Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650

www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de

 

Chúng Ta C̣n Thua Kém Nhiều Dân Tộc Khác Trên Thế Giới

Chúng Ta C̣n Thua Kém Nhiều Dân Tộc Khác Trên Thế Giới

 

Người viết:  psonkhanh

Người chuyển bài:  Súng Trường

Người sao lại: Súng Đại Bác

Người chuyển tiếp: Thương Ṇi


Khi nh́n ra thế giới, nói chung, chúng ta c̣n thua kém nhiều dân tộc khác. Thế nên, xin miễn được đề cao người ḿnh, những cái hay cái tốt mà nhiều người đă nói tới, mà hăy cùng nhau nh́n thẳng vào khuyết điểm của ḿnh để may ra có sửa chữa, thăng tiến hơn không.

Thấy người mà nghĩ đến ta: Chúng ta phải quan tâm nhiều hơn và đúng mức đến các vấn đề của dân tộc, v́ rằng, nói chung dân tộc ta kém xa các dân tộc tiến bộ khác trên thế giới. C̣n lư do tại sao chúng ta kém, chúng ta cần thẳng thắn nh́n vào sự thực. Đă có hằng trăm cuốn sách khen ngợi người Việt rồi, nếu chúng ta tự măn với những điều đó, liệu chúng ta khá lên không, hay từ bao trăm năm qua vẫn thế? Văn hóa Việt có những ưu khuyết điểm nào? Ai cũng biết một số ưu điểm, nhưng phải biết khai thác ưu điểm và quan trọng hơn là nh́n thẳng vào khuyết điểm lớn để sửa chữa ngay.

Ai chẳng tự ái, muốn bênh vực dân tộc ḿnh, nhưng nh́n lại từ thời hữu sử tới nay đă hơn 4.000 năm qua, chúng ta chỉ có một số thời gian ngắn yên b́nh thịnh trị, c̣n hầu hết là chiến tranh, không nội chiến th́ ngoại xâm. Nội chiến v́ chúng ta chia rẽ, c̣n ngoại xâm v́ chúng ta ở một vùng địa lư chính trị quan trọng mà lại không biết giữ. Tại sao dân tộc ta cứ măi măi lầm than, khốn khổ như vậy?

Học giả Trần Trọng Kim viết trong cuốn Việt Nam Sử Lược, trang 6: “Về đàng trí tuệ và tính t́nh, th́ người Việt có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái th́ trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quư sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy, vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác chế nhạo. Thường th́ nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn có sự ḥa b́nh, nhưng mà đă đi trận mạc th́ cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.”

Trong cuốn Đất Lề Quê Thói (Phong Tục Việt Nam) trang 68, Học giả Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu cũng nhận xét: “Người ḿnh phần đông thường ranh vặt, qủy quyệt, bộ tịch lễ phép mà hay khinh khi nhạo báng. Tâm địa nông nổi, khoác lác, hiếu danh…”

Đại văn hào Lỗ Tấn của Trung Quốc đă từng ví người Hoa như ba con vật: “Tàn bạo như Sư tử, gian xảo như Hồ ly, nhút nhát như Thỏ đế...”

Không v́ những ư kiến thẳng thẳn đó mà dư luận người Hoa cho rằng ông bôi bác hay phản bội dân tộc. Tuy mỗi người nh́n và đặt vấn đề một cách khác nhau, nhưng họ có chung niềm trăn trở và chúng tôi công nhận là họ đă can đảm nói lên những điều xấu của người ḿnh, là một trong những điều tối kỵ, ít ai dám nói tới. Đôi khi chúng ta cần gạt bỏ tự ái để nh́n thẳng vào sự thật, cố gắng sửa chữa để tiến thân, cho ḿnh cũng như cho dân tộc. Tôi thấy hơn bao giờ hết, đây là dịp người Việt thẳng thắn nh́n lại người ḿnh,cởi mở và dọn ḿnh để mang tâm thức lớn, cùng nhân loại bước vào thế kỷ 21. Nói vậy chứ cũng đă trễ lắm rồi, bây giờ mà sửa soạn th́ may ra vài chục hay cả trăm năm sau mới bắt đầu có kết quả.

 

Người Việt có những tính tốt nào?

Người Việt hiếu học ư? Cũng hiếu học đấy, nhưng vẫn chỉ là một số nào đó, một số lớn vẫn ít học, cho là nghề dạy nghề, tức tùy tiện tới đâu hay tới đó. Mà đa số trong số hiếu học ấy vẫn mang nặng tinh thần từ chương, quan lại, trọng bằng cấp từ ngàn xưa. Họ học để t́m sự giàu có, phong lưu cho bản thân và gia đ́nh hơn là giúp đời. Họ được gọi là trí thức, nhưng chỉ biết tri thức chuyên môn, hầu như họ sống cách biệt, không dính ǵ tới đại đa số đồng hương mà họ cho là thấp kém. Kiến thức tổng quát của họ là một mớ hời hợt, thường có được là qua những buổi trà dư tửu hậu, chứ không qua sách vở nghiêm túc. Nói chi tới dân thường, có nhiều người cả năm không mua một cuốn sách,một tờ báo. Họ chỉ thích nghe lóm và chỉ đọc sách báo khi có ai đó mua th́ mượn đọc ké thôi. Người ḿnh lại suy nghĩ thiếu khoa học nên dễ tin, đọc một bản tin trên báo hay nghe truyền miệng mà đă tin, nên dễ bị kẻ xấu lừa.

Cứ nói người dân ḿnh thích đọc sách và ham học lắm, nhưng tôi có cảm tưởng không phải như thế. Thực ra, dân ḿnh mê khoa bảng, kiếm chút bằng để kiếm ăn. Sách in ra đa số nhận rất ít phản ứng… Việc đọc sách chưa được xă hội hóa, hàng tháng không có thông tin về sách mới ra, không giới thiệu, không phản hồi, không thống kê, giới viết và đọc không hội họp….

Nhờ tới họ việc ǵ, luôn luôn họ giẫy nẩy lên trả lời là bận lắm, bận lắm; Biết họ bận ǵ không? Họ bận kiếm nhiều tiền để mua nhà, mua xe, chứng tỏ sự thành đạt của ḿnh với chung quanh. Để tỏ ra là cha mẹ có trách nhiệm, họ luôn luôn bận lo cho tương lai học hành của con cái, thúc đẩy con học những ngành yên ấm mà kiếm được nhiều tiền chứ không tạo cho chúng tinh thần xă hội, góp phần xây dựng đất nước… Họ lúc nào cũng bận quây quần với vợ con, bận tụm đám bạn bè vui chơi!!! Người Việt luôn nặng t́nh cảm, đôi khi đến độ che mờ lư trí.

Chúng ta có được tinh thần gia đ́nh thương yêu, đùm bọc khá cao, nhưng qua những cuộc đổi đời mới đây, một số gia đ́nh cũng bắt đầu tan nát.Tinh thần hiếu khách, dù là nhà nghèo, nhưng hầu hết người Việt có ǵ cũng sẵn sàng đem ra cho khách dùng.

 

Người Việt có những tính xấu ǵ?

Có thể nói là thiếu ư chí, thiếu sáng tạo, thiếu tinh thần khoa học, thiếu nghiên cứu, thiếu mạo hiểm, thiếu tầm nh́n xa, nói dối quanh, ít nhận lỗi, thiếu trật tự, thiếu nguyên tắc, thiếu tôn trọng của công, ăn cắp vặt, tự cao, tự ty, ỷ lại, thù dai, nặng mê tín, mau chán, thiếu tinh thần dân chủ v́ độc đoán ít dung hợp ư kiến người khác, lúc nào cũng có cả trăm lư do để trễ hoặc không giữ lời hứa, nặng t́nh cảm mà thiếu lư trí, tinh thần địa phương, tôn giáo… Nhưng đáng kể là thói ích kỷ và nhất là đố kỵ làm trầm trọng thêm sự chia rẽ, đó là những cố tật lớn nhất đă làm cho người Việt không đoàn kết, hợp quần, tiến nhanh lên được. Xin hiểu cho là cà một dân tộc th́ có người nay người kia, nên nói như thế không có nghĩa mọi người như vậy và một người đồng thời có tất cả những tính xấu ấy cùng lúc.

Tại sao trong khi hầu hết người Nhật và Hoa thường t́m đến cộng đồng của họ th́ có một số khá nhiều người Việt t́m cách xa lánh nếu không muốn nói là sợ chính cộng đồng của ḿnh (trừ khi gặp khó khăn cần giúp đỡ)? Chúng ta không thể thay đổi truyền thuyết chia ly giữa Lạc Long Quân và bà Âu Cơ, hẹn khi cần mới gọi nhau hợp sức. Tức là b́nh thường th́ chia rẽ, chỉ khi không sống được mới đoàn kết, rồi lại chia rẽ. Nhưng chúng ta, bằng ḷng thành và ư chí phải vượt qua “định mệnh” không hay này.

Về bản thân người Việt, thân h́nh nhỏ bé, tuổi thọ thấp, sức lực kém,không bền bỉ, mà làm việc lại hay qua loa, tắc trách, đại khái nếu không nói là cẩu thả, nên nói chung năng suất kém.Chúng ta thử nh́n xem, trong bất cứ một nhà ăn quốc tế như ở các trường Đại học có nhiều nhóm người thuộc nhiều nước th́ nhóm nào nhỏ người nhất, lộn xộn và ồn ào nhất có nhiều phần chắc đó là nhóm người Việt. Nhóm này c̣n thêm cái tật hút thuốc, xả rác khá bừa băi nữa.

Nay đă là đầu thế kỷ 21, thử nh́n việc lưu thông ở các thành phố lớn Việt Nam xem. Thật là loạn không đâu bằng. Người ngoại quốc nào đến Việt Nam cũng sợ khi phải ḥa ḿnh vào ḍng xe cộ đó, và nhất là khi băng qua đường. Tỷ lệ tai nạn xẩy ra rất cao, ai cũng ta thán, thế mà bao năm qua vẫn mạnh ai nấy chạy, mạnh ai nấy đi. Những ngă năm, ngă bảy xe đông nghẹt mà hầu như không chia làn đường, nhiều nơi không có bệ tṛn để đi ṿng, không cảnh sát hướng dẫn lưu thông, Từ mọi phía xe cứ đổ dồn thẳng vào rồi mạnh ai người nấy t́m đường tiến lên. Đă cấm đốt pháo được mà sao tệ nạn lưu thông đầy rẫy, mỗi một chuyện cỡi xe gắn máy phải đội nón an toàn đă bao năm qua vẫn chưa giải quyết được.

Sống trong xă hội mà dường như có rất đông người Việt hầu như không muốn bất cứ một luật lệ nhỏ nào ràng buộc ḿnh. Cứ làm đại, làm càn rồi tới đâu hay tới đó!? Tôi vẫn nghĩ, một dân tộc có văn hóa cao, thực sự hùng mạnh không thể nào nẩy sinh ra lănh đạo tồi và chỉ biết xâu xé nhau.

Chính tính xấu chung của người Việt mới nẩy sinh ra lănh đạo tồi và chia rẽ mà sinh ra chiến tranh, chiến tranh mới đào sâu thêm hố chia rẽ và làm lụn bại dân tộc. Thất phu hữu trách mà, vận nước hôm nay là trách nhiệm chung của mọi người, không chỉ có người lănh đạo mà người
dân cũng chung trách nhiệm. Thử nh́n các lănh vực văn, thơ, nhạc của chúng ta mà xem, đâu đâu cũng than mây khóc gió là chính. Đồng ư là có nhiều chuyện buồn nên sáng tác nội dung buồn, nhưng buồn măi vậy ích lợi ǵ, sao không t́m cách giải quyết cái buồn. Có biết đâu những tư tưởng yếm thế đó càng làm cho t́nh h́nh xấu thêm. Nếu có tư tưởng nào tích cực th́ muôn đời vẫn chỉ thuần là tư tưởng, v́ chính tác giả của tư tưởng ấy chỉ viết hay nói ra cho sướng, nói ra để lấy tiếng với đời, chứ chính họ không có trách nhiệm thực thi.

Những ǵ cụ Phan Bội Châu báo động, kêu than trong cuốn “Tự Thán” đă gần một thế kỷ qua mà như đang xẩy ra quanh đây thôi.

Nếu chúng ta không có can đảm trị căn bệnh ngàn năm của ḿnh th́ dù có hết chiến tranh, dân Việt vẫn măi măi khó mà vươn lên được. Chí sĩ Phan Bội Châu đă hy sinh cả cuộc đời v́ nước, vào sinh ra tử không tiếc thân, thế mà trong cuốn “Tự Phán”, cụ đă thẳng thắn nhận đủ thứ lỗi về phần ḿnh. Cụ hối hận nhất là không đủ tri thức về ngoại ngữ và t́nh h́nh thế giới. Nhưng trong đó, cụ cũng không quên nêu lên một số khuyết điểm chính của người ḿnh thời đó. Như người lănh đạo không lo cứu nước, dân không lo việc nước. Chỉ tranh thắng với nhau trên bàn cờ, hay cốc rượu, mà bỏ mặc vận nước cho ngoại xâm giày xéo…

Ai cũng biết, Nhật Bản là một đảo quốc, đất hẹp, dân đông, nhưng người Nhật đă khéo léo thu thập tinh hoa thế giới để bồi đắp quê hương ḿnh trở thành một cường quốc, đôi khi vượt qua cả những nước bậc thầy của họ trước đó. Thật là hiện tượng hiếm có, không mấy dân tộc nào làm được. Nhật Bản có thể ví như một nhà nghèo mà đông con, thế mà đă nuôi được cho tất cả các con ăn học thành tài. Nên đây thật là tấm gương lớn cho người Việt chúng ta học hỏi vậy. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, Việt Nam và Nhật Bản thời cận đại và hiện đại đă có những chọn lựa hướng đi khác nhau.

Khi Pháp đ̣i Việt Nam mở cửa và đe dọa bằng cách bắn phá đồn Đà Nẵng năm 1856, Việt Nam đă chủ trương bế môn tỏa cảng. Thế nên năm 1858, Pháp đem 14 tàu chiến và 3.000 lính đến bắn tan đồn lũy Đà Nẵng. Phía Việt Nam chống cự đến cùng, để rồi bị thua và toàn quốc bị đô hộ 80 năm. Chúng ta có tính can trường và bất khuất, nhưng thiếu khôn ngoan về một tầm nh́n xa cho đất nước chăng? Đặc biệt Việt Nam hầu như chỉ dựa vào một cường quốc, khi sợ nước nào th́ chỉ dựa theo nước đó, thiếu tầm nh́n toàn diện.

Thật vậy, khi thấy Pháp mạnh th́ bỏ Trung Hoa theo Pháp, rồi theo Nhật Bản, theo Hoa Kỳ hay Liên Xô. Theo đuổi chính sách như vậy, dễ bị một cường quốc lấn át và khi các cường quốc này yếu đi th́ hoang mang, không biết trông vào đâu. Sau Thế chiến Thứ II, thế giới có phong trào
giải thực, hàng chục quốc gia được độc lập một cách dễ dàng, riêng một số nhà lănh đạo Việt Nam chọn con đường chiến tranh, hy sinh khoảng 4 triệu người và 30 năm chiến tranh. Điều này đă khiến quốc gia bị tụt hậu, trở thành chậm tiến và nhất là phân hóa, chưa biết bao giờ mới hàn gắn được.

Tại sao Việt Nam ở bao lơn Thái B́nh Dương, vị trí địa lư chính trị cực kỳ quan trọng như vậy mà chỉ trở thành mục tiêu cho các đế quốc xâm lăng, c̣n không học hỏi để tự vươn lên được? Tại sao các đế quốc nh́n ra vị thế quan trọng của Việt Nam mà chính người Việt lại không nh́n ra và tự tạo cho ḿnh một vị thế tương xứng như vậy? Tại sao người Việt đă đầu tư quá nhiều vào chiến tranh mà chúng ta vẫn thiếu hẳn một đường hướng xây dựng, phát triển quốc gia thích hợp? Với lối phát triển quốc gia trong nhiều thế kỷ qua, bao giờ Việt Nam mới theo kịp các nước trung b́nh trên thế giới, tức ngang với tầm vóc đáng lẽ phải có về dân số và diện tích của Việt Nam?

Trong lúc đó, năm 1853, khi bị Hoa Kỳ uy hiếp, Nhật Bản cắn răng chịu nhục, quyết định bỏ chính sách bế môn tỏa cảng. Nhưng họ mở rộng ngoại giao, không chỉ với Hoa Kỳ mà với cả ngũ cường, thêm Anh, Pháp, Nga, Đức… mặt khác, họ cố gắng học hỏi ở các nước ấy, để 30, 40 năm sau
vươn lên ngang hàng. Nhưng Nhật đă bắt chước các đế quốc, đi vào con đường chiến tranh sai lầm, góp phần gây nên Thế chiến Thứ II, hy sinh khoảng 3,1 triệu người và đất nước tan hoang. Sau Thế chiến Thứ II, Nhật Bản đứng trước một tương lai cực kỳ đen tối chưa từng có. Nhưng họ đă chọn con đường xây dựng quốc gia bằng ḥa b́nh, cố gắng làm việc, chỉ 25 năm sau, Nhật Bản lại trở thành cường quốc.

Giờ đây, vận nước vẫn c̣n lênh đênh, mà người lănh đạo lẫn người dân, nhiều người vẫn như xưa, chưa thức tỉnh. Đặc biệt, nay có cả mấy triệu người được ra nước ngoài, tri thức thăng tiến bội phần, nhưng chỉ có một phần nhỏ quan tâm tới cộng đồng và đất nước, c̣n phần lớn mạnh ai nấy lo làm giàu cá nhân…

Vài năm trước, tôi có được đọc trong một cuốn sách, đại ư thuật lại lời một người trí thức Nhật với một người Việt ở Việt Nam ngay sau khi Thế chiến Thứ II vừa chấm dứt năm 1945. Người Nhật ấy nói rằng, v́ thua trận, từ nay đất nước Nhật Bản bước vào thời kỳ đen tối, c̣n Việt
Nam sẽ thoát khỏi nạn thực dân, được độc lập và tương lai sáng lạn. Nghĩ vậy, thế nhưng người Nhật đă cố gắng phục hưng đất nước một cách nhanh chóng. Trong khi đó, t́nh h́nh Việt Nam đă không diễn biến như hoàn cảnh thuận lợi cho phép.
Tại sao có điều nghịch lư là sách giáo khoa Nhật Bản viết nước Nhật vốn “rất nghèo tài nguyên”, mà nay người Nhật xây dựng thành “giàu
có”, c̣n sách giáo khoa Việt Nam có lúc viết nước Việt vốn “rừng vàng biển bạc” mà lại hóa ra “nghèo nàn”? Tại sao người Việt chỉ biết đem tài nguyên sẵn có và nông phẩm là thứ đơn giản và rẻ nhất đi bán? Dù ai cũng biết đây là thứ kinh tế mới chỉ ngang tầm thời Trung cổ.

Ngay nước gần chúng ta như Thái Lan cũng ở t́nh trạng tương tự, nhưng khéo ngoại giao hơn, không tốn xương máu mà vẫn giữ được ḥa b́nh để phát triển. Do đó, điều chúng tôi muốn nhấn mạnh là không chỉ thu học kỹ thuật của người, mà cần để ư đến văn hóa, là mặt tinh hoa tạo nên
tinh thần người Nhật hay người Đức. Có tinh thần mạnh th́ như họ, dù thua Thế chiến Thứ II, cũng nhanh chóng vươn lên. Tinh thần yếu th́ dù đất nước có giàu có cũng sẽ bị lụn bại đi như nhiều đế quốc trước đây trong lịch sử.

 

Vậy người Việt bị thua kém, tụt hậu v́ những khâu nào?

Tại sao đa số người Việt mua thực phẩm là món ăn vật chất hàng ngày, có thể mua nhạc hàng tháng để giải trí mà có khi cả năm mới mua một cuốn sách là món ăn tinh thần? Tại sao, năm 2007, người Việt dù có 3 triệu ở hải ngoại hay 85 triệu ở quốc nội, mỗi tựa sách (đầu sách) cũng chỉ in trung b́nh khoảng 1.000 cuốn? Như vậy người Việt có thực sự chăm t́m ṭi, học hỏi không? Nếu bảo rằng sách đắt th́ số người Việt tới thư viện sao cũng không cao. Nói chung, không có dân tộc nào tiến mạnh mà sách vở lại nghèo nàn. Bởi chính sách vở là kho kiến thức, làm nền tảng để phát triển. Người Nhật tiến mạnh được là nhờ họ biết tích lũy kinh nghiệm. Người đi trước khi học hỏi, họ ghi chép rất cẩn thận, sau này nhiều người trong số đó viết sách để lại cho người đi sau và cứ thế. Có những người Việt giỏi, nhưng không chịu khó viết sách để lại, nếu người ấy mất đi th́ bao nhiêu kinh nghiệm tích lũy hàng mấy chục năm cũng mất theo luôn, thật là uổng phí. Hơn nữa, ai cũng rơ, nếu hiểu biết chỉ được thu thập thuần bằng kinh nghiệm chưa hẳn đă là chính xác và phổ quát, lúc viết sách, người viết sẽ phải tham khảo rất nhiều, khi đó, từ các suy nghĩ cho tới dữ kiện mới dần dần được hoàn chỉnh hơn. Tại sao người Việt ở cả trong và ngoài nước được kể là học khá, nhất là về toán, mà không t́m ra một công thức hay có được một phát minh thực dụng đáng kể nào? Tại sao lúc nào cũng đầy người tụ ở quán cà phê và hiệu ăn mà không hề nghe có lấy được tên một nhà thám hiểm Việt Nam nào? Tại sao chúng ta thiếu hẳn óc t́m ṭi, mạo hiểm, nhẫn nại và cố gắng? Người ngoại quốc nào nghe người Việt nói cũng thấy lạ, thấy hay, v́ líu lo như chim, âm thanh trầm bổng như có nhạc. Bởi tiếng Việt có khoảng 15.000 âm với 6 dấu thinh/giọng, lên xuống như “sắc, huyền”, uốn éo như “hỏi, ngă”, rung động như “r”… thế nhưng, đa số người Việt không biết ǵ về nhạc lư cả. Trong khi tiếng Nhật rất nghèo nàn về âm, chỉ có 120 âm, mà đa số người Nhật rất giỏi nhạc, có nhiều nhạc trưởng ḥa tấu hàng quốc tế, c̣n đi sửa các dàn organ cho cả Âu châu… Người Việt hầu hết chỉ biết mua nhạc cụ chơi, tới khi hỏng th́ chịu, thấy t́nh trạng bết bát quá, chính người Nhật phải qua sửa giúp nhạc cụ của dàn nhạc giao hưởng Việt Nam khoảng đầu thập niên 90.

Trong tiến tŕnh phát triển quốc gia, cụ thể là trên b́nh diện kinh tế, từ khâu đầu tư, tụ vốn, lập công ty, khai thác nguyên liệu, nhiên liệu, nghiên cứu, sản xuất, cải tiến, quản lư phẩm chất, quản lư tài chính, quảng cáo, buôn bán, phân phối, bảo tŕ, tái biến chế, bảo vệ môi sinh… Tất nhiên làm ăn cá thể th́ người Việt thường chỉ mạnh ở khâu buôn bán nhỏ hoặc kinh doanh hiệu ăn lấy công làm lời.
Ngay khâu buôn bán, người bán thường chú trọng mua hàng ngoại hạng nhất về bán kiếm lời và người tiêu dùng cũng lo bỏ ra thật nhiều tiền t́m mua hàng ngoại hạng nhất để khoe mà nhiều khi không biết dùng hoặc không cần dùng tới!
Tại sao lại chuộng “hàng ngoại” đến như vậy? Hàng
hóa ở Việt Nam ngày nay khá nhiều, nhưng người Việt không tự sản xuất lấy được khoảng 10% trong cấu thành sản phẩm đó. “Sản xuất” nếu có, “hàng nội” nếu có, thực ra chỉ là đốt giai đoạn, dùng máy ngoại quốc rồi nhập vật liệu và làm gia công. Sau này, khi máy hư hỏng th́ lại
mua máy mới,
không dần dần tự chế máy thay thế như người Nhật hay người Hoa được. Cạnh tranh trong thương trường, người Việt thường t́m cách hạ nhau, coi thành công của người khác là thiệt hại của ḿnh; như bày cua trong rọ, cứ kẹp nhau để rồi kết quả là không con nào ra khỏi rọ được.

Người Mỹ có châm ngôn làm ăn đại ư rằng:

“Cạnh tranh là tự cải tiến sản phẩm của ḿnh chứ không phải bỏ thuốc độc vào hàng của người khác.”

Người Nhật th́ chủ trương:

“Khách là nhất. Khách nuôi nhân viên chứ không phải chủ, phải làm sao cho vừa ḷng khách.”

Sự phồn vinh rất “giả tạo” hiện nay ở Việt Nam

là do sự cởi mở về kinh tế, nhưng phần lớn là do tiền từ bên ngoài. Tới năm 2007, trong hơn 30 năm qua, Việt kiều gởi về khoảng 70 đến 80 tỷ Mỹ kim, cộng thêm một số tiền đầu tư trực tiếp và gián tiếp của ngoại quốc 100 tỷ Mỹ kim (trong các công tŕnh hợp doanh, phía đầu tư của Viện Nam chỉ chiếm khoảng 10% số này) và viện trợ ODA khoảng 20 tỷ. Với số tiền khổng lồ khoảng 200 tỷ đó chưa kể tổng sản lượng quốc dân (GDP) khoảng 500 tỷ do người Việt làm ra trong thời gian này, nếu có chính sách giáo dục, kinh tế tốt hơn và nhất là không bị quốc nạn tham nhũng th́ mức sống của người dân có lẽ đă gấp hai, gấp ba lần hiện nay, mức chênh lệch lợi tức giữa người thành thị và nông thôn sẽ không quá xa. Ở hải ngoại cũng vậy, với nhà cửa rộng lớn, xe hơi sang trọng tất nhiên do nhiều nỗ lực cá nhân, nhưng yếu tố chính cũng là do may mắn từ môi trường thuận tiện sẵn có, như thể “đẻ bọc điều, chuột sa hũ gạo”. Chứ xét về bản chất, không khác với người trong nước.

Phải chăng các điều trên chỉ là những câu hỏi luôn làm trăn trở, bứt rứt một số rất ít những người Việt có tâm huyết với sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Phải chăng c̣n đại đa số th́ không quan tâm và bằng ḷng với công việc buôn bán nhỏ hay đi làm thuê hiện tại? V́ kiếm thật nhiều tiền cho ḿnh và gia đ́nh là quá đủ và hết th́ giờ để nghĩ và làm thêm bất cứ chuyện ǵ khác? Thử hỏi như vậy Việt Nam sẽ đi về đâu?

Tất nhiên, đă là con người th́ dân tộc nào cũng có đủ các tính tốt và xấu, nhưng người Việt dường như bị nhiễm nhiều tính xấu ở mức độ rất trầm trọng.

 

psonkhanh


<< trở về đầu trang >>
free counters