nhiều toán nhỏ: Toán đi trước bao chung quanh đám quản giáo để chúng khỏi nhìn thấy phía sau, toán thì đi chậm chậm lượm thật lẹ những củ khoai lang bỏ vào giỏ xách thật nhanh. Lính mà! Chúng tôi thanh toán chiến trường khoai lang lẹ lắm, không thua gì những lúc thanh toán bọn quỷ đỏ trên chiến trường trước đây.
Buổi trưa hôm đó, chúng tôi lại chia ra nhiều toán để dắt bọn quản giáo đi ra xa, trên đầu gió, để đám còn lại lo nướng khoai . Đói lòng ăn được củ khoai lang. Ôi, sung sướng nào hơn!
Đám này
ăn xong
thì lại
ra canh
bọn VC
để đám
kia trở
lại ăn
những củ
khoai
lang
tình
nghĩa
đó. Lần
sau đi
ngang
khu nhà
dân, đến
phiên
Phúc lo
lượm
những củ
khoai
lang của
cô gái
hảo tâm.
Buổi
trưa,
Phúc nói
nhỏ với
tôi:
- Đúng
như tao
dự đoán,
mày ạ!
Kỳ này
cô ta
cho mình
toàn là
khoai
mới, bự
và ngon
hơn
khoai
bữa
trước
nhiều
lắm!
Chắc cô
đã núp
đâu đó,
thấy
mình đã
lượm hết
khoai kỳ
trước
nên mới
đưa
khoai
lang mới
ra đó!
Nhờ những củ khoai lang đó mà anh em chúng tôi có thêm sức khỏe. Nhờ ở cảm tình mà người dân đã dành cho chúng tôi qua củ khoai lang mà chúng tôi thêm được sức mạnh để chịu đựng cực khổ, chờ đợi ngày mai trời lại sáng. Chúng tôi ăn những củ khoai lang đó của cô gái tốt bụng, nhưng chỉ nhìn thấy dáng của cô từ phía xa xa mà thôi, chứ chưa bao giờ được nhìn thấy mặt cô cả. Cũng chỉ duy nhất có một lần được nghe giọng nói của cô mà thôi.
Thời gian cứ thế trôi qua, chúng tôi vẫn sống, vẫn hiên ngang với đời.
Rồi ngày mai đã tới, ngày tôi và Phúc được bọn VC trả về nguyên quán. Chúng nói là chúng tôi đã... học tập tốt. Nhưng đối với chúng tôi, với riêng tôi và Phúc, chúng tôi vẫn vậy. Muôn đời chúng tôi vẫn là người lính VNCH và càng căm thù bọn Việt Cộng hơn bao giờ hết. Tôi được gia đình lo liệu sẵn, một thời gian ngắn sau khi về lại nhà, tôi đã may mắn vượt biên trót lọt và qua định cư ở Melbourne xứ Úc Đại Lợi.
Tôi cũng có nghe bạn bè nói, Phúc cũng đã vượt biên và hiện ở Sydney, cùng xứ Úc với tôi.
Một ngày đẹp trời vào năm 1990, vợ chồng tôi có dịp đi Sydney và đã ghé thăm Phúc.
Bạn bè ngày xưa gập nhau mừng mừng tủi tủi, nói chuyện huyên thuyên - Chuyện xưa còn đó, nhưng bạn bè nay đâu? Thằng nào còn sống? Thằng nào chết trong trại tù? Thằng nào vượt trại? Thằng nào vượt biên? Đi đâu?
Cuối cùng mới tới chuyện đời sống hiện tại. tại.
- Mày lấy vợ hồi nào? Lấy từ hồi ở VN hay qua đây mới lấy? Bao nhiêu đứa con rồi? Đứa lớn bao nhiêu? Đứa nhỏ mấy tuổi. Chúng tôi nói như chưa bao giờ được nói.
Phúc kể, đã lấy vợ từ hồi ở VN, hai vợ chồng cùng vượt biên qua đây. Vợ của Phúc chỉ cười cười khi nghe chồng giới thiệu là tôi ở cùng trại tù với anh từ năm 1977.
Một lúc sau, vợ Phúc bưng ra một đĩa mà Phúc nói rằng rất đặc biệt: Khoai lang Dương Ngọc!
- Ăn đi
mày, ăn
để nhớ
lại cái
thời bị
tù đầy,
bị bọn
VC vo
tròn bóp
méo!
Tôi sáng
mắt lên,
vồ lấy
củ khoai
lang, ăn
không
kịp bóc.
Tại sao
lại phải
bóc vỏ?
Vỏ khoai
cũng là
khoai
vậy! Tại
sao lại
vứt bỏ
đi?
Bao nhiêu kỷ niệm xưa quay trở lại. Tôi cũng đã kể chuyện khoai lang cho vợ tôi nghe nên tất cả đều cùng nhau góp lại chuyện xưa. Tôi vừa ăn vừa ngậm ngùi:
- Không biết cô gái đã cho mình những củ khoai lang đó, bây giờ ra sao? Có ai biết cô đó là ai không? Cô ta còn ở đó hay đã trôi nổi đi phương trời biền biệt nào rồi?
Phúc trầm ngâm một lúc rồi trả lời tôi:
- Cô gái cứu sống mình bằng những củ khoai lang... đang ở trước mặt mày đó! Tao cưới cổ rồi!
Thật là không ngờ! Vợ chồng tôi ngạc nhiên tới há hốc miệng, rớt cả củ khoai lang ra ngoài:
- Mày... mày nói cái gì? Cô này đây... vợ mày đây... là... là cô gái cho tụi mình khoai lang ở Trảng Bom? Mày... nói chơi hay... nói dỡn vậy? Thiệt không? Làm sao mà mày kiếm ra cổ ? Mà... phải thiệt là cổ không? Làm sao mày biết là cổ mà dám nói là cổ ? Dám lấy cổ?
Vợ Phúc (Dung) mỉm cười giải thích cho chúng tôi:
- Em đâu có gueng, đâu có biết ảnh là ai đâu! Tự dưng ảnh tới kiếm em rồi... hỏi cứ (cưới) em đó chớ!
Phúc giải thích rõ ràng hơn:
- Khi còn ở trong trại tù, mình đã nói chuyện với nhau thật nhiều về cô gái đó, tao thầm cám ơn cô đã còn nghĩ đến những người lính VNCH đang mắc nạn. Tao đã nghĩ trong đầu rằng, nếu có dịp trở về, thế nào cũng đi tìm cô gái đó mà cảm ơn. Nếu cô ta còn độc thân, tao sẽ cưới cô ta làm vợ. Mặc dù chỉ với một hành động nhỏ nhoi tặng những củ khoai lang cho chúng ta, nhưng cô đã chứng minh được rằng, cô là người chống lại bọn VC, cô là người đã còn nhớ đến người lính VNCH xưa. "Miếng khi đói bằng gói khi no" mà! Mình đang sa cơ mà còn có người dám nghĩ tới mình, thì làm sao mà không cảm động cho được? Đến khi được thả về, tao trở ra Phan Thiết ở với cha mẹ anh em một tuần, thì nói với ba má là tao kiếm đường làm ăn. Tao quay trở lại Biên Hòa, đi vào khu Trảng Bom, nói với Tổ Trưởng vùng đó là tao ở Biên Hòa, muốn về làm rẫy, mua đất trồng khoai lang. Ông này dẫn tao đi giới thiệu với những gia đình đang trồng khoai lang, có dư đất muốn bán. Nhà nào tao cũng vào làm quen để hỏi mua đất, hỏi kỹ thuật trồng khoai, nhưng mục đích chính là kiếm cho ra cô gái đó. Tao cũng như mày, như những anh em trong trại, đâu có ai biết mặt mũi cô ra làm sao? Ngay cả dáng người cũng không nhìn được, nên khó kiếm hết sức. Nhưng tao còn nhớ được giọng nói của cô ta khi nói: "Má à, khoai lang của mình hư hết rồi, không bán được đâu, dục đi nha Má!" Tao nhớ có nhiêu đó thôi. Rồi duyên số cũng giúp cho tao kiếm ra bả. Buổi chiều hôm đó, khi tao đã hết hy vọng kiểm cổ rồi, đang trên đường đi tới nhà Tổ Trưởng chào từ giã. Chợt tao đi ngang qua một căn nhà ở cuối xóm, thấy một cô gái đang gom khoai lang bỏ vô thúng. Tao ngừng lại hỏi bâng quơ:
Cô lựa khoai lang đem bán hả?
- Cô này không quay lại, vừa tiếp tục lựa khoai, vừa trả lời:
- Tui
lựa
khoai
lang dư
đặng mai
đem thẩy
cho mấy
người
lính
"học tập
cải
tạo".
Tao thấy
coi bộ
trúng
mối rồi,
bèn hỏi
tới:
- Khoai lang trồng cực khổ mới có. Bộ cô có bà con đang học tập trong đó hay sao mà lại cho họ khoai lang?
- Tui đâu có gueng ai ở trỏng đâu! Bị tui thấy họ tội nghiệp thì tui giúp đở chúc ít dzậy mà! Hồi xưa, mấy người này đi lính để giữ cho làng xóm được yên, khỏi bị bọn VC phá đám giết hại người ta. Nay những người này bị bắt ở tù, mình phải nhớ ơn họ, phải giúp họ chớ! Hổng giúp được nhiều thì có mấy củ khoai lang cũng giúp họ chút đỉnh dzậy mà!
Mới nghe bả nói là tao nhớ lại liền. Đúng y là giọng nói "Má à, đám khoai lang này hư rồi . . ." mà tao nhớ không bao giờ quên. Tao lại còn kỹ càng hỏi cho ra lẽ tại sao bả lại giúp mấy đám tù cải tạo như mình? Nghe bả trả lời ngon lành như vậy là tao chịu quá đi, nhất định giá nào cũng phải làm quen, nếu được, sẽ cưới bả làm vợ. Lính mà! Dễ lắm! Giản dị lắm: "Hễ ai thương lính là lính thương lại liền".
Tao lại
đang
trong
tình
trạng
độc
thân...
"Tròn
năm năm
lính,
chưa hề
có bạn
tâm
tình".
Tới
luôn!
Tao đi
tới đi
lui
nhiều
lần làm
quen với
bả, với
gia đình
bả, nói
là xin
học làm
rẫy. Khi
biết rõ
gia đình
bả, và
biết bả
còn đang
độc
thân,
chưa có
đám nào,
tao mới
trở về
Phan
Thiết kể
lại
chuyện
của bả
cho ông
bà già
tao nghe
và nói ý
định
muốn
cưới cô
gái quê,
nhưng có
lòng
thương
lính đó.
Ba má
tao đồng
ý tao
muốn lấy
ai thì
lấy,
miễn là
hai vợ
chồng
hạp với
nhau là
được
rồi.
Nhưng mà
cô đó có
lấy tao
hay
không
thì lại
là
chuyện
khác
nữa. Tao
trở lại
nhà Dung
phụ làm
rẫy
tiếp.
Trong
một bữa
nghỉ
trưa ở
ngoài
ruộng,
chỉ có
một mình
tao với
bả, tao
mới nói
rõ tao
là ai?
Đã cảm
cái tấm
lòng của
bả và
muốn
được
cưới bả
làm vợ.
Bả rất
ngạc
nhiên mà
nói với
tao, y
như bả
vừa mới
nói với
mày vậy:
- Tui
đâu có
gueng
biếc gì
anh đâu?
Tui cho
mấy anh
khoai
lang là
cho
nguyên
đám đó
chớ đâu
phải cho
một mình
anh! Bị
tui nhớ
hồi xưa
mấy anh
đã đi
lính giữ
làng xóm
tụi tui,
chứ tui
đâu có
biết anh
ở trỏng
đâu? Mà
anh . .
. cứ
(cưới)
tui làm
chi?
Làm chi
thì tao
không
biết làm
chi,
nhưng
tao nói
tao cảm
tấm lòng
của bả
mà cưới
bả, vậy
thôi.
Tao nói:
- Ít ra
thì anh
với em
cũng còn
giống
nhau ở
một điểm
là
"THƯƠNG
LÍNH".
Nói ba
điều bẩy
chuyện
một hồi,
bả cũng
không
biết nói
sao nữa,
kêu tao
muốn gì
thì về
nói
chuyện
với ba
má cổ,
chứ
cổ...
hổng
biết.
Vậy là
chịu
rồi! Tao
mừng
quá, cả
hai đưa
nhau về
gập ông
già bà
già của
bả, tao
lại kể
rõ lai
lịch của
tao ra
và xin
đưa cha
mẹ tới
xin cưới
Dung.
Hai ông
bà ngạc
nhiên
hết sức,
cuối
cùng nói
là:
- Nếu vậy đúng là duyên số rồi. Con Dung nhà tui nó đâu có gueng biếc gì ông đâu. Nó xin tui ít phai lang, nói là để cho mấy ông bị tù cải tạo, tội nghiệp mấy ổng quá. Ai dè có ông ở trỏng, ông thương nó, ông được dzìa rồi thì ráng lội bộ đi cùng khắp chốn kiếm cho ra nó đặng xin 'cứ' nó! Đó là do Ông Tơ Bà Nguyệt cột đó, chứ hổng có ai bầy ra được đâu!
Tụi tao định ngày, đưa cha mẹ tao tới làm đám hỏi, xong rồi mới mời ổng bả và Dung về nhà tao chơi. Tới Phan Thiết, thấy nhà cửa của ba má tao thì ổng bả và Dung hoảng hồn, vì nhà tao hồi đó cha mẹ cũng còn nhà cửa, cơ sở làm ăn khá lắm! Dung đã nghéo tao ra sân mà nói:
- Nhà anh giào như zậy, mà anh cứ tui là gái guê làm chi? Thôi, thả tui zìa Trảng Bom tui làm rẫy sướng hơn!
Tao phải nói khó với bả:
- Mấy thứ đó là của cha mẹ anh, chứ anh... "Trên Răng Dưới . . . Dế ", đâu có cái gì nữa đâu! Có cái mạng cùi cũng nhờ em cho mấy củ khoai lang mới còn sống tới ngày nay. Mà em đừng có lo, mình còn đủ chân đủ tay, mình tự làm mà nuôi thân, chịu không?"
- Anh nói dzậy thì tui chịu!
Chịu hay không chịu thì cũng trễ rồi! Lính đã nói là Lính làm:
- Em có ý kiến nhiêu đó là đủ rồi, mọi thứ còn lại để anh lo, đừng có lộn xộn gì hết nữa!
Rồi tụi tao làm đám cưới. Cưới xong, tao lo đường vượt biên. Ông bà già vợ thẩy một mớ khoai lang lên tàu, vậy là tụi tao dông. May mắn cho tụi tao, trời yên bể lặng. Sau bốn ngày lênh đênh trên biển, tàu tụi tao cặp được tới Bidong. Tao chọn đi Úc cho nó lẹ và an toàn. Khoảng hai tháng sau tụi tao tới Sydney, gởi điện tín cấp tốc về cho ông bà già tao hay. Hai ổng bả mừng quá, lập tức mướn xe chạy tới Trảng Bom cho ba má Dung hay. Ba Má Dung cũng mừng quá, xá trời xá đất cám ơn lia chia. Ba của Dung cười lớn:
- Dzậy là thằng rể tui khỏi sợ bị Diệc cộng bắt cải tạo nữa rồi ha!
Má của Dung hỏi thêm:
- Ở bển có đất cho tụi nó trồng khoai lang hông dzậy, anh chị sui?
Tụi tao ở bên đây thì cũng giống như tụi bay vậy, ra sức làm mà lo cho gia đình, con cái, lo cho cha mẹ bên Việt Nam. Tụi tao có hai con rồi. Bây giờ bả hết dám hỏi:
- Anh " cứ " tui làm chi, nữa rồi.
Tụi tao lo làm nuôi con ná thở, đâu còn thì giờ mà hỏi nữa! Hỏi nữa tao để ........ đẻ nữa!