Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650

www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de

 

Chính quyền Cộng Sản Việt Nam sau Đại hội IV (1976-1982)

Chính quyền Cộng Sản Việt Nam sau Đại hội IV (1976-1982)

 

Tác giả: Điền Viên

 

Vào tháng 8 năm 1976, tại Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia không liên kết tổ chức ở Tích Lan, đến lượt một người da ngăm đen, miệng luôn mỉm cưởi bước lên diễn đàn đọc diễn văn. Ông ta được những lănh tụ của khối các nước trung lập vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt v́ ông là thủ tướng của một nước Việt Nam vừa chiến thắng và thống nhất. Tuy nhiên, chỉ vài phút sau, những lời lẽ trong bài diễn văn của con người có bề ngoài ḥa nhă này đă gây kinh ngạc và tức giận cho những nhà lănh đạo các quốc gia trong vùng. Ông tuyên bố Việt Nam vẫn coi những quốc gia ASEAN lân bang như những công cụ của đế quốc và sẽ không bao giờ quên là những quốc gia này đă giúp Hoa Kỳ trong những năm chiến tranh. Ông c̣n nói tiếp là Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ nhân dân những quốc gia này đạt được một nền “độc lập thật sự” (1).

Bài diễn văn hàm ư đe dọa và rất ngạo mạn của thủ tướng CSVN Phạm Văn Đồng tại đại hội thượng đỉnh kể trên đă thể hiện cái khí thế đang lên của những nhà lănh đạo Cộng sản Việt Nam nói riêng và của phong trào Cộng sản nói chung lúc đó. Chiến thắng vào năm 1975 của CS Bắc Việt Nam đă được coi như một minh chứng cho sự ưu việt của Chủ nghĩa Max – Lê nin và sự suy yếu của phe tư bản chủ nghĩa trên thế giới. V́ thế theo họ, đường lối xă hội chủ nghĩa là một đường lối sáng suốt, đúng đắn, tiên tiến và Việt Nam sẽ cương quyết măi đi theo con đường đó về đối nội cũng như đối ngoại.

Trong những năm cuối của thập niên 70, quyền cai trị Việt Nam vẫn nằm trong tay những ủy viên Bộ Chính trị CSVN già nua đă được bầu trong Đại hội Đảng lần thứ ba từ năm 1960. Những ủy viên BCT được bầu năm đó gồm có : Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị. Trong số những người này th́ Hồ Chí Minh, Nguyễn Chí Thanh đă chết, Hoàng Văn Hoan bị cô lập v́ chủ trương thân Trung Hoa quá lộ liễu. Vơ Nguyên Giáp luôn bị Lê Duẩn chèn ép, nên sau cái chết của Hồ Chí Minh, dần dần bị mất uy thế. Trường Chinh tuy mất chức sau Cải Cách Ruộng Đất phải xuống vị trí thứ 2 nhưng nhẫn nhịn để yên phận. Thực quyền lănh đạo của đảng Cộng sản VN nằm hoàn toàn trong tay Lê Duẩn và Lê Đức Thọ.

Sự liên kết giữa Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đă có từ nhiều năm.

Lê Duẩn là một cán bộ kỳ cựu hoạt động tại Miền Nam cùng thời với Lê Hồng Phong, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai… và đă bị thực dân Pháp bắt đày ở Côn Đảo, nhưng trong năm 1945, khi phong trào kháng chiến nổi lên chiếm được chính quyền tại Sài G̣n một thời gian ngắn, những người trong Ủy ban Hành chính Kháng Chiến Nam Bộ không cho người ra đón Lê Duẩn ngay. Mấy tuần sau mới được đón về Sài G̣n th́ Lê Duẩn vẫn bị bỏ quên, không được trọng dụng cho đến khi Lê Đức Thọ vào Nam. Sau hiệp định Geneve, Lê Duẩn tập kết ra miền Bắc, ra thẳng Hà Nội và khi Trường Chinh bị mất chức Tổng Bí thư, Lê Duẩn được cất nhắc lên làm Bí thư thứ nhất.

Tuy trong thời gian đó, nhờ chiến thắng Điện Biên Phủ, uy tín của Vơ Nguyên Giáp rất cao, nhưng Hồ Chí Minh đă lựa chọn Lê Duẩn có lẽ v́ Đảng Cộng Sản đang mưu toan xâm nhập và khởi sự ở Miền Nam. Đề cử Lê Duẩn làm bí thư thứ nhất là một biện pháp lấy ḷng nhân dân Miền Nam, chứng tỏ họ vẫn coi nước Việt Nam là một. Một lư do khác là có thể Hồ Chí Minh cũng e ngại uy tín của Vơ Nguyên Giáp sau trận Điện Biên Phủ. Đồng thời với sự thăng tiến của Lê Duẩn, năm 1956 Lê Đức Thọ cũng được thay Lê Văn Lương giữ trọng trách trưởng ban tổ chức Đảng.

V́ mới từ Miền Nam ra, không có hậu thuẫn mạnh trong đảng cũng như uy tín đối với nhân dân Miền Bắc, Lê Duẩn phải dựa vào Lê Đức Thọ, để cho Lê Đức Thọ mặc t́nh thao túng chính sách và nhân sự của Đảng và Nhà nước. V́ lư do chiến tranh, trong suốt hơn hai chục năm  sau năm 1960, đă không có đại hội Đảng nào được triệu tập. Lê Đức Thọ với cương vị trưởng ban tổ chức trung ương đă có toàn quyền thay đổi, sắp xếp và thay đổi nhân sự trong đảng CSVN cũng như trong chính phủ VNDCCH ở miền Bắc. Dưới tay Lê Đức Thọ, c̣n có Nguyễn Đức Tâm, giữ ban chỉ đạo trung ương, Trần Quyết, trưởng ban kiểm tra, Hoàng Thao, trưởng ban nội chính. Nguyễn Đ́nh Hương, trưởng ban bảo vệ chính trị, Nguyễn Trung Thành, trưởng ban bảo vệ Đảng. Trong quân đội, Lê Đức Thọ dùng Nguyễn Chí Thanh rồi Song Hào và đại tá Kinh Chi (Cục bảo vệ chính trị quân đội) để kiểm soát. Những người này cùng với Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ công an, tạo nên một bộ máy hữu hiệu kiểm soát tất cả những sinh hoạt của nhân dân cũng như cán bộ (2).

Người được coi như cái gai trước mắt của Lê Duẩn là Vơ Nguyên Giáp. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, uy tín của Vơ Nguyên Giáp đối với thế giới bên ngoài là rất lớn, ngang với Hồ Chí Minh cho nên giữa Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đă có sự ghen ghét. Dù Lê Duẩn được cử làm bí thư thứ nhất ban chấp hành TW Đảng lao động Việt Nam lúc đó (tức ĐCSVN hiện nay), nhưng Hồ Chí Minh, để chia bớt quyền lực của Lê Duẩn, vẫn để cho Vơ Nguyên Giáp làm bí thư Quân ủy trong khi Lê Duẩn, dù là bí thư thứ nhất của Đảng CS, chỉ được làm phó bí thư cho Vơ Nguyên Giáp trong quân ủy mà thôi.

V́ thế, Lê Duẩn luôn luôn t́m cách nâng đỡ Nguyễn Chí Thanh (3) để cuối cùng, từ đầu thập niên 1960, Nguyễn Chí Thanh đă trở lên một đối thủ của Vơ Nguyên Giáp. Trong thời gian Nikita Khrushev cầm quyền ở Liên Xô và hạ bệ Staline, Lê Duẩn nghiêng về thân với Trung Hoa và gán cho Vơ Nguyên Giáp là người có khuynh hướng “đi theo chủ nghĩa xét lại” của những nhà lănh đạo tối cao ở Liên Xô thời ấy. Tuy Vơ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh che chở nên được yên thân, nhưng một số những người thân tín dưới quyền đă bị bắt và Vơ Nguyên Giáp cũng không dám lên tiếng bênh vực ǵ cho họ.

Càng những năm về sau, thế lực của nhóm Duẩn và Thọ càng mạnh lên, lấn lướt cả chính ông Hồ Chí Minh cho nên sau năm 1972, Vơ Nguyên Giáp mất chức Tổng tham mưu trưởng quân đội. Sau khi Hồ Chí Minh chết vào năm 1969, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đă dần dần hạ tầng công tác và cuối cùng, khai trừ luôn Vơ Nguyên Giáp. Trong nhiều năm, Lê Duẩn vẫn thường công khai chê trách tài cầm quân của Vơ Nguyên Giáp.

Năm 1975, sau khi đă chiếm được hoàn toàn Miền Nam, đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức đại hội đảng lần thứ tư ngày 14 đến ngày 20-12-1976 để thích ứng với t́nh h́nh mới. V́ mới thống nhất, số ủy viên trung ương đảng được tăng lên từ 77 lên 133 người, số ủy viên Bộ Chính trị cũng được tăng từ 11 lên 14 người cùng với 3 ủy viên dự khuyết, xếp theo thứ tự gồm có:

1.     Lê Duẩn, được cải danh từ bí thư thứ nhất lên Tổng Bí Thư.

2.     Trường Chinh, kiêm nhiệm Chủ tịch Quốc hội.

3.     Phạm Văn Đồng, Thủ tướng chính phủ

4.     Phạm Hùng, Phó Thủ tướng

5.     Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng.

6.     Vơ Nguyên Giáp, Bộ trưởng bộ Quốc Pḥng

7.     Nguyễn Duy Trinh, Bộ trưởng Bộ ngoại giao

8.     Lê Thanh Nghị, chủ tịch Ủy ban kế hoạch nhà nước.

9.     Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Bộ Công an.

10.  Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng Quận đội.

11.  Lê Văn Lương, Bí thư thành ủy Hà Nội.

12.  Nguyễn Văn Linh, Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh

13.  Vơ Chí Công, kiêm nhiệm Bộ trưởng Bộ Hải Sản.

14.  Chu Huy Mân, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay Song Hào.

Tướng Song Hào đă mất chức v́ trong cuộc chiến 1972, quân đội Cộng Sản đă chết quá nhiều ở tỉnh Quảng Trị và theo Nhật Kư Trần Quỳnh, Song Hào đă đổ lỗi lầm này cho Lê Duẩn. Người thay Song Hào là Chu Huy Mân, trước 1945 là một trung đoàn trưởng tham gia dự trận đánh Đông Khê, sau vào Nam đóng ở mật khu An Lăo, vùng tỉnh B́nh Định, từng tham dự trận đánh la Drang. Sự lên chức mau lẹ của Chu Huy Mân vượt qua khỏi những tướng lănh có chức vụ cao và thâm niên hơn như Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Hoàng Minh Thảo… điều này cho thấy quyết tâm của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ muốn loại trừ những người đă từng phục vụ lâu năm dưới sự chỉ huy của Vơ Nguyên Giáp.

Ba ủy viên dự khuyết trong Bộ Chính trị CSVN lần này là Tố Hữu, Vơ Văn Kiệt và Đỗ Mười. Sau khi chiến thắng, không c̣n cần che giấu nữa, đại hội Đảng lần này cũng quyết định bỏ đi cái tên “Đảng Lao Động” mà ấy lại tên là  Đảng Cộng Sản Việt Nam. Để chứng tỏ quyết tâm theo đuổi chủ nghĩa Cộng sản, tên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa được đổi thành Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tạp chí chính thức của Đảng trước có tên là Học tập nay cũng trở nên tạp chí Cộng Sản. Tôn Đức Thắng được tiếp tục giữ chức chủ tịch. Hai phó chủ tịch là Nguyễn Lương Bằng và Nguyễn Hữu Thọ.

Trong thành phần Bộ Chính Trị được bầu lần này, Hoàng Văn Hoan đă bị loại sau đó trốn sang Trung Hoa, Vơ Nguyên Giáp c̣n được giữ lại do uy tín trong quân đội nhưng bị đẩy xuống đứng sau Lê Đức Thọ.

Tuy Bộ Chính trị có thêm những nhân vật mới từ miền Nam ra như Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Vơ Chí Công… nhưng thực quyền vẫn nằm trong tay của những ủy viên cao cấp đă từng nắm quyền suốt hơn hai chục năm qua, nhất là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. V́ thế, đường lối chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn không có ǵ thay đổi.

Trong những ủy viên cao cấp bộ Chính trị lúc đó, Phạm Văn Đồng luôn luôn yên phận để ngồi yên giữ chức thủ tướng chính phủ. Trường Chinh dù là một cán bộ CS lăo thành nhưng uy tín đă bị suy giảm khá nhiều sau vụ Cải cách ruộng đất đẫm máu những năm 1952-1955. Ông ta được yên thân v́ sau khi bị mất chức Tổng Bí thư vào năm 1956, không bao giờ tỏ ra bất măn hay đối nghịch với Lê Duẩn và cũng là người Miền Bắc duy nhất trong những lănh tụ cao cấp của Bộ Chính trị lúc đó (trong Đảng, ba người thứ tự cao cấp nhất của Bộ chính trị thường là từ ba miền Bắc, Trung, Nam. Lê Duẩn người Miền Trung, Phạm Hùng, miền nam). V́ thế phe cánh của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ trong Bộ Chính trị sau đại hội Đảng lần thứ tư được thêm vào Văn Tiến Dũng và Chu Huy Mân lại càng được củng cố.

Riêng những người thuộc Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ có Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị B́nh được giữ những chức vụ không có quyền hành, c̣n những người khác như Trịnh Đ́nh Thảo, Lâm Văn Tết, Trương Như Tảng…. bị gạt hẳn ra ngoài (6). Những nhân vật như Ngô Công Đức, Lư Quí Chung (7), Lê Chánh Trung. Trần Thúc Linh, Nguyễn Hữu Hạnh, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Cứ…. phải học một lớp học chính trị mà người dạy là Vũ Khiêu, sau được Đảng phong cho chức danh “giáo sư”. Ông này xuất thân là một giáo viên ở tỉnh Lạng Sơn. Bài “thu hoạch” của họ, nội dung chỉ là phản tỉnh và cong lưng qui thuận Đảng được đăng lại trên báo Đoàn Kết để làm công cụ tuyên truyền.

Nghị quyết của Đại hội Đảng CSVN lần thứ IV sau chiến thắng năm 1975 xác định những phương hướng của chính quyền Cộng sản, là “ nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ thập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa”.

Dĩ nhiên, việc “nắm vững chuyên chính vô sản” để kiểm soát toàn bộ nhân dân kể các về kinh tế, xă hội, văn hóa, tư tưởng là quan trọng nhất. Bộ máy công an trị được thiết lập rất chặt chẽ. Nhân dân sống trong toàn xă hội bị kiểm soát từ những công an khu vực, phường, quận, tỉnh…. đến trung ương và được sự hỗ trợ các đoàn thể như tổ dân phố, chi bộ đảng cơ sở, dân pḥng, phụ nữ, thiếu nhi, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh, hội người cao tuổi, công đoàn…vv…

Ngoài ra những biện pháp như sổ hộ khẩu, giấy thông hành (khi đi sang một tỉnh lân cận là phải xin giấy thông hành của công an, chính quyền cấp phép) sổ tạm trú, sổ khai báo tạm vắng (ngủ ở nhà người khác dù một đêm cũng phải khai báo với công an), sổ mua lương thực, tem phiếu mua thực phẩm, đường, sữa, bột ngọt, vải vóc, xe đạp, phích nước,… mặc dù những xuất này chỉ tạm đủ ăn cho mỗi nhân khẩu mỗi căn hộ mà thôi, nhưng đă giúp cho sự kiểm soát của công an và chính quyền CS rất hữu hiệu đối với từng người dân trong toàn xă hội, trên khắp cả nước.

Những biện pháp kiểm soát hữu hiệu nhất của chế độ là tạo ra được một bầu không khí trong đó những người thân thuộc dù là anh em hay bạn bè… hoặc bị đe dọa, hoặc v́ tị hiềm  hoặc để lập công, hoặc bị khuyết dụ, dễ dàng tố cáo lẫn nhau. Tố cáo lẫn nhau như thế được coi như một biểu hiện tốt trong quá tŕnh phấn đấu của bản thân, là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng phẩm chất “đạo đức cách mạng” hoặc là mẫu h́nh “con người mới XHCN”, được biểu dương là giúp đỡ nhau tiến bộ, dù cho những người được giúp đỡ này dễ dàng bị thanh lọc, bắt bớ hay giam cầm không cần ṭa xét xử.

Giống như ở những nước cộng sản khác, để bảo vệ chế độ chuyên chế của họ, tất cả những người thuộc “thành phần khả nghi” đều bị bắt giữ, bị tù đầy nhiều năm trời gọi là “tập trung cải tạo” mà không cần xét xử ở ṭa án của nhà nước cộng sản VN. Ngoài hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức miền nam chế độ VNCH cũ bị giam cầm trong những trại tù rải rác khắp cả nước, những văn nghệ sĩ, những lănh tụ tôn giáo như Thượng Tọa Huyền Quang (8), Thượng tọa Thích Quảng Độ (9), Tổng giám mục Công giáo Nguyễn Văn Thuận (10)…vv… Đến ngay cả những người từng chống đối chế độ VNCH cũ như Trương Đ́nh Dzu cũng bị bắt giam, Trương Đ́nh Dzu ngay sau 1975 được thả ra nhưng lại bị chính quyền CS mới bắt lại v́ bị nghi ngờ có thể ở trong một nhóm người muốn xây dựng một đoàn thể đối lập. V́ ông ở tù, con trai ông là David Trương (Trương Đ́nh Hùng) đang ở Hoa Kỳ, mới mưu toan cùng một viên chức ngoại giao Mỹ làm gián điệp cho Việt Nam để lập công. Vụ này vỡ lở, Trương Đ́nh Hùng bị bắt, gây trở ngại cho cuộc hội đàm thiết lập bang giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vào thời gian đó (11).

Ngoài 2 thượng tọa Huyền Quang và Quảng Độ, có hai học giả Phật học uyên thâm là Thích Trí Siêu và Thích Tuệ Sĩ (12) bị bắt và bị tuyên án tử h́nh v́ tội “âm mưu lật đổ chính phủ”. Năm 1978, chính quyền bắt giam Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế cùng 47 người khác v́ đă thành lập phong trào đ̣i nhân quyền. Tất cả những người này đă bị bắt giam, tra tấn, cầm cố, biệt giam nhiều năm, sau đó thả ra rồi bắt lại bằng những “biện pháp hành chánh” không cần qua xét xử.

Một số người khác như Trần Văn Bá, con của cụ Trần Văn Văn, một dân biểu của chế độ VNCH cũ ở miền Nam VN, ông này đang dạy học bên Pháp lén lút trở về Việt Nam năm 1980 tổ chức một phong trào nổi dậy, nhưng ông đă bị bắt và bị xử tử h́nh vào tháng 1 năm 1985 cùng hai đồng chí của ông là Lê Quốc Quân và Hồ Thái Bạch. Cha ông Trần Văn Bá đă bị đặc công CSVN tổ chức ám sát giết chết tại Sài G̣n khi cuộc chiến tranh ở miền Nam VN vẫn đang diễn ra. Người phụ trách t́m bắt giam ông Bá chính là Nguyễn Tấn Dũng, lúc đó là thứ trưởng bộ công an, c̣n hiện nay ông đang là thủ tướng chính phủ nước CHXHCN VN. Ngoài Trần Văn Bá, có ông Vơ Đại Tôn (13) cũng từ bên Úc trở về mưu vận động chống lại chế độ nhưng cũng bị bắt. Ông này bị bỏ tù vài năm sau đó được thả về Úc.

Một người khác, cựu Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh (14) của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa cũ cũng thành lập Mặt trần Quốc Gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam và thành lập mật khu tại biên giới Thái lan. Năm 1987 khi ông và các đồng chí của ḿnh trên đường về nước th́ bị phục kích bên Lào và tử trận.

Về thông tin báo chí, dĩ nhiên tất cả đều do đảng Cộng Sản VN hoàn toàn kiểm soát (15) Những tồng biên tập nhật báo hay tạp chí nhả nước này đều phải là đảng viên CSVN. Hai tờ báo chống đối chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa trước kia là Tin Sáng và Đứng Dậy. Từ sau 1975 được nhà nước CSVN cho phép tồn tại ít lâu với điều kiện trong mỗi ṭa soạn đều phải có đảng viên cộng sản làm “cố vấn chính trị” để kiểm soát và theo dơi mọi hoạt động của ṭa soạn, ban biên tập, công tác ấn loát, phát hành… nhưng rồi cũng lần lượt bị dẹp bỏ, đóng cửa vĩnh viễn 2 tờ báo này.

Tờ Tin Sáng của Ngô Công Đức, dù đă đăng những bài hết sức nịnh bợ chính quyền CS mới(16) cuối cùng cùng phải tuyên bố “hoàn thành nhiệm vụ” vào ngày 30-6-1980, c̣n tờ Đứng Dậy của Linh Mục Chân Tín th́ “từ biệt độc giả” vào tháng 12 năm 1978. Việc làm báo ở Việt Nam khuôn mẫu đến nỗi mỗi năm vào ngày 26 tháng 12, đều có tin về đức Tồng Giám Mục Nguyễn Văn B́nh làm lễ tối Giáng Sinh. Đến năm 1992,  Đức tổng giám mục bị bệnh, Giám Mục Phạm Văn Nam thay thế nhưng tất cả các báo nhà nước đều vẫn đăng tin là Tổng Giám Mục B́nh làm chủ lễ và sau đó dù biết sai cũng không có báo nào đính chính cả.

Về đối ngoại, chiến thắng quân sự của Cộng Sản Việt Nam năm 1975 đă làm bộc lộ những mâu thuẫn giữa những quốc gia Cộng sản đă được giữ kín, âm ỉ trong những năm chiến tranh. Lúc đó, cả hai nước Liên Xô và Trung Hoa đều viện trợ dồi dào cho Việt Nam để tỏ ra cho những nước Cộng sản đàn em khác thấy thái độ tích cực chống “đế quốc, tư bản” của ḿnh, đồng thời cũng để lôi kéo Việt Nam về phe của họ. Cộng sản Bắc Việt cũng đă cố gắng giữ vị thế để quân b́nh và để chiều ḷng cả 2 nước lớn đàn anh cộng sản.

Sau 1975, trong nỗ lực tiếp lực chính sách đu dây để hưởng lợi như những năm trước, cuối tháng 9 năm 1975, Lê Duẩn và Lê Thanh Nghị sang Trung Hoa xin viện trợ tiếp. Nhưng cục diện chính trị đă đổi thay, Trung Hoa sau khi kết thân được với Hoa Kỳ đang coi Liên Xô là kẻ thù số một và muốn Việt Nam phải hoàn toàn nằm trong ảnh hưởng của ḿnh để chống lại Liên Xô. Ngoài ra cũng không muốn Việt Nam có được một liên minh chặt chẽ với Ai Lao và Căm Pu Chia để tạo nên một thế lực có thể thách đố hay làm nguy hại tới an ninh lănh thổ và quyền lợi của họ.

V́ thế, Đặng Tiểu B́nh trong buổi tiếp tân phái đoàn của CSVN ở Trung Hoa đă đề cập đến “chủ nghĩa bá quyền nước lớn” (ám chỉ Liên Xô) và khuyến  cáo Việt Nam nên đứng hẳn về phiá Trung Hoa để chống lại Liên Xô. Thế nhưng trong bài đáp từ, Lê Duẩn đă không nói ǵ đến “bá quyền nước lớn” mà c̣n ngỏ lời cảm ơn tất cả các nước xă hội chủ nghĩa mà trong đó có cả Trung Hoa lẫn Liên Xô trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ. Kết quả là Trung Hoa từ chối viện trợ và Lê Duẩn từ chối thảo thông cáo chung giữa 2 bên, hủy bỏ tiệc liên hoan đáp lễ. Kể từ đó, quan hệ giữa hai nước bắt đầu rạn nứt. Và ba tháng sau, Lê Duẩn bay sang Liên Xô.

Tại đây, khác với ở Trung Hoa, Việt Nam công khai cho thấy là họ đă thiên về Liên Xô khi Lê Duẩn cùng tổng bí thư Đảng CS - Brezhev kư một thông cáo chung trong đó Việt Nam nhất trí với Liên Xô trong vấn đề đối ngoại. Sau khi Lê Duẩn về nước, những cán bộ cao cấp có khuynh hướng thân Trung Hoa đều lần lượt bị loại, trong đó có Hoàng Văn Hoan (17) Ủy viên Bộ Chính trị, Chu Văn Tấn (18) Bộ trưởng Quốc Pḥng năm 1945, Lư Ban Thứ trưởng Ngoại thương, Lê Quảng Ba phó chủ tịch Quốc hội…vv…

Tuy nhiên, với t́nh trạng bang giao với CămPuChia ngày càng căng thẳng, chính quyền Cộng sản Việt Nam cũng đă cố gắng có vài biện pháp để tỏ ra là c̣n độc lập với Liên Xô để khỏi phải trực tiếp đương đầu với Trung Hoa. (Xin lưu ư rằng lúc này ở Cămpuchia bọn CS Pôlpốt đang nắm quyền, chúng thực hiện chính sách cộng sản rất cực đoan, ẫu trĩ và cực tả. Chúng đă tổ chức giết hại hàng triệu thường dân vô tội, biến cả nước này thành những cánh đồng chết khổng lồ ghê rợn !!!

Họ từ chối không gia nhập liên minh kinh tế COMECON của khối Cộng sản do Liên Xô đứng đầu, họ không cho Liên Xô đặt ṭa tổng lănh sự ở Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó họ gửi nhiều phải đoàn thiện chí khác sang Trung Hoa để cầu ḥa. Trước hết, vào ngày 21/4/1977. Lê Duẩn trở lại Trung Hoa nhưng lần này Lê Duẩn không c̣n công khai đương đầu với trung Hoa như lần trước mà đă phải xuống giọng với Hoa Quốc Phong, đứng đầu đảng CS Trung Quốc-người kế nhiệm Mao Trạch Đông lúc đó: “Chúng tôi như những đứa em nhỏ, luôn luôn sát cánh bên những người anh” (19).

Nhưng mặc dù vậy chuyến đi này của Lê Duẩn đă không đem đến một kết quả nào. Chuyến đi thứ hai vào tháng năm 1977 do Vơ Nguyên Giáp, lúc đó c̣n làm Bộ Trưởng Quốc Pḥng làm trưởng phái đoàn c̣n tệ hại hơn. Nhân vật tương đương của Trung Hoa là Diệp Kiếm Anh không ra phi trường tiếp đón và cũng không tham dự những cuộc hội đàm. Mấy ngày sau, một phái đoàn khác của Phạm Văn Đồng tử Liên Xô trở về cũng ghé ngang Bắc Kinh. Lần này Phạm Văn Đồng được Thủ Trưởng Trung Hoa là Lư Tiên Niệm tiếp đón. Nhưng trong buổi họp, Phạm Văn Đồng chưa kịp lên tiếng th́ Lư Tiên Niệm đă lên tiếng phản kháng về chính sách đối với người Hoa ở Việt Nam, và việc Việt Nam tiếp quản những đảo nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa trong khi năm 1958, chính Phạm Văn Đồng đă công nhận chủ quyền của Trung Hoa trên các quần đảo đó. Phạm Văn Đồng chỉ có thể trả lời gượng gạo rồi trở về tay không…

Trước viễn ảnh không thể ḥa giải được với Cộng sản Trung Hoa, Việt Nam bắt đầu những biện pháp ngăn ngừa Trung Hoa trả đũa. Trước hết, họ bắt tất cả những người Hoa nhập Việt tịch nếu không sẽ mất quyền lợi mua lương thực. Sau đó, vào ngày 24-3-1978. chính phủ Việt Nam mở một đợt đánh tư sản mại bản nhắm vào khối người Hoa ở Sài G̣n và trên toàn miền Nam VN để tịch thu gia sản của họ, đồng thời cũng ép buộc và khuyến dụ những người này rời khỏi Việt Nam để một mặt, tránh hiểm họa đạo quân thứ năm, mặt khác để tịch thu thêm tiền, vàng bạc của họ. Nhà nước CSVN sau đó c̣n ban hành cấm người Hoa không được làm một số nghề ở Việt Nam để mưu sinh…

Từ đó, phong trào thuyền nhân vượt biên ra đời. Nhiều người đă đến được những trại tỵ nạn rải rác ở Mă Lai, Thái Lan, Nam Dương, Phi Luật Tân, Hồng Kông, Nhật Bản...vv…. nhưng cũng có hàng trăm ngàn người khác phải bỏ ḿnh ngoài biển khơi hay làm nạn nhân cho hải tặc (20). Dĩ nhiên, chính quyền Trung Hoa lập tức phản kháng, họ gọi nhũng Hoa Kiều ở Việt Nam là “nạn kiều" và ngừng tất cả  những dự án Trung Hoa đang viện trợ cho Việt Nam, rút hết những chuyên viên về nước. Sự tranh chấp giữa hai nước đă trở nên mănh liệt đến nỗi Nghị Quyết Số 9 của Trung Ương Đảng năm 1978 đă ghi rơ Trung Hoa là kẻ thủ trực tiếp và nguy hiểm nhất, trong khi Hoa Kỳ được coi như kẻ thù cơ bản và lâu dài.

Điều này, đến 1982 được ghi vào chính thức hiến pháp. Sau cuộc chiến với Căm Pu Chia vả Trung Hoa, năm 1981. Nghị Quyết 39 của Bộ Chính Trị c̣n ghi, là Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ “đấu tranh chống chủ nghĩa Mao trên mọi h́nh thái và các phương thức…”.  Điều này khác hẳn với lời mở đầu trong điều lệ đảng năm 1951 đă viết : “ đảng Lao Động Việt Nam lấy học thuyết Mác, Ăng-ghen, Lê-nin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tế cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng”. (21)

Đồng thời với những bất đồng ngày càng nghiêm trọng với Trung Hoa, những mâu thuẫn giữa hai phong trào Cộng Sản Việt Nam và Căm Pu Chia sau 1975 lại cảng trầm trọng hơn. Thật ra sự mâu thuẫn này đă có từ lâu. Tuy đảng Cộng Sản Căm Pu Chia được thành lập và đỡ đầu bởi đảng Cộng Sán Việt Nam, nhưng cũng chính v́ điều này, cộng thêm bản chất tự tôn của những người cộng sản luôn tự coi ḿnh thuộc giai cấp tiên tiến, đang mang nghĩa vụ giải phóng toàn thể nhân loại khiến cho những cán bộ Việt Nam mặc nhiên tự coi như giữ vai tṛ lănh đạo, đàn anh đối với hai nước Lào vả Căm Pu Chia. Do mối thù hận bị mất đất và bị cai trị khắc nghiệt trong lịch sử cộng thêm một nghi kỵ sẽ bị sát nhập với Việt Nam thành một  “Liên bang Đông Dương”,  những lănh tụ Cộng sàn Căm Pu Chia vốn đă cuồng tín, càng trở nên đa nghi hơn và kết quả là hai bên đă phải giải quyết những mâu thuẫn bằng vũ lực trong một trận chiến cộng sản tương tàn (22)

Ngay trong tháng 4 năm 1975, sau khi cướp được chính quyền quân Khmer Đỏ đă tấn công các đảo Thổ Châu, Ḥn Trọc (Waí) và Phú Quốc của Việt Nam, mở đầu cho những đă xung đột vơ trang dọc theo biên giới hai nước. Những xung đột này trở nên bùng nổ dữ dội hai năm sau đó, vào đúng đêm trong đêm 30-4-1977, quân Khmer Đỏ tấn công qui mô vào nhiều làng xă thuộc tỉnh An Giang, chúng đă tàn sát nhiều người dân vô tội của VN. Sau đó đến tháng 9 năm 1977, đến lượt vùng biên giới tỉnh Tây Ninh bị chúng tiến đánh. Lúc đó người chịu trách nhiệm pḥng thủ Tây Ninh là tướng Trần Văn Trà, Tư Lệnh Quân Khu VII. Trần Văn Trà đang dự định hành quân qui mô để trả đũa th́ bị mất chức và kéo về trung ương, để cho Lê Đức Anh đang làm Tư Lệnh Quân Khu IX lên thay (23). Trần Văn Trà đă mất chức trong giai đoạn nghiêm trọng này với lư do để sơ hở về pḥng thủ, không bảo vệ được dân chúng. Thế nhưng lư do chính là v́ sau năm 1975, những cán bộ người miền Nam trong Mặt Trận Giải Phóng không c̣n được tin dùng nữa và tất cả dần dần bị tước đoạt hết quyền lực mà đây là cơ hội, là dịp tốt để CS trung ương ngoài Hà Nội ra tay mà thôi.

Điều này đă gây ra bất măn và chính quyền trung ương không thể để cho một người cốt cán của Mặt trận nắm binh quyền ở một quân khu quan trọng được. Ngoài ra, do Trần Văn Trà cũng làm mất ḷng Văn Tiến Dũng và Lê Đức Thọ khi viết hồi kư nhận phần lớn công trạng là của ḿnh trong chiến thắng năm 1975. Do thay đồi cấp chỉ huy, phải chờ đến mấy tháng sau, cuối năm 1977 quân đội CS Việt Nam mới tràn qua biên giới phản công. Bị quân Việt Nam tràn ngập, hai sư đoàn 3 và 4 của quân Khmer Đỏ coi như bị tiêu diệt, Căm Pu Chia lên tiếng tố cáo Việt Nam xâm lăng và chính thức cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Để tránh dư luận quốc tế phản đối nên quân đội CS Việt Nam phải rút về nước.

Do thất bại không thể chặn đứng được cuộc tấn công của quân đội Việt Nam, trùm CS Pol Pot đố lỗi cho quân khu Đông ở sát biên giới Việt Nam và mở một cuộc thanh trừng đẫm máu. Cuộc thanh trừng này một mặt làm suy yếu lực lượng quân đội Căm Pu Chia, mặt khác đẩy một số cán bộ lănh đạo của Khmer Đỏ như Heng Som ring, Hun Sen… chạy trốn sang Việt Nam, tạo cơ hội cho Việt Nam thành lập một Mặt Trận Giải Phóng bù nh́n đế xâm lăng và chiếm đóng Căm pu chia sau đó.

V́ không thể để cho quân Khmer Đỏ tiếp tục gây rối, gây tội ác với người dân Việt Nam, nên chính quyền Cộng Sản Việt Nam thấy cần phải giải quyết dứt khoát nhưng v́ sợ phản ứng của Trung Hoa. V́ vậy Việt Nam phải đi t́m một hậu thuẫn, vững mạnh cho nên cuối cùng Việt Nam đành phải chính thức đứng vào quĩ đạo của Liên Xô cầm đầu.

Ngày 1-11-1978 Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng dẫn đầu một phái đoàn đảng và chính phủ CSVN sang Mạc Tư Khoa để cùng Brezhnev kư bản hiệp ước “hợp tác và hữu nghị Xô- Việt”,  theo đó hai  nước sẽ  liên minh với nhau cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Điều 6 của hiệp ước này nói rơ là nếu một trong hai nước bị tấn công, cả hai nước sẽ dùng những biện pháp thích hợp để đối phó lại.

Từ đó, Liên Xô đă hết ḷng viện trợ cho Việt Nam về mọi phương diện. Số tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ Mỹ kim. Bù lại, Việt Nam sẽ để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể cả cảng Đà Nẵng làm đầu cầu quân sự để kiềm chế Trung Hoa và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ trong vùng biển Thái B́nh Dương.

Hợp tác hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô đă gây ra một phản ứng mạnh mẽ tại các nước ASEAN và Hoa Kỳ, đem lại một kết quả thuận lợi cho Trung Hoa. Trước đó hai tháng. Việt Nam đă cử Phạm Văn Đồng sang Thái Lan, Mă Lai và Tân Gia Ba (Singapore) để ve văn những nước này. Tại Thái Lan, Phạm Văn Đồng hứa chấm dứt yểm trợ đảng Cộng Sản Thái. Tại Mă Lai, Phạm Văn Đồng đến đặt ṿng hoa tại đài chiến sĩ tưởng niệm những binh sĩ đă bỏ ḿnh trong cuộc chiến tranh chống Mă cộng.  Riêng đối với Hoa Kỳ, Việt Nam đă bỏ lỡ nhiều cơ hội thiết lập bang giao nhưng khi cần đến th́ đă quá trễ.   

Sự chậm trễ thiết lập bang giao với Hoa Kỳ bắt nguồn từ những thái độ kiêu căng sau chiến thắng của những lănh tụ Cộng Sản Việt Nam. Năm 1976, sau khi Tổng Thống Gim mi Carter được bầu lên, ông này muốn lật một trang sử đă qua, nên đă cử ngay một phái đoàn thiện chí sang Hà Nội thăm ḍ về việc thiết lập bang giao. Thiện chí này càng làm giới lănh đạo Việt Nam thêm phần cao ngạo hơn. Họ nhất định đ̣i có được ba tỷ Mỹ kim (3 tỷ USD) tiền bồi thường chiến tranh như một điều kiện tiên quyết.

Những cuộc hội đàm Ở Hà Nội và Paris giữa Thứ Trưởng Ngoại Giao Phan Hiền với Woodcock và Holbrook lần lượt tan vỡ. Cho tới tháng 9 năm 1978, khi Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là thứ trưởng ngoại giao, gặp Holbrook và bằng ḷng bỏ đi điều kiện số tiền ba tỷ đô la th́ lúc đó, Hoa Kỳ đă bắt đầu thương thuyết với Trung Hoa rồi. Phải lựa chọn giữa hai nước đang đối nghịch nhau, Carter chọn bang giao với Trung Hoa trước và từ đó, do việc Việt Nam đứng vào khối Cộng sản Liên Xô, rồi xâm lăng Căm Pu Chia, bang giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đă chậm đi mất gần 20 năm.

Sau khi kư hiệp ước hữu nghị và hợp tác, tin tưởng vào hậu thuẫn và sức mạnh của Liên Xô bất chấp mọi hậu quả từ phản ứng của Trung Hoa và thế giới, ngay sau đêm Giáng Sinh năm 1978, dưới quyền chỉ huy tổng quát của tướng Lê Trọng Tấn (24) quân đội Vệt Nam ồ ạt mở một cuộc tổng tấn công toàn diện vào lănh thổ Căm Pu Chia.

Chi trong ṿng hơn một tuần quân đội CS Việt Nam đă lấy được thủ đô Nam Vang và khoảng bốn tháng sau, coi như làm chủ được toàn lănh thổ Căm Pu Chia. Lê Đức Anh được cử làm tư lệnh đội quân chiếm đóng tại đây. Nhưng cũng từ đó, Việt Nam bắt đâu phải gánh chịu một cuộc chiến tranh tiêu hao nặng nề cả vệ sinh mạng lẫn kinh tế, ngoại giao.

Cuộc xâm lăng Căm Pu Chia của Việt Nam kể trên là một xúc phạm nặng nề cho uy tín nước lớn và ḷng tự tôn Đại Hán của Trung Hoa, cho nên Đặng Tiểu B́nh cần phải có biện pháp trả đũa lại. Một mặt ông ta tiếp xúc với Thái Lan để tiếp tục giúp đỡ tàn quân Khmer Đỏ đang ẩn trú ở vùng biên giới Thái-Miên để chiến đấu chống lại CS Việt Nam đang kiểm soát cả nước Cămpuchia. Mặt khác, ông ta không c̣n khó khăn với Hoa Kỳ về vấn đề Hoa Kỳ tiếp tục bán vơ khí cho Đài Loan nữa mà bằng ḷng thiết lập bang giao chính thức một cách gấp rút giữa 2 nước vào ngày 15-12-1978.

Hai tháng sau, Đặng Tiểu B́nh lên đường sang thăm Hoa Kỳ chuẩn bị dư luận cho cuộc tấn công Việc Nam. Khi được Đặng Tiểu B́nh cho biết trước về cuộc tấn công sẽ nổ ra. Tổng Thống Mỹ  G. Carter đă không tán thành nhưng cũng không phản đối.

Sau khi sửa soạn xong, ngày 17-2-1979. quân đội Trung Hoa bắt đầu tấn công ồ ạt vào những tỉnh dọc biên giới Việt Hoa, dọc theo chiều dài hơn 1000 km của biên giới Việt Hoa từ tỉnh Lai Châu đến tỉnh Quảng Ninh. Dù sao Trung Hoa cũng e sợ phản ứng của Liên Xô nên cuộc chiến tranh này đă được Trung Hoa gián tiếp thông báo trước giới hạn về qui mô thời gian và không gian.

Tuy thế, dù chỉ kéo dài có hơn một tháng, sự tổn hại nhân mạng mỗi bên cho dù cả hai bên đều giấu kín, khi loan báo chính thức th́ cả hai đều giảm thiểu tổn thất của ḿnh và thổi phồng tổn thất của địch, th́ cũng phải lên tới nhiều chục ngàn người và hầu hết những thị xă của Việt Nam dọc biên giới đều bị tàn phá. Nh́n vào cuộc chiến, quân đội Việt Nam chứng tỏ khả năng pḥng thủ bền bỉ và khả năng chiến đấu cao hơn, trong khi quân đội Trung Hoa bộc lộ ra nhiều nhược điểm và đă phải trả giá khá đắt cho “bài học” mà họ muốn dạy.

Tuy nhiên, theo thời gian, Việt Nam đă phải gánh chịu một hậu quả tai hại hơn. Về chính trị, kinh tế, quân sự phải gần như hoàn toàn lệ thuộc vào Liên Xô, về ngoại giao th́ bị cô lập nặng nề trên khắp thế giới...Nhưng thời gian đó là thời gian mà đế quốc Liên Xô đang hồi cực thịnh. Trên bề mặt, đế quốc đó đang bành trướng không những ở Á Châu mà c̣n ở Phi Châu và Trung và Nam Mỹ. Việt Nam, theo như Lê Duẩn nói với Brezhnev khi kư thoả ước hợp tác và hữu nghị đă chấp nhận "nghĩa vụ quốc tế cao cả" làm người lính tiên phong cho sự phát triển chủ nghĩa Cộng sản, đúng hơn là cho đế quốc CS Liên Xô ở Á Châu.

Từ đó, việc xâm lăng Căm Pu Chia thực ra chỉ là một bài học được học từ Liên Xô để áp dụng chủ thuyết Brezhnev, theo đó, một nước cộng sản có quyền đem quân vào một nước cộng sản khác, như Liên Xô đă từng đem quân vào Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc hay Apganixtan…

Ngoài ra giống như ở Liên Xô, các lănh tụ đảng CS Việt Nam cũng muốn duy tri t́nh trạng như “giữ nguyên trạng" – tức là các cán bộ lănh đạo sẽ cứ giữ nguyên địa vị cho đến lúc chết nếu không bị thanh trừng v́ chống đối hay muốn tranh giành quyền lực với những lănh tụ đương thời. Nếu những ủy viên Bộ Chính Trị của Liên Xô như Brezhnev (tổng bí thư) Gromyko (bộ trưởng ngoại giao) Ustinov (bộ trưởng quốc pḥng), Suslov (lư thuyết gia), và Andropov (nắm t́nh báo và công an) đều đă ở lỳ chức vụ lănh đạo trên dưới hai mươi năm th́ ở Việt Nam, lănh đạo đảng cộng sản từ hơn ba mươi năm trước vẫn là những khuôn mặt cũ kỹ, quá nhàm chán như : Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Vơ Nguyên Giáp...vv…

V́ ở ngoài mặt, đế quốc Liên Xô đang phát triển nhanh chóng trên toàn thế giới. Điều này đă che giấu sự mục nát từ hạ tầng cơ sở của chế độ xă hội chủ nghĩa và của cơ chế kinh tế chỉ huy khiến cho những lănh tụ cộng sản Việt Nam vẫn tin tưởng rằng đường lối kinh tế đó là một đường lôi siêu việt và họ vẫn nhất tâm theo đuổi đến cùng.

V́ đất nước bị chia đôi vào năm 1954 cho nên từ đó đến 30/4/1975, họ chỉ có thể th́ hành chính sách kinh tế này riêng ở miền Bắc thôi. Tất cả những h́nh thức kinh doanh tư nhân bị xóa bỏ. Những ngành sản xuất hay thương mại đều được điều hành, chỉ huy bởi nhà nước cộng sản. Chính sách kinh tế tập trung này đều lấy theo khuôn mẫu từ Liên Xô, theo đó, cơ quan quan trọng nhất để điều hành kinh tế quốc gia là “Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước” mà công việc bao trùm lên tất cả các bộ có liên quan đến kinh tế hay sản xuất. Ủy ban đặt một kế hoạch toàn bộ từ trên xuống dưới cho tất cả những ngành trực thuộc : tính toán tiền bạc, vật dụng được phân phối, sản lượng xuất cảng nhập cảng…vv... Dựa theo kế hoạch chung đó Ủy Ban Vật Giá định giá cả hàng hóa, Bộ Tài Chánh phân phối ngân sách, các Bộ Nội Thương, Ngoại Thương, Lương Thực thu nhập hay phân phối sản phẩm từ trung ương tới địa phương. Kỹ nghệ hay nông nghiệp có trách nhiệm sản xuất đúng chỉ tiêu trong kế hoạch. Ngân sách chi thu của những Bộ không có liên quan đến kinh tế như Bộ Y Tế, Quốc Pḥng hay Giáo Dục cũng phải dựa theo kế hoạch chung của Ủy Ban Kế Hoạch nhà nước.

V́ thế, chủ tịch Ủy Ban Kế Hoạch thường phải là một phó thủ tướng kiêm Ủy viên Bộ Chính Trị đứng đầu một ủy ban trên 10 người thuộc hàng bộ trưởng hay thứ trưởng. Thường th́ kế hoạch hàng năm được soạn thảo xong vào tháng 9 để đưa cho thủ tướng và bộ chính trị duyệt  xét cho năm sau. V́ những nước cộng sản  giao thương mật thiết với nhau, kế hoạch của những nước này phải liên quan mật thiết với những nước trong khối cộng sản, chẳng hạn số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam phải ăn khớp với nhu cầu nhập khẩu của những nước khác. Nước đứng đầu khối cộng sản là Liên Xô phải nghiên cứu khả năng của những nước đàn em, hoạch định một kế hoạch chính cho cả khối, rồi Liên Xô và những nước Đông Âu theo đó mà đặt kế hoạch của ḿnh.

So với các nước cộng sản khác, kế hoạch kinh tế của nhả nước cộng sản Việt Nam trước năm 1975 rất giản dị, v́ ngoài nông nghiệp và các mỏ than, mỏ sắt mà mức sản xuất rất giới hạn, kinh tế và ngân sách của Việt Nam lúc đó phần lớn nhờ vào ngoại viện.

Mỗi năm họ làm một danh sách những vật dụng kể cả vơ khí, bom đạn hay tiền bạc cần thiết và cử Lê Thanh Nghị, chủ nhiệm Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước kiêm phó thủ tướng chính phủ CSVN sang Liên Xô và Trung Hoa hay các nước Đông Âu để xin viện trợ. Phó thủ tướng chính phủ CSVN Lê Thanh Nghị đă được giữ chức vụ này nhiều năm, trở nên một chuyên viên xin viện trợ v́ ông ta đă có thể nhẫn nhịn chịu đựng được khi bị các nước viện trợ đôi khi có nhưng thái độ hay lời lẽ khinh thường, nhất là những nước Đông Âu. Những nước này dù nhiều năm gặp khó khăn cũng vẫn phải viện trợ cho Việt Nam là do áp lực của Liên Xô. C̣n Trung Hoa th́ tệ hơn, riêng bản thân Mao Trạch Đông của CS Trung Hoa tức giận khó chịu, nên có lúc đă gọi Lê Thanh Nghị là "tên ăn mày, lúc nào cũng ngửa bát đ̣i xin thêm” (25)

Từ 1954, việc xây dựng hệ thống kinh tế xă hội chủ nghĩa ở Bắc Việt bắt đầu bằng một kế hoạch ngũ niên từ năm 1960 đến năm 1965, gọi là kế hoạch ngũ niên lần thứ nhất để quốc hữu hóa tất cả các hăng xưởng, công ty tư nhân và bắt tất cả nông dân ở nông thôn vào hợp tác xă nông nghiệp. Những tư nhân tương đối có ít nhiều của cải hay ruộng vườn bị đấu tố rất tàn nhẫn. Dù rằng sau đó, đảng CS đă hạ tầng công tác của Trường Chinh, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng và Hoàng Quốc Việt, rồi cho Vơ Nguyên Giáp công khai xin lỗi về những lỗi lầm, nhưng mục  tiêu phá bỏ tư hữu của họ ở miền Bắc đă đạt được, dù cho đă có nhiều người bị chết hoặc bị tù đầy oan uổng. Sau kế hoạch ngũ niên lần thứ nhất này tất cả những ngành kinh tế tại  miền Bắc đều được tập trung, chỉ huy và qui hoạch bởi chính phủ CS ở trung ương.

Dù hệ thống kinh tế đó chẳng sản xuất được bao nhiêu, luôn phải sống nhờ vào ngoại viện và nhân dân trong suốt hơn hai mươi năm sống trong nghèo đói, khổ cực, lầm than nhưng họ đổ thừa thất bại đó là do chiến tranh và do đế quốc phá hoại !!!

Sau năm 1975, những biện pháp tập thể hóa các ngành kinh tế kể trên lại được áp dụng tại Miền Nam (26). Họ gọi đó là kế hoạch ngũ niên lần thứ hai (từ năm 1976 đến 1980), là một giai đoạn chuyển tiếp để “cải tạo” các ngành công nghiệp, nông nghiệp Miền nam vào chiều hướng “xă hội chủ nghĩa” ngơ hầu kết hợp được với nền kinh tế miền Bắc. Do chính sách “người cày có ruộng” của chính phủ VN Cộng ḥa trước 1975, nên lúc đó miền Nam đă hầu như không c̣n giai cấp địa chủ, những cảnh đấu tố hai mươi năm trước đă không xảy ra, nhưng những thương gia giàu có, những nhà sản xuất công nghiệp, những doanh nghiệp tư nhân dù chỉ là trung b́nh hay nhỏ th́ qua những đợt đánh hay cải tạo “tư sản mại bản” nếu không khéo chạy chọt, đút lót đều bị mất sạch tài sản vốn liếng đến trắng tay, hay bị bắt bớ giam cầm cải tạo...

Kế hoạch ngũ niên lần thứ hai này được đề ra và chấp thuận trong đại hội đảng CSVN lẩn thứ tư. V́ mục tiêu của kinh tế xă hội chủ nghĩa đặt ưu tiên vào kỹ nghệ nặng, công nghiệp nặng, lư luận của các kinh tế gia Cộng sản Việt Nam là kỹ nghệ nặng sẽ hỗ trợ để nông nghiệp tăng gia sản xuất… Một khi mức sản xuất nông nghiệp gia tăng sẽ hỗ trợ ngược lại để phát triển kỹ nghệ. Tuy nghị quyết ghi như thế, nhưng thật ra những lănh tụ Cộng sản Việt nam đă chủ định rằng trong thời gian đầu sẽ chỉ nhờ vào sức sản xuất của vựa lúa đồng bằng Cửu Long để hỗ trợ cho kỹ nghệ.

Họ nghĩ rằng sau khi tập thể hóa, biến miền đồng bằng sông Cửu Long thành những nông trường hay những tập thể hợp tác xă, mức sản xuất của nông nghiệp sẽ tăng gia gấp bội. Trong tính toán chủ quan, họ đă đặt ra những chỉ tiêu rất cao, chẳng hạn kỹ nghệ sẽ phát triển 16 đến 18 % mỗi năm, nông nghiệp phát triển từ 8 đến 10%, lợi tức b́nh quân người dân tăng lên từ 13 đến 14 %. Dưới sự chỉ đạo của Đỗ Mười cùng với sự trợ giúp của quân đội do Trần Văn Danh, Tư Lệnh Phó Quân Khu VII, và công an do Cao Đăng Chiếm chỉ huy, chính phủ Cộng sản Việt Nam từ 1976, bắt đầu kế hoạch ngũ niên thứ hai, nhằm tập thể hóa công nghiệp và nông nghiệp miền Nam để theo kịp khuôn mẫu xă hội chủ nghĩa giống như ở miền Bắc.

Hiển nhiên là tiến tŕnh tập thể hóa đó đă đưa đến thất bại hoàn toàn. Những chỉ tiêu phát triển kinh tế nêu trên đă không thực hiện được.

Về nông nghiệp, trong khi những tập thể và hợp tác xă nông nghiệp tại miền Bắc vẫn chỉ sản xuất tạm vừa đủ ăn th́ tại miền Nam, nông dân phần lớn đều đă có ruộng đất nên không ai muốn vào tập thể. Mới đầu chính quyền c̣n khuyến dụ để nông dân tự ư xung phong vào hợp tác xă, nhưng v́ không có kết quả nên đă phải dùng những biện pháp cưỡng bách khá lộ liễu và thô bạo. Như các cán bộ được phép truất hữu ruộng đất, tịch thu máy cày, máy bơm nước, trâu ḅ….của nông dân.

Kết quả là nông dân giết trâu ḅ gia súc trước khi bị tịch thu, bị ép buộc vào hợp tác xă nông nghiệp và khi phải vào hợp tác xă nông dân đă không chịu hết sức làm việc cho nên lương thực vào những năm 1978 và 1979 bị thiếu hụt trầm trọng.

Theo thống kê chính thức của chính phủ CSVN lúc đó. Tổng sản lượng lúa gạo sản xuất năm 1976 là 11,83 triệu tấn, năm 1977 c̣n 10,60 triệu tấn, năm 1978 chỉ c̣n là 979 triệu tấn. Đại đa số nhân dân phải ăn độn cơm với khoai hay bo bo, món này được đảng và nhà nước gọi là cao lương. Nhiều nơi gần như bị nạn đói hoành hành, có nơi chính quyền phải cấp giấy cho nông dân, thương binh đi ăn xin công khai để chống chết đói. Mức sản xuất giảm sút trầm trọng đến nỗi Hội nghị Trung ương vào tháng 8 năm 1979 đă phải tạm thời nới lỏng việc tập thể hóa, theo đó, miền Bắc sẽ cho phép ngoài hệ thống kinh tế nhà nước, c̣n có một phần nhỏ kinh tế cá thể. Riêng miền Nam, c̣n cho phép kinh tế tư doanh cỡ nhỏ tạo điều kiện gia tăng sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp.

Về công nghệ, những năm đầu sau chiến tranh, mức sản xuất có tăng đôi chút v́ những hăng xưởng ở miền Bắc không c̣n phải sơ tán v́ chiến tranh nữa và ở miền Nam việc kiểm soát của chính quyền c̣n chưa chặt chẽ lắm. Tuy nhiên, sau 1977, sau khi chính quyền đầy mạnh “cải tạo công nghiệp”, mức sản xuất sa sút hẳn. Tổng sản lượng sản xuất công nghiệp năm 1980 so với 1976 thấp hơn 3 %. Kỹ nghệ nặng miền Bắc cũng bị tổn hại nặng sau khi quân Trung Hoa tấn công và tàn phá những tỉnh biên giới phía Bắc vào đầu năm 1979. V́ nạn thất nghiệp gia tăng, Việt Nam phải gửi hàng trăm ngàn nhân công đi lao động tại Liên Xô và các nước Đông Âu.

Khi đặt chỉ tiêu phát triển kinh tế thật cao như vậy, đảng nhà nước Cộng Sản Việt Nam cũng đă lạc quan trông đợi vào sự giúp đỡ của những cường quốc. Tuy nhiên, số tiền ngoại viện đă không được như ư muốn.

Tiền bồi thường chiến tranh 3 tỷ Mỹ kim của Mỹ không có, các nước Tây Phương chỉ viện trợ nhỏ giọt, viện trợ của Trung Hoa nửa chừng bị cắt. Sau khi Việt Nam kư hiệp ước hữu nghị với Liên Xô và gia nhập khối kinh tế COMECON của những nước cộng sản, Việt Nam chỉ nhận được viện trợ của Liên Xô và các nước Đông Âu, nhưng số viện trợ này không đủ để bù đắp vào nhũng khuyết điểm của một hệ thống kinh tế cứng nhắc, không năng động, rất tŕ trệ và thiếu sáng kiến. Ngoài ra, sự viện trợ của những nước cộng sản anh em khác với khoảng trên dưới ba tỷ Mỹ kim mỗi năm cũng không phải không có điều kiện. Đó là điều kiện buộc Việt Nam phải đứng hẳn vào phe Liên Xô để chống lại Trung Hoa và phải để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và Đà Nẵng.

Ngay sau trận chiến biên giới Việt - Hoa vào năm 1979, những chiến hạm trang bị dụng cụ điện tử để thu thập tin tức t́nh báo của Liên Xô bắt đầu cập bến Đà Nẵng. Sau đó, ngày 27-3-1979, một chiến hạm, một hộ tống hạm, một tàu vớt ḿn của Liên Xô tiến vào trú đóng tại hải cảng Cam Ranh. Số chiến hạm này tăng dần cho tới năm 1986 th́ có tất cả 25 chiến hạm, kể cả tàu ngầm. Cùng với khoảng 16 oanh tạc cơ Badger, một phi đội Mig 23 cùng những phi cơ chuyên chở và quan sát tầm xa, Liên Xô đă có một đầu cầu quân sự quan trọng đe dọa Trung Hoa cũng như toàn vùng biển ở nam Thái B́nh Dương (27).

Cũng ngay sau cuộc chiến Việt- Hoa trên vùng biên giới, để đối phó với sự đe dọa liên tục của Trung Hoa và để cho có đủ quân số b́nh định Căm Pu Chia, ngày 5-3-1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên, tăng quân số từ nửa triệu đến hơn 1 triệu, biên chế thành 51 sư đoàn, trong đó có 38 sư đoàn bộ binh (19 sư đoàn đóng ở Căm Pu Chia, 16 sư đoàn Ở Việt Nam, 3 sư đoàn ở Lào).

Số quân đoàn chính qui với mỗi quân đoàn có 3 hay 4 sư đoàn dùng như những lực lượng tổng trừ bị cũng tăng từ 4 lên thành 6 rồi 8 (28). Sự bành trướng quân đội này được thực hiện nhờ sự trợ giúp lớn lao của Liên Xô.

Trước năm 1975, Liên Xô chỉ cung cấp khoảng 75% trang bị và tiếp liệu của quân đội Cộng Sản Việt Nam, số c̣n lại là của Trung Hoa và nhũng nước Đông Âu khác giúp đỡ. Sau năm 1975, tỷ số này lăng lên 97%. Mỗi năm Liên Xô gửi khoảng 15 ngàn cố vấn quân sự sang Việt Nam. Trị giá  viện  trợ quân sự của Liên xô cho Việt Nam được ước lượng khoảng 1 tỷ rưỡi Mỹ kim.

Đó là cái giá cần thiết trong mục tiêu chiến lược của Liên Xô để một mặt, dùng Việt Nam cầm chân và bao vây Trung Hoa và mặt khác, có được một đầu cầu chiến lược đối đầu với Hoa Kỳ tại vùng biển Thái B́nh Dương đe dọa các nước Nam Dương và Úc Châu.

Tuy nhiên, dù đă được Liên Xô và các nước Đông Âu viện trợ dồi dào như thế, nhưng do gánh nặng của cuộc chiến Căm Pu Chia và v́ phải đề pḥng bài học thứ hai của Trung Hoa, ngân sách của Việt Nam bị thiếu hụt trầm trọng.

Riêng chiến phí quân sự tại Căm Pu Chia đă chiếm mất hơn 40% ngân sách. Ngoài ra, trong thời gian đó, Trung Hoa vẫn cố gắng phát động một cuộc chiến tranh phá hoại đa diện khiến cho nền kinh tế Việt Nam càng thêm cùng quẫn.

So với Việt Nam, Trung Hoa không thua kém về sự kiên nhẫn và những thủ đoạn. Họ giúp đỡ Khmer Đỏ tiếp tục cuộc chiến tranh phá hoại, thường xuyên gây rối ở biên giới, đe dọa về bài học thứ hai, ve văn những chính khách thất sủng như Hoàng Văn Hoan, Trương Như Tảng của Việt Nam, Không Le (chắc đại úy Coong le) của Ai Lao... thành lập những “Mặt Trận Giải Phóng" chống lại CS Việt Nam. Họ áp lực và mua chuộc để những công ty ở Hồng Kông, Thái Lan, Mă Lai hay Tân Gia Ba không mua hàng hóa của Việt Nam... Những điều này đă khiến kinh tế Việt Nam càng thêm sa sút trầm trọng.

Dù căn bản cho sự sa sút kinh tế này là do việc tập thể hóa nông nghiệp và “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh" ở miền Nam, nhưng nhóm cầm quyền vẫn một ḷng trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê nin. Vẫn cho chính sách kinh tế tập trung là siêu việt và họ đổ lỗi cho những thất bại là do những lư do khách quan, như bị những thế lực thù địch  phá hoại do "tàn dư Mỹ Ngụy” hay do cán bộ quản lư yếu kém. V́ thế năm 1980, đảng Cộng Sản cầm quyền cải tổ lại chính phủ để thay đ̣i nhân sự đều hành:

- Thủ tướng vẫn là Phạm Văn Đồng (29)

- Tố Hữu được cử làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế.

Nhân vật Tố Hữu tên thật lả Nguyễn Kim Thành, bí danh là Lành, sinh tại Huế năm 1920, xuất thân là một nhà thơ cộng sản nổi tiếng với bài thơ ca tụng lănh tụ của CS Liên Xô Stalin. Tố Hữu trong suốt mấy chục năm trước thường chỉ công tác trong đảng với những nhiệm vụ văn hóa hay tuyên huấn, nhưng đă được chỉ định đặc trách kinh tế v́ Tố Hữu là người tỏ ra rất trung kiên về ư thức hệ, rất tôn phục Liên Xô và trong giai đoạn này, bộ chính trị CSVN quyết tâm “xă hội chủ nghĩa hóa” nền kinh tế Việt Nam rập theo khuôn mẫu Liên Xô một cách cứng rắn. Ngoài ra, Tố Hữu c̣n được Lê Duẩn và Lê Đức Thọ nâng đỡ, cho nên hai năm sau ông ta được chính thức đưa vào Bộ Chính Trị, như vậy Tố Hữu là người được dự trù để thay thế Phạm Văn Đồng làm thủ tướng một khi ông này về hưu.

(Chi tiết thú vị: dù ở chức vụ cao, nhiều quyền hành, thơ của ông ta được học sinh bắt buộc phải học nhiều nhất, nhưng Tố Hữu và đảng Cộng Sản cũng biết giới hạn mà không bao giờ in lại hay phổ biến bài thơ: "thương mến Staline gấp mười cha mẹ của ông" nữa).

Phạm Hùng thay Trần Quốc Hoàn làm bộ trưởng công an. Phạm Hùng, bí danh Bảy Cường, người tỉnh Bến Tre. Sau Hiệp Định Genève năm 1954 đóng vai một đại tá phục vụ trong phái đoàn Bắc Việt tại Ủy Hội Kiểm Soát Đ́nh Chiến, sau đó trốn vào bưng làm chủ tịch Trung ương Cục Miền Nam, là ủy viên Bộ Chính Trị duy nhất phục vụ tại miền Nam.

- Nguyễn Cơ Thạch thay Nguyễn Duy Trinh trong chức vụ bộ thường Bộ Ngoại Giao.

Nguyễn Cơ Thạch là một nhà ngọai giao giỏi tiếng Anh, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài nền đầu óc tương đối cởi mở, ông này được cử lên thay Nguyễn Duy Trinh trong thời gian mà Việt Nam đang bị cô lập sau khi Việt Nam đem quân sang chiếm đóng Căm Pu Chia vào đầu năm 1979.

Văn Tiến Dũng thay Vơ Nguyên Giáp làm bộ trưởng Quốc Pḥng. Vơ Nguyên Giáp bị Lê Duẩn ganh ghét nên đă bị chèn ép và mất dần uy thế. Năm 1973 nhân sự thất bại của trận chiến năm 1972. Lê Duẩn gạt Vơ Nguyên Giáp ra khỏi chức Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội. Năm 1980 Vơ Nguyên Giáp mất luôn chức ủy viên Bộ Chính Trị và bộ trưởng Bộ Quốc Pḥng. Kể tử đó Vơ Nguyên Giáp chỉ c̣n được giao cho những chức vụ không quan trọng như chủ tịch Ủy Ban Khoa Học kỹ thuật nhà nước hay Ủy Ban Pḥng Ngừa Sinh Sản của chị em phụ nữ.

- Nguyễn Lâm thay Lê Thanh Nghị làm chủ tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà nước. Khả năng chính của Lê Thanh Nghị là trong những năm chiến tranh th́ mỗi năm cầm bản danh sách những vật dụng hay quân dụng cần thiết sang Trung Hoa xin viện trợ. Sau 1975, Trung Hoa đă trở nên thù nghịch nên Lê Thanh Nghị đă không c̣n cần thiết nữa.

- Đinh Đức Thiện (em trai ruột Lê Đức Thọ) (30) thay Phan Trọng Tuệ làm Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải. Phan Trọng Tuệ từng là chính ủy Quân Khu IX Ở miền Nam trước 1954. Con rể Phan Trọng Tuệ là Nguyễn Khánh Toàn, sau này là thứ trưởng bộ công an. Chính Phan Trọng Tuệ, vào những năm cuối thập niên 1940 đă cho Pḥng Chính Trị của Quân Khu IX phổ biến thông tư đặc biệt cho phép Phan Trọng Tuệ, Lê Đức Thọ và Lê Duẩn được lấy thêm vợ (31)

- Trần Hữu Dực thay Vũ Tuân ở Bộ Công Nghiệp Nhẹ.

Ngoài ra, ở các bộ khác như:

- Bộ Trưởng Xây Dựng Đồng Sĩ Nguyên đă thay Đỗ Mười từ 1977 để cho Đỗ Mười vào miền Nam chỉ đạo việc cải tạo công thương nghiệp

- Bộ Trưởng Bộ Lương Thực Hồ Viết Thắng (32) thay Ngô Minh Loan từ 1979.

Bộ Trưởng Nội Thương Trần Phương (từng là trợ lư của Lê Duẩn) thay Hoàng Quốc Việt từ 1981

- Bộ Trưởng Văn Hóa Thông Tin Nguyễn Văn Hiếu (thứ trưởng là Trần Độ (33) kiêm nhiệm bí thư đảng ủy)

Bộ Trưởng binh xă hội Dương Quốc Chính. Dương Quốc Chính từng là Bộ Trưởng Nông Nghiệp trước năm 1965. Trước đó là 1 trong 11 người được phong tướng đầu tiên trong quân đội, dưới tên Lê Hiến Mai (xin xem chú thích (34) về lư do cái bí danh này).

Huỳnh Tấn Phát người của Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam MTGPMN VN cũ được làm chủ tịch ủy Ban Xây Dựng Cơ Bản Nhà Nước.

Nội các này đă gần như không thay đổi cho đến đại hội đảng lần thứ V.

Đại hội IV được cử hành trong khí thế đang lên sau chiến thắng năm 1975, cùng một lúc với sự bành trướng thế lực của Liên Xô trên toàn thế giới. V́ thế, những nhà lănh đạo Cộng Sản Việt Nam lúc đó hoàn toàn tin tưởng rằng chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nit bách chiến bách thắng, sức mạnh của "ba ḍng thác cách mạng" dưới sự lănh đạo của Liên Xô là một sức mạnh long trời long lở đất đang trên đường nhuộm đỏ toàn cầu.

Tin tưởng vào sự hậu thuẫn của Liên Xô, họ đe dọa các nước lân bang, đặt điều kiện khi Hoa Kỳ ngỏ ư muốn bang giao, coi thường dư luận trên thế giới để chiếm đóng Căm Pu Chia và ngang nhiên thách đố và đương đầu với Trung Hoa. Tất cả những chính sách đó dù đă đưa kinh tế Việt Nam vào một t́nh trạng thảm hại, đời sống nhân dân thêm khốn khó, nhưng chính quyền CS Việt Nam lúc đó vẫn cuồng tín tin tưởng rằng khó khăn chỉ là tạm thời, thuận lợi là chủ yếu. Với tinh thần cương quyết xây dựng xă hội chủ nghĩa, đảng Cộng Sản Việt Nam chuẩn bị họp Đại Hội Đảng Lần Thứ V.

Chú thích:

1. Thái độ của Phạm Văn Đồng khi dự Hội Nghị Tích Lan, trích trong bài Passing Of An Area của Seah Chi ang Nee từ www.littlespeck.com/The Past/cpast-viet-870102.htm

2. Bộ máy cai trị của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, tài liệu của ông Trần Nhu, một nhà sử học ở Hà Nội hiện định cư tại Hoa Kỳ (trong website  Vietnamexodus). Trưởng ban trong Trung ương Đảng ăn lương bậc 9 cấp bậc ngang bộ trưởng nhưng quyển thế nhiều khi lớn hơn bộ trưởng, chẳng hạn trưởng ban Thông Tin Văn Hóa Đảng, quyền thế hơn bộ trưởng Thông Tin Văn Hóa. Trong số những người này có ông Nguyễn Trung Thành trong những năm 1960 đă cùng Đại Tá quân đội Kinh Chi thuộc cục bảo vệ quân đội và Đại Tá Dương Thông (sau là trung tướng) thuộc Bộ Công An theo lệnh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bắt bớ, giam hăm những người trong vụ án xét lại hiện đại, tướng công an Dương Thông là em vợ của Lê Duẩn.

3. Nguyễn Chí Thanh từng là ủy viên xứ ủy Trung kỳ, tới 1948 được cừ làm chủ nhiệm Tống Cục Chính Trị Quân Đội, rất thân cận với Lê Duẩn và Tố Hữu. Vào Nam chỉ đạo chiến tranh từ 1964 đến 1967 th́ chết sau khi về miền Bắc. Có lẽ trong hồ sơ lư lịch xét sau năm 1975, cho thấy Nguyễn Chí Thanh khi bị Pháp bắt thời trước 1945 đă cung khai ra hàng loạt đồng bọn nên sau này Nguyễn Chí Thanh đă không được vinh danh rầm rộ như những người khác. (chỉ có 1 con đường ở Sàig̣n ngay sau 1975 lỡ được đặt tên Nguyễn Chí Thanh nên được giữ lại).

4. Sự ganh ghét giữa Lê Duẩn và Vơ Nguyên Giáp, đọc hồi kư Mặt Thật của cựu đại tá Bùi Tín theo đó Lê Duẩn c̣n có lần chê Vơ Nguyên Giáp “nhát như thỏ đế". Không những đă đè đầu và hạ nhục Vơ Nguyên Giáp, Duẩn và Thọ c̣n coi thường cả Hồ Chí Minh.

Nhật kư của Nguyễn Văn Trấn, ủy viên Trung ương Đảng kể lại lời Bùi Công Trừng nói là trong một hội nghị, Hồ Chí Minh muốn có ư kiến đều bị Lê Đức Thọ gạt đi nói là :  “bác hăy cho anh em người ta nói đă mà…”.

Ung Văn Khiêm cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao v́ kư thông cáo chung với Novotny của Tiệp Khắc thiên về lập trường Liên Xô nên bị phê b́nh đă phân trần là trước đó Hồ Chi Minh chẳng những đă đồng ư với ông ta mà c̣n viết thêm lời bàn trên bản thào. Ung văn Khiêm nói với Bùi Công Trừng : " tao nghĩ bản thảo ấy đưa ra không phân bua được ǵ cho tao, mà chỉ làm thớt cho Sáu Thọ (tức Lê Đức Thọ) băm ông Cụ”.

Nhà văn Vũ Thư Hiên hiện sống lưu vong bên Pháp cũng kể lại là Lê Liêm, cựu chủ nhiệm tổng cục Chính trị, cựu thứ trưởng bộ giáo dục có lần dự định đề ra một kế hoạch, hỏi ư Hồ Chí Minh và được đồng ư, nói là cứ đưa ra hội nghị và ông ta sẽ hỗ trợ, nhưng khi đưa ra bị nhóm Duẩn và Thọ chỉ trích th́ Hồ Chí Minh làm lơ, ngó qua chỗ khác.

Với danh vị của Hồ Chí Minh, chắc ban tổ chức của Lê Đức Thọ đă nắm được điều ǵ trong lư lịch (có thể là vụ cụ Phan Bội Châu bị bắt, những lăng nhăng t́nh ái...) khiến Hồ Chí Minh phải ngồi yên để nhóm Duẩn, Thọ thao túng trong nhiều năm.

5. Tôn Đức Thắng nhở tuổi tác và không bon chen nên được làm Chủ tịch nhà nước sau khi Hồ Chí Minh chết. Xuất thân là công nhân, sau đó trong thế chiến thứ nhất làm thủy thủ trên một tàu chiến Pháp, được Đảng Cộng Sản Việt Nam mô tả là một người "giản dị, vĩ đại”. Sử gia Christoph Giebal khi viết về Tôn Đức Thắng cũng công nhận ông ta là một người giản dị, không tham vọng nhưng chưa chắc là vĩ đại, v́ một ngày bộ máy tuyên truyền càng tạo thêm nhiều chi tiết về tiểu sử của ông.

Mới đầu, Đảng Cộng sản nói là ông đă tham dự vào cuộc nổi loạn ở biển Hắc Hải  vào năm 1907, một tàu Pháp từ chối không chịu nghe lệnh cấp trên để trợ giúp đàn áp phong trào công nhân nổi loạn ở Liên Xô. Những năm 1950, th́ đảng nói thêm là ông là người cắm cờ Cộng sản trên con tàu đó, bây giờ đảng lại đôn ông lên làm một trong những người lănh đạo phong trào nổi loạn. Trong suốt mấy chục năm, nhiều phóng viên Liên Xô đă nhiều lần hỏi ông về những chi tiết trong vụ này nhưng ông đều trả lời là ông không nhớ.

6. Mai Chí Thọ, sau 1975 là lănh đạo công an ở miền Nam, ông này đă chiếm hữu một ṭa biệt thự rộng lớn ở Sài g̣n ( nơi đây là ṭa đại sứ Thụy Sĩ trước kia). Đến 2006, khi không c̣n quyền hành, mới viết thư góp ư trong dịp chuẩn bị đại hội đảng lần thứ X là những người trong Liên minh Dân chủ “khi cần chúng ta lấy ra dùng, khi không cần, chúng ta gạt ra". Thật ra những người này, khi chính quyền tịch thu nhà của những người di tản hay bị đuổi đi kinh tế mới đều được cấp cho mỗi người một căn nhà khang trang hơn, kề cả đám Vũ Hạnh, Lữ Phương, Thái Bạch...

7. Khoảng hơn 10 năm sau Lư Quí Chung có viết một bài báo kể lại chuyện học chính trị cùng với sinh viên. Khi làm bài, Lư Quí Chung g̣ lưng so sánh Mác với người này người kia để cuối cùng kết luận Mác lả số 1, nhưng kết quả điểm lúc nào cũng hạng chót. Lư Quí Chung hỏi mấy cô sinh viên làm bài ra sao, mấy cô cười phá lên và nói là tài liệu đưa ra sao, mấy cô chép y trang lại là được điểm hoàn toàn cao. Giọng văn của Lư Quí Chung trong bài này là để phân trần thiện chí học tập của ḿnh mà không được chiếu cố chứ không phải có ư chê trách lối giảng dạy. Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa kế lại, là mấy ngày sau 30 - 4-1975, ông có đến nhà Ngô Công Đức, đúng lúc công an CS đến bắt Ngô Công Đức v́ tội “chắc phải làm lớn với Mỹ Ngụy nên trong nhà mới có đài (điện thoại)”. Gia đ́nh phải chạy chọt măi nên Đức mới được tha ra.

8. Thích Huyền Quang, tên thật Lê Đ́nh Nhân sinh năm 1919. Bắt đầu bị bắt giam vào năm 1977 chỉ v́ phản đối chính sách đàn áp tôn giáo và chống lại việc sát nhập Giáo hội Việt Nam Thống nhất vào giáo hội nhả nước CS. Năm 1982 bị đày ra chùa Hội Phước, thuộc tỉnh Quảng Ngăi. Năm 1992, được thượng tọa Thích Đôn Hậu viết chúc thư công nhận ông là Tăng Thống Viện hóa Đạo, nhưng công an CS vào chùa tịch thu rồi giấu mất chúc thư mấy năm trước đi. Phan Văn Khải và gần đây hơn là bộ trưởng công an CSVN Lê Hồng Anh có đến thăm thượng tọa với mục đích tuyên truyền và ly gián Thượng Tọa Huyền Quang với Thích Quảng Độ.

9. Thích Quảng Độ, tên thật là Đặng Phúc Tuệ sinh năm 1928, là tổng thư kư Viện Hóa Đạo cùng bị bắt một lượt với Thượng Tọa Thích Huyền Quang. Năm 1982, Thượng tọa bị đày ra tỉnh Thái B́nh để quản chế tại ngôi chùa Long Khánh. Sau hơn 10 năm, khi Liên Xô sụp đổ và toàn khối CS Đông Âu tan ră, ông đă tự ư trở lại Sài g̣n vào năm 1992 để tiếp tục đấu tranh cho tự do tôn giáo và sau đó nữa lại bị kết án tù 5 năm chỉ v́ đi cứu tế băo lụt cho đồng bào các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trong đêm đầu tiên ở chùa Long Khánh, thượng tọa đă làm mấy câu thơ :

Dưới án quyển kinh sâu cuốn tổ

Trên ṭa tượng Phật nhện giăng tơ

Câu đối mối xông mùn đắp kín

Hoành phi mọt đục bụi che mờ

Thầy của ông, thượng Tọa Thích Đức Hải bị quân cộng sản bắt và xử tử vào năm 1946 v́ bị nghi là tham gia vào Quốc dân Đảng.

10. Nguyễn Văn Thuận cháu của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, trước 1975 phụ tá Tồng Giám Mục Nguyễn văn B́nh. Sau đó bị đưa ra Bắc và bị ở tù 13 năm. Khi Đức giám mục này qua La Mă công tác, chính quyền CSVN không cho ông trở về nước nữa. 11. Vụ David Trương làm gián điệp, dù chỉ ăn cắp được những tài liệu không quan trọng nhưng v́ không quan trọng nên có thể công khai đưa ra ṭa làm bằng chứng. Sau khi bị kết tội, David Trương sang định cư ở Ḥa Lan (Brother Enemy - Nay an Chan da). Một người giúp đỡ chính phủ Mỹ trong vụ án này là bà Yung Krall ( tức Đặng Mỹ Dung).

             12. Thích Trí Siêu tên thật Lê Mạnh Thát, đi tu năm 15  tuổi. Đỗ tiến sĩ triết học tại Đại Học Wisconsin, trở về dạy ở Đại Học Vạn Hạnh đă cùng Thích Tuệ Sĩ soạn cuốn Từ Điển Phật Giáo Việt Nam. Ông bị bắt giam ở Chí Ḥa từ 1984 đến 1988, CSVN mới đưa ông ra ṭa và bị kêu án tử h́nh. Nhờ quốc tế can thiệp, án giảm c̣n 20 tù, bị giam ở trại Z-30D. Mấy năm sau được thả ra nhưng vẫn bị quản thúc hay theo dơi chặt chẽ. Thích Trí Siêu và Thích Tuệ Sỹ đă hợp soạn cuốn Tự Điển Phật Giáo Việt Nam.

           Thích Tuệ Sĩ tên thật Phạm Văn Thương, đi tu từ nhỏ, tốt nghiệp Đại Học Vạn Hạnh năm 1965. Ông này rất giỏi tiếng Pháp, Anh, Hán, Đức, Pali, Phạn,… Xuất bản những cuốn như Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng, Đại Cương Về Thiền Quán... Cùng với Trí Siêu, Tuệ Sĩ bị bắt năm 1984 và bị kết án tử h́nh vào năm 1988 với tội danh mưu toan lật đổ chính phủ. Do áp lực quốc tế án cũng được giảm án xuống 20 năm tù và bị giam tại trại A, tỉnh Phú Yên. Tuệ Sĩ là một tấm gương kiên cường, bất khuất. Tháng 8-1998, chính quyền CSVN bảo ông làm đơn xin ân xá. Khi đó ông đă thẳng thắn trả lời : "Không ai có quyền xét xử tôi. Không ai có quyền ân xá tôi…”. Ta hăy cùng đọc những lời thơ xanh mướt của ông:

Tang thương một giải tóc huyền

Băi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu

Gửi thân gió cuốn sa mù

Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng

Đến khi bị giam nhốt ở trong lao tù th́ thơ của ông đầy cảm khái:

Phụng thử ngục tù phạm

Cúng dường Tối Thắng Tôn

Thế gian trường huyết hận

B́nh bát lệ vô ngần

Tuệ Sĩ được ra khỏi tù tháng 9 năm 1998, nhưng cho tới nay ông vẫn như bị giam lỏng ở chùa Già Lam.

13. Vơ Đại Tôn là Cựu đại tá quân đội VNCH, sau năm 1975 định cư bên Úc, khoảng năm 1980 ông cùng một số đồng chí của ḿnh vượt biên trở về Việt Nam và bị CS bắt giam ngay. Lúc đầu ông giả bộ ngoan ngoăn hợp tác và được công an, chính quyền Cộng sản đem ra tŕnh diện với báo chí quốc tế để trực tiếp ông nói lời nhận tội, xin khoan hồng, nhưng trong cuộc họp báo đó, ông lớn tiếng tố cáo chế độ độc tài CSVN, thẳng tay đàn áp nhân dân. Thứ Trưởng Nội Vụ Lê Thành Công vả Trung Tướng Công An Dương Thông phải vội vảng kết thúc ngay cuộc họp báo đó rồi đưa ông đi biệt giam hơn 10 năm tù.

14. Hoàng Cơ Minh cựu phó đề đốc, trước 1975 là tư lệnh vùng II duyên hải quân lực VNCH. Sau khi di tản, năm 1981 thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam đặt mật khu ở biên giới Thái Lan. Tháng 7 năm 1987, khi ông ta cùng các chiến hữu trên đường xâm nhập vào Việt Nam th́ bị chặn đánh ở biên giới Việt – Lào. Trong trận đánh đó, bộ đội Cộng Sản Việt Nam huy động cả pháo binh và phi cơ oanh tạc, cuối cùng ông Hoàng Cơ Minh bị tử trận củng một số chiến hữu từ hải ngoại về.

15. Hiện tại, ở Việt Nam có khoảng 600 tờ báo các loại, nhưng tất cả đều do chính quyền CS kiểm soát. Tổng biên tập đều phải là đảng viên CSVN. Hai tờ báo chính của chính quyền là Nhân Dân có từ 1951, phần nhiều chỉ đăng những nghị quyết, những thông cáo hay nhưng lời tuyên bố của những lănh tụ CS, và tờ Quân Đội Nhân Dân cũng đăng tin quốc tế và quốc nội nhưng nhấn mạnh về quân sự là chính. Ngoài ra, c̣n có tờ Tạp chí Học Tập, sau năm 1976 đổi tên là Tạp Chi Cộng Sản phát hành mỗi tháng là tiếng nói của đảng CSVN. Cũng có một số báo ngoại ngữ tiếng Anh Pháp, Hoa, Căm Pu Chia... trong đó có tạp chí Vietnam Courrier viết về những vấn đề chính trị, văn hóa, tạp chí Vietnam Foreign Trade trước viết về thương mại. Ngoài ra là những báo của những đoàn thể như Phụ nữ, Công đoàn, hội cựu chiến binh, thanh niên, nhi đồng, thiếu niên,…ngoài ra nữa c̣n những tờ báo của những địa phương hoặc những ngành nghề khác nhau. Tờ báo tương đối mạnh dạn là tờ Tuổi Trẻ. Tờ báo có nhiều độc giả là tờ Công An, An ninh thế giới… nhờ khai thác và ly kỳ hóa những vụ án tống tiền lường gạt, hiếp dâm, cướp bóc, giết người… Và tờ báo bán ế ẩm nhất là tờ Nhân Dân của ĐCSVN dù các cơ quan đoàn thể đều bị bắt buộc phải mua đọc và trong thời kỳ khan hiếm giấy, người dân đă mua nhiều chỉ để gói hàng hay dùng đi vệ sinh cá nhân mà thôi. (trích lời của cựu Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan trong Shadows and Wind của Robert Templer).

16. Về việc lấy ḷng chính quyền CSVN, khi tác giả c̣n ở Việt Nam th́ ở tờ Tin Sáng cái ǵ chính quyền làm cũng được ca tụng, từ cải tạo công thương nghiệp đến việc xây nhà vệ sinh… Cả đến những bài về khoa học như viết về khoai lang, khoai ḿ, rau muống... cũng đều được Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ ca tụng là bổ dưỡng vô song !!! Những tác giả thi nhau lấy ḷng chính quyền CSVN chẳng hạn ông Trần Kim Thạch là con của nhà văn Thiên Giang, trước 1975, khi những hăng dầu ngoại quốc bắt đầu t́m kiếm dầu hỏa ở ngoài khơi biển Đông có viết một bài báo nói là về phương diện địa chất không thề có dầu ở biển Đông. Dĩ nhiên các hăng dầu hỏa, không ai biết về bài “khảo cứu khoa học" của ông và đă t́m ra 2 giếng đầu Thanh Long và Bạch Hổ. Sau này, ông viết báo phân trần là ông biết rơ ngoài biển Đông có dầu nhưng phải viết vậy để đế quốc Mỹ không khai thác.

17. Hoảng Văn Hoan vào tháng 7 năm 1979, khi đó đă mất chức ủy viên Bộ chính trị nhưng c̣n chức phó chủ tịch quốc hội, viện cớ muốn sang Đông Đức chữa bệnh, khi máy bay tạm ngừng ở Karachi, thuộc Hồi Quốc th́ ông ta bỏ trốn sang Trung Hoa. Sau đó được Trung Hoa giúp thành lập một Mặt Trận Giải Phóng chống lại tập đoàn Lê Duẩn. Ông đă Viết cuốn hồi kư “Giọt Nước Trong Biển Cả". Sau đó chết v́ ung thư phổi tại Trung Quốc.

18. Chu Văn Tấn gốc người dân tộc Tầy, có làm Bộ Trưởng Quốc Pḥng một thời gian ngắn trước Vơ Nguyên Giáp, sau này bị bắt và có lẽ chết trong tù. Sau khi chết nhiều năm, được đảng CS ngó lại công nhận có đóng góp nhưng “đă phạm sai lầm”  vào những năm cuối và vẫn bị chôn ở một nghĩa địa hạng chót theo tiêu chuẩn của đảng…

19. Thái độ của Lê Duẩn nhận làm em nhỏ đối với đàn anh Trung Hoa, khom lưng cúi đầu chào Brezhnev hai lần. Brother Enemy Nay an Chan da

20. Chính sách trục xuất người Hoa và tổ chức vượt biên lấy vàng được gọi là “phương án 2”. Một trong những thuyền nhân nổi tiếng là ông Trương Như Tảng cựu Bộ Trưởng Tư Pháp của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hồi chiến tranh. Một người vượt biên khác là Nguyễn Công Hoan, một dân biểu nằm vùng trước 1975, c̣n sau 1975 cũng được chính quyền Cộng sản cho ra làm đại biểu quốc hội một nhiệm kỳ.

21. Tài liệu về hội nghị đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1951 đă được ghi nhận trong cuốn “Việt Nam Máu Lửa” của Nghiêm Kế Tổ in trong thập niên 1950. Nghiêm Kế Tổ là một đảng viên Quốc Dân Đảng và rất có uy tín với Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Tuy ông đă giúp đỡ nhiều cán bộ Cộng sản (kể cả Hồ Chí Minh để được tha khỏi tù) nhưng vẫn bị gán tội là phản động và bị Hoàng Văn Hoan gọi là đặc vụ của Tưởng Giới Thạch.

22. Về những chi tiết quân sự trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc (cuộc chiến tranh Hoa - Việt) và Tây Nam với Căm Pu Chia, xin đọc Chiến Tranh Đông Dương III của cùng tác giả, nhà xuất bản Văn Nghệ

23. Về phương diện quân sự, Việt Nam được chia làm tám quân khu: quân khu I vùng Cao Bằng, Thái Nguyên, quân khu II vùng Lai Châu, Lào Kay, quân khu III vùng châu thổ sông Hồng, quân khu IV vùng Nghệ Tĩnh, Huế, Quân khu V vùng cao nguyên và duyên hải Nha Trang, quân khu VII vùng Sài g̣n, quân khu IX vùng châu thổ sông Cửu Long. Ngoài ra c̣n có những đặc khu thủ đô, đặc khu thành phố HCM, đặc khu Quảng Ninh.

24. Theo Nayan Chanda, trong chiến tranh với Căm Pu Chia, Tướng Lê Trọng Tấn đă từng tham mưu phó quân đội, đóng Bộ Tư Lệnh ở MACV cũ trong sân bay Tân Sơn Nhất giám sát cuộc hành quân, nhưng theo ông Lê Tùng Minh (website Hưng Việt), tư lệnh lả Lê Đức Thọ, Phạm Hùng chính ủy, Trần Xuân Bách Phó Chính ủy, Lê Đức Anh là Tham Mưu Trưởng, Chu Huy Mân Tư Lệnh Phó. Có lẽ Lê Đức Thọ giám sát cả về chính trị lẫn quân sự, c̣n tướng Lê Trọng Tấn là tư lệnh về quân sự một thời gian ngắn. Khi Trung Hoa tấn công Việt Nam, cả Tấn lẫn Mân đều trở về Bắc, giao trách nhiệm lại cho Lê Đức Anh. Thời gian này Đỗ Mười cũng phụ tá cho Lê Đức Thọ.

25. Việc Cộng sản Bắc Việt cho Lê Thanh Nghị mỗi năm muối mặt đi xin viện trợ ở các nước trong khối cộng sản và bị coi thường (Nayan Chanda trong Brother Enemy).

26. Theo Giáo Sư Nguyễn Như Cương người đầu tiên vào Nam phụ trách để t́m cách kết hợp kinh tế hai miền là Đinh Đức Thiện và Thiện đă lập một ban tư vấn kinh tế gồm những giáo sư đại học miền Nam cũ như Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Xuân Oánh, Lê Văn Sĩ, Châu Tiến Khương, Dương Kích Nhưỡng...vv… Nhưng cũng như hội Trí Thức Yêu Nước, ban này chỉ để tỏ ra như nhà nước coi trọng trí thức và những người tham dự thật ra cũng chỉ để kiếm “ô dù” che thân. Nguyễn Văn Hảo không tham dự những nhóm này, có lẽ kiếm được một ô dù khác là Nguyễn Văn Linh. Sau đó vài tháng, Đinh Đức Thiện được triệu hồi về Hà Nội để làm bộ trưởng Giao Thông.

27. Căn cứ Liên Xô Ở Cam Ranh theo Nayan Chanda

28. Vietnam People Army của Douglas Plke

29. Phạm Văn Đồng là thủ tướng CSVN lâu nhất thế giới tuy tự biết không làm được việc ǵ và nhiều lúc nói là thấy “xấu hổ", nhưng vẫn ngồi lỳ ở chức vụ đến nỗi một cán bộ cộng sản lâu năm là Trần Văn Giàu đă mai mỉa “cái đít nó biết nhớ cái ghế…”

30. Đinh Đức Thiện (tên thật Phan Đ́nh Dinh) ông ta là em ruột Lê Đức Thọ, sau này chết v́ súng bị cướp c̣ khi đang đi săn ở huyện Nho Quan, tỉnh Ninh B́nh, nhưng cũng có tin là ông ta bị con trai bắn chết (nghe nói người con trai này hồi nhỏ bị ông ta đánh đập tàn nhẫn nên bị hư mắt và tâm thần). Tin chính thức th́ nói là ông ta đă “bị xe đụng” (trong khi làm Bộ Trưởng Giao Thông, thật là bí ẩn !)

31. Tài liệu của ông Vi Thanh trong “Lớn Lên Với Đất Nước"

32. Hồ Viết Thắng từng làm đại diện Tổng Bộ Việt Minh trong Nam trước 1954 bị hạ tầng công lác cùng với Trường Chinh trong Cải cách Ruộng đất. Dù thuộc phe Trường Chinh, sau này được phục hồi làm Bộ Trưởng Lương Thực v́ có con gái là Hồ Thị Nghĩa, một bác sĩ đă có con với Lê Duẩn.

33. Trần Độ, tên thật là Tạ Ngọc Phách, trước 1954 làm chính ủy trung đoàn Sông Lô, rồi sư đoàn 312, sau 1954 là chính ủy quân khu hữu ngạn sông Hồng trước khi vào Nam làm phó chính ủy quân giải phóng miền Nam VN.

34.  Bí danh Lê Hiến Mai là của Dương Quốc Chính rất lư thú. Tác giả Vy Thanh, một cựu đảng viên CS, trong cuốn “Lớn Lên với Đất nước” đă kể lại trong một buổi họp ở quân khu IX trong miền Nam, dưới sự chủ tọa của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, Dương Quốc Chính muốn có được một bí danh họ Lê cho giống hai người kể trên nên đă nhờ một người ngồi bên cạnh đặt giùm cho ḿnh. Người này nh́n thấy bộ răng của Dương Quốc Chính mới đặt cho cái bí danh Lê Hiến Mai (mái hiên). Phải nhiều năm sau, Dương Quốc Chính mới biết thâm ư  của người kia nên từ đó đă từ bỏ cái bí danh đó đi. Lê Hiến Mai là một trong 11 cán bộ quân sự được phong tướng đầu tiên.

 

Nhà nước XHCN Việt Nam sau đại hội VI (1986-1991)

Năm 1986, sự suy kiệt của kinh tế quốc nội, sự cô lập về ngoại giao, sự đe dọa và gây hấn thường xuyên của Trung Hoa CS cùng những biến chuyển trong t́nh h́nh thế giới là của nước đàn anh Liên Xô đă đẩy Cộng sản Việt Nam vào một bước ngoặt trên con đường “tiến lên chủ nghĩa xă hội” !!!

Những thay đổi của Liên Xô về đối nội cũng như đối ngoại đă tạo nên một cơn khủng hoảng ư thức hệ cho Đảng Cộng sản Việt Nam và đă gây hoang mang giao động mạnh mẽ cho giới lănh đạo. Đảng CS lệ thuộc vào Liên Xô về tất cả mọi mặt : chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao… cho nên một khi Liên Xô đă đề ra glasnov (cởi mở)  và perestroika (tái cấu trúc), Cộng sản Việt Nam không c̣n một cách lựa chọn nào khác cũng phải đưa ra chính sách “đổi mới”.

Những nguyên nhân của sự “đổi mới tư duy” về đối nội cũng như đối ngoại của Cộng sản Việt Nam được coi như chính thức bắt đầu từ sau bài diễn văn của Gorbachev đọc tại Vladivostok (Hải Sâm Uy) ngày 28 tháng bảy năm 1986, trong đó Liên Xô công bố chính sách Á Châu và Thái B́nh Dương mới, mà mục tiêu chủ yếu là tái lập quan hệ ngoại giao b́nh thường với Trung Hoa. Để đạt được mục đích đó, Gorbachev tuyên bố sẽ giải quyết tất cả “ba trở ngại” mà Trung Hoa đ̣i hỏi. Gorbachev c̣n nói thêm là “Vấn đề Căm Pu Chia” phải được giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xă hội chủ nghĩa.

Sự thay đổi chính sách của Liên Xô đặt Việt Nam vào một t́nh trạng bất ngờ và nguy hiểm. Liên Xô lả một cường quốc, họ có thể công khai nhượng bộ Trung Hoa và Hoa Kỳ mà không bị mất uy thế nước lớn. Hơn nữa, làm như thế họ c̣n được cảm t́nh của Hoa Kỳ và các nước Tây Âu, sẵn sàng được giúp đỡ để giải quyết được những khó khăn kinh tế. Trong khi đó, Việt Nam  là một nước nhỏ, lại đang là một gánh nặng ḅn rút tài nguyên đang kiệt quệ của Liên Xô nên Liên Xô có thể hy sinh Việt Nam để cầu thân với Trung Hoa, Hoa Kỳ và các nước Đông Nam Á khác.

Trước viễn ảnh bị đàn anh Liên Xô bỏ rơi để kết thân với kẻ thù của ḿnh là Trung Hoa, cho nên CS Việt Nam bắt buộc phải thay đổi toàn diện chính sách đối nội và đối ngoại của ḿnh. V́ thế, đại hội đảng lần thứ VI vào cuối năm 1986 đă đánh dấu một khúc quan trọng trong lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau mấy tháng chuẩn bị, đại hội đảng lần thứ sáu được triệu tập từ ngày 15 đến 18 tháng mười hai năm 1986 gồm 1129 đại biểu tham dự. Khách tới dự đại hội này có Ligachev, nhân vật số 2 của đảng cộng sản Liên Xô, Kaysone Phomvihane của CS Ai Lao và Heng Samrin của CS Cămpuchia cùng lèo tèo vài đại diện các đảng cộng sản Đông Đức, Cu ba… Đại hội đảng kỳ này đă biểu quyết chấp thuận 124 ủy viên dự khuyết mà đại hội trung ương đảng  trước đó đă đưa ra. Sau đó họ lại bầu những ủy viên Bộ Chính trị là những người có quyền lực nhất của đảng và chính phủ. Tại đại hội Đảng, trước ngày bầu ra những ủy viên Bộ Chính trị, Phạm Hùng tuyên đọc bức thư xin rút lui của bộ ba Trường Chinh. Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ. Cả ba người sau đó được cử làm “cố vấn tối cao”

Bộ Chính trị mới được bầu của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 gồm có:

1. Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư, tên thật là Nguyễn Văn Cúc, bí danh Mười Cúc, sinh tại miền Bắc nhưng phần lớn cuộc đời hoạt động tại miền Nam. Từ 1940 đă nhiều lần làm bí thư thành ủy Sài G̣n. Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ II đă từng là phó bí thư trung ương Cục miền Nam, phụ tá cho Phạm Hùng được vào trung ương đảng năm 1960 và Bộ Chính Trị năm 1976 .

2. Phạm Hùng thay Phạm Văn Đồng làm chủ tịch hội đồng bộ trưởng vào tháng sáu năm 1987 nhưng được có mấy tháng th́ bị bệnh chết vào tháng ba năm 1988. Phạm Hùng sinh năm 1912 tại miền Nam và lả ủy viên Bộ Chính Trị duy nhất hoạt động tại miền Nam trong chiến tranh Đông Dương II.

3. Vơ Chí Công tên thật là Vơ Toàn sau khi Trường Chinh từ chức năm tháng sau vào năm 1987 lên thay chức chủ tịch nhà nước CSVN. Từng hoạt động trong trung ương cục miền Nam, sau đó làm chính ủy quân khu V.

4. Đỗ Mười sinh năm 1917 thay Phạm Hùng làm thủ tướng từ tháng sáu năm 1988. . Đỗ Mười sau năm 1954 là bí thư thành ủy Hải Pḥng, sau đó tham gia cải tạo công thương nghiệp miền Bắc. Năm 1976 là bộ trường Bộ Xây Dựng, năm sau được cử vào Nam phụ trách cải tạo công thương nghiệp để tập thể hóa kinh tế miền Nam.

5. Vơ Văn Kiệt, Phó thủ tướng kiêm chủ tịch ủy ban kế hoạch Nhả Nước - Vơ Văn Kiệt sinh năm 1922, sinh trưởng và hoạt động ở miền Nam được cử làm ủy viên trung ương đảng cùng với Nguyễn Văn Linh vào năm 1960. Năm 1976, Kiệt được thăng lên làm ủy viên dự khuyết Bộ Chính Trị trung ương đảng và thay Nguyễn Văn Linh làm bí thư thành ủy Sài G̣n. Vơ Văn Kiệt được coi như một người cởi mở, thực dụng, cổ vơ cho đổi mới kinh tế vả tản quyền quản lư cho các địa phương. Sau khi Phạm Hùng mặt, Vơ Văn Kiệt được cử lên thay nhưng vài tháng sau thi bị đảng gạt ra để cho Đỗ Mười lên thay.

6. Lê Đức Anh từ thứ 12 lên hàng thứ sáu. Tổng tham mưu trưởng quân đội thay Lê Trọng Tấn năm 1986 rồi thay Văn Tiến Dũng làm bộ trưởng quốc pḥng năm 1987. Từng làm cai thợ ở đồn điền cao su. Trong chiến tranh Đông Dương II hoạt động ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Sau 1975 làm tư lệnh quân khu IX. Trần Văn Trà bị mất chức trước năm 1979. Lê Đức Anh được lên thay làm tư lệnh quân khu VII, một quân khu quan trọng hơn, để từ đó chỉ huy công cuộc đánh chiếm Căm Pu Chia. Nhờ thân cận với Lê Đức Thọ ở Căm Pu Chia, Lê Đức Anh được cất nhắc vào Bộ Chính Trị năm 1982.

7. Nguyễn Đức Tâm lên thay Lê Đức Thọ làm trưởng ban tổ chức trung ương đảng CS. Tâm đă từng là bí thư tỉnh Quảng Ninh sau đó làm phó ban tổ chức thay cho Lê Đức Thọ trong nhiều năm.

8. Nguyễn Cơ Thạch, làm bộ trưởng ngoại giao tên thật là Phạm Văn Thương, sinh quán Nam Định, ủy viên dự khuyết Bộ Chính Trị từ năm 1982.

9. Đồng Sĩ Nguyên tên thật Nguyễn Sĩ Đông, trong chiến tranh Đông Dương II phụ trách bảo vệ đường ṃn Hồ Chí Minh rồi 10. Trần Xuân Bách kiêm nhiệm trưởng ban đối ngoại trung ương đảng CSVN

11. Nguyễn Thanh B́nh từng là cục trưởng cục hậu cần sau đó làm bộ trưởng rồi bí thư thành ủy Hà Nội, B́nh được nâng đỡ v́ là cháu rể của Lê Đức Thọ.

12. Đoàn Khuê cựu tư lệnh Quân Khu V, năm 1987 được cử thay Lê Đức Anh làm tổng tham mưu trưởng quân đội, được thăng đại tướng năm 1990. Tới 1991 thay Lê Đức Anh làm bộ trưởng quốc pḥng

13. Mai Chí Thọ, em trai ruột của Lê Đức Thọ, từng hoạt động ở miền Nam VN. Sau 1975, có lúc làm chủ tịch ủy Ban Nhân Dân thành phố HCM, kiêm nhiệm luôn vấn đề an ninh toàn miền Nam. Trước khi vào Bộ Chính Trị, làm bí thư thành úy thành phố HCM. Sau đó, năm 1987 được cử làm bộ trưởng Bộ Nội Vụ (1).

Một ủy viên dự khuyết là Đào Duy Tùng, trước đó, năm 1977, Tùng là tổng biên tập Tạp Chí Cộng Sản tới năm 1982, đổi qua làm giám đốc Việt Nam Thông Tấn Xă, sau đó được cử làm trưởng ban tuyên huấn TW đảng. Tới năm 1988, Đào Duy Tùng được thăng làm ủy viên thực thụ Bộ Chính Trị. Là một người tham vọng, mấy năm sau Tùng mưu toan tranh chức tổng bi thư nhưng thất bại. Tùng là cha đẻ của Đào Duy Quát.

Trong thành phần của Bộ Chính Trị, chỉ có Trần Xuân Bách là có tư tường cấp tiến nhất bằng ḷng chắp nhận đa nguyên đa đảng. Trần Xuân Bách tên thật là Vũ Thiện Tuấn. sinh tại Nam Định năm 1924, từng làm bí thư tỉnh ủy tại nhiều tỉnh tại miền Bắc. Năm 1981 , khi Lê Đức Thọ về nước sửa soạn đại hội đảng, Trần Xuân Bách được cử lên thay làm trưởng đoàn B68 phụ trách cai trị Căm Pu Chia. Năm 1985, ông về nước, làm chánh văn pḥng ban bí thư trung ương đảng trước khi được cử làm ủy viên Bộ Chính Trị. Theo ông “Đổi mới kinh tế phải đi đôi với đổi mới chính trị. Phải đi bằng hai chân, không thể đi khập khiễng bằng một chân" (2).

Ngoài ra, c̣n có ba ủy viên Nguyễn Văn Linh, Vơ Văn Kiệt và Nguyễn Cơ Thạch tương đối cởi mở, có đầu óc cấp tiến, số c̣n lại phần lớn là những kẻ cơ hội đă được khuyến dụ và rèn luyện để trở thành đàng viên Cộng Sản, họ không thể nào một sớm một chiều chấp nhận những sai lầm hay yếu kém của chủ nghĩa đó. Ngoài ra, một khi trở thành đảng viên CS, họ và gia đ́nh đă được bước vào một giai cấp mới được hưởng đặc quyền đặc lợi không những cho đến măn đời của ḿnh mà c̣n của đời con, đời cháu… Điển h́nh cho những thành phần này là Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Lê Khả Phiêu, Đào Duy Tùng, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Phạm Quang Nghị, Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Nguyễn Đức B́nh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Hà Phan…vv…         

 Cho nên nêu có sự sửa đổi, sự sửa đổi này cũng chỉ miễn cưỡng vả nửa vời. Hơn thế nữa, với ảnh hưởng của Lê Đức Thọ, một số những người cộng sản thủ cựu vẫn được cử vào Bộ Chính Trị như Nguyễn Đức Tâm, Mai Chí Thọ, Đào Duy Tùng, Lê Đức Anh... Giữa hai ủy viên cởi mở từ miền Nam là Nguyễn Văn Lính và Vơ Văn Kiệt cũng có bất ḥa.

Nguyễn Văn Linh thường hay tố cáo Phan Thanh Nam, tổng giám đốc công ty quốc doanh Tradico tham nhũng và là con rơi của Vơ Văn Kiệt (3). V́ thế sự đổi mới của Cộng Sản Việt Nam đă không được thực hiện một cách triệt để.

Hai năm sau, với sự tan vỡ của khối Cộng Sản ở Liên Xô, Đông Âu và cùng với đó là vụ sinh viên biểu t́nh ớ Thiên An Môn tháng 4,5 và 6 năm 1989, đa số đảng viên từ cấp nhỏ đến cấp lănh đạo kể cả Nguyễn Văn Linh cảm thấy nguy cơ đảng CSVN bị tan ră, đảng viên sẽ bị mất hết ưu quyền nên đă trở lại áp dụng chính sách cứng rắn và đàn áp về chính trị, nhưng vẫn phải tiếp tục cởi mở hơn về kinh tế, v́ nhờ vậy mà đời sống của nhân dân và nhất là của chính họ đă khá hơn. Họ gọi chính sách đó là "kinh tế thị trường theo định hướng xá hội chủ nghĩa". Chính sách này không c̣n được học tập từ đồng minh Liên Xô nữa mà đă rập khuôn theo đường lối cai trị của "kẻ thù lâu đời và nguy hiếm" cũ đó là Trung Hoa. Kể từ năm 1986, Cộng Sản Việt Nam đă cố gắng đủ mọi cách, kể cả nhượng đất đai, hải đảo để cầu thân với cộng sản Trung Hoa.

Người may mắn nhất trong đại hội đảng lần này là Lê Đức Anh được bất ngờ lên chức bộ trưởng quốc phỏng sau khi Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn chết một cách đột ngột. Lê Đức Anh đă làm lại lư lịch. Trong lư lịch cũ, năm 1976 Lê Đức Anh khai thành phần bản thân là viên chức và vào đảng từ tháng bảy năm 1945, nhưng khi lên bộ trưởng Bộ Quốc Pḥng. Lê Đức Anh đă khai bản thân là công nhân vào đảng từ năm 1938. Những Đảng cộng sản lâu năm như Phạm Văn Xô (từng là xứ ủy viên Nam Bộ), Đồng Văn Cống, Năm Thi (chủ nhiệm hậu cần cục R) đều biết rơ lư lịch của Lê Đức Anh và đă báo cáo với Nguyễn Đức Tâm, vụ trưởng vụ tổ chức TW đảng CSVN.

Hơn mười năm sau, sau khi đă mất chức và được hỏi về việc này, Nguyễn Đức Tâm trả lời là năm 1986 đă có báo cáo với Lê Đức Thọ, nhưng Lê Đức Thọ nói là nên xếp lại. Sau đó, Nguyễn Văn Linh cũng được báo cáo nhưng “không có ư kiến”. Đến thời Đỗ Mười th́ Lê Đức Anh đă được làm chủ tịch nước nên bỏ qua luôn vụ này. Mấy năm sau, trong những đại hội đảng VIII, IX và X, đều có thư tố cáo Lê Đức Anh đă khai man lư lịch nhưng những lúc sau này, thế lực của Lê Đức Anh rất mạnh nên nội vụ luôn luôn được “khoanh lại”. (4)

Ngoài những ủy viên Bộ Chính Trị phụ trách quyết định đường lối chính sách của quốc gia, những ủy viên trung ương Đảng c̣n ra bầu một ban bí thư để phụ trách điều hành nội bộ đảng. Ban bí thư này ngoài bốn ủy viên Bộ Chính trị là Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức Tâm, Trần Xuân Bách, Đào Duy Tùng c̣n có :

- Trần Kiên, tên thật Nguyễn Tuấn Tài từng là bí thư các tỉnh Hải Pḥng, Gia Lai, Đak Lắc và Nghĩa B́nh. Từ năm 1979 đến  1981 làm Bộ trưởng Bộ Lâm Nghiệp. Tới 1982, được đề cử vào ban bí thư và chủ nhiệm Ban kiểm tra trung ương đảng.

- Lê Phước Thọ là Trưởng ban nông nghiệp Đảng.

- Nguyễn Quyết là Đại tướng, từng là tư lệnh đặc khu Thủ đô và quân khu III. Năm 1986 là phó chủ nhiệm Tổng cục Chính Trị. Mấy tháng sau, thay Chu Huy Mân làm tổng cục trưởng.

Đàm Quang Trung, gốc người Tầy, năm 1979 là thiếu  tướng tư lệnh quân khu I thay Chu Văn Tấn, sau khi Chu Văn Tấn bị thanh trừng năm 1982 được thăng trung ương rồi phó chủ tịch Quốc Hội.

- Vũ Oanh trước 1975, hoạt động tuyên vận ở miền nam, từng phụ tá cho Lê Đức Thọ và Trần Xuân Bách trong đoàn B 68 ở Căm Pu Chia. Năm 1991 được đề cử vào Bộ chính trị.

- Nguyễn Khánh, chánh văn pḥng trung ương Đảng thay Trần Xuân Bách, Nguyễn Khánh là người phụ trách đưa thư khuyết dụ từ chức của Lê Đức Thọ cho Trường Chinh và Phạm Văn Đồng. Năm 1987 ra làm phó thủ tướng kiêm tổng thư kư Hội đồng bộ trưởng.

- Trần Quyết là trung tướng công an, từng là thứ trưởng Bộ nội vụ.

- Trần Quốc Hương, năm 1982 ở trong ban thường vụ đảng ủy thành phố HCM. Năm 1983 đổi sang làm phó bí thư thành ủy Hà Nội. Năm 1986 làm tổng cục Du lịch. Cùng với Mai Chí Thọ, Trần Quốc Hương là người ra lệnh phá bỏ nghĩa trang Mạc Đ́nh Chi ở Sài G̣n ngay sau ngày 30/4/1975.

- Phạm Thế Duyệt người tỉnh Thái B́nh đă từng làm phó rồi chủ tịch công đoàn, sau này cũng được vào Bộ chính trị.

Sau khi Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng bí thư, Trần Độ lại được tái nhiệm làm trưởng ban Văn nghệ trung ương đảng, nhưng khi làn sóng đổi mới văn hóa bắt đầu nổi lên, ảnh hưởng đến uy quyền tuyệt đối của đảng th́ những đảng viên cao cấp bị giao động. Bộ Chính trị sát nhập ban này vào Ban tư tưởng văn hóa do Trần Trọng Tân làm trưởng ban.

Tới năm 1988, sau khi Nguyễn Văn Linh thay đổi đường lối, Trần độ lại bị mất chức và sau đó bị khai trừ ra khỏi đảng cùng lúc với nhà văn Nguyên Ngọc, bí thư đảng đoàn của hội nhà văn đă viết câu “người viết vẫn cứ viết mà không thật tin ở những điều ḿnh viết ra”.

Việc “đổi mới tư duy” đầu tiên là đại hội đảng lần thứ sáu là quyết định bỏ câu “Trung Hoa là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” trong lời mở đầu điều lệ đảng, đánh dấu một sự thay đổi quan trọng trong đường lối đối ngoại.

Vài ngày sau đại hội đảng, vào tháng Giêng 1987, Ban Chấp hành trung ương đảng lại họp hội nghị và đề cử nhân viên chính phủ. Lần này, Vơ Chí Công được cử làm chủ tịch nhà nước, Phạm Hùng được cử hội đồng bộ trưởng thay Phạm Văn Đồng. Nội các của Phạm Hùng gồm có 32 bộ trưởng, trong đó những bộ trưởng chính gồm có:

- Phó chủ tịch kiêm tổng thư kí Hội Đồng Bộ Trưởng Nguyễn khánh.

Phó chủ tịch HĐBT kiêm bộ trưởng ngoại thương Đoàn Duy Thành. Nhân vật Đoàn Duy Thành trước đây là bí thư thành ủy Hải Pḥng, sau này làm chủ tịch pḥng thương mại. Năm 2006 viết cuốn hồi kư tựa đề là “Làm người là khó, làm người xă hội chủ nghĩa càng khó hơn”, mà mục đích chính là để chỉ trích Đỗ Mười, người đă chèn ép con đường tiến hóa của ông ta. Trong cuốn sách này, Đoàn Duy Thành cũng kể lại là ông ta là người được Lê Duẩn cứu xét để làm tổng bí thư đảng. Cuốn sách bị những người trong phe bảo thủ chỉ trích và giám đốc nhà xuất bản bị Bộ Thông Tin Văn Hóa khiển trách.

Bộ trưởng quốc pḥng : Lê Đức Anh

Bộ trưởng ngoại giao : Nguyễn Cơ Thạch

Bộ trưởng nội vụ: Mai Chí Thọ

Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch nhà nước: Vơ Văn Kiệt, phụ tá là Đậu Ngọc Xuân.

Chủ nhiệm Ủy ban hợp tác kinh tế văn hóa với Ai Lao và Cam Pu Chia: Đặng Thí

Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước: Phạm Văn Tiệm

Bộ trưởng tài chính: Hoàng Quy

Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước: Lữ Minh Châu.

Bộ trưởng Vật tư: Hoàng Đức Nghi.

Bộ trưởng Xây dựng: Phan Ngọc Tường

Bộ trưởng Giao thông Vận tải: Bùi Danh Lưu

Bộ trưởng Công nghiệp: Vũ Tuấn.

Bộ trưởng Văn hóa: Trần Văn Phác

Bộ trưởng thông tin: Trần Hoàn (từng là trưởng ty văn hóa Thừa Thiên Huế sau 1975, cũng tác giả bài Sơn Nữ Ca).

Bộ trưởng Tư pháp: Phan Hiền, từng là Thứ Ngoại giao.

Bộ trưởng Y tế: Đặng Hồi Xuân (vài năm sau, Đặng Hồi Xuân bị tử nạn máy bay khi sang Vọng các họp một hội nghị về y tế).

Đoàn Khuê được cử thay Lê Đức Anh làm tổng thương mưu trưởng quân đội.

Nguyễn Quyết thay Chu Huy Mân làm chủ nhiệm tổng cục  Chính trị .

Tháng tư năm 1927, Việt Nam cho bầu cử Quốc Hội khóa 8 và sau khi Trần Độ từ chối, Nguyễn Đức Tâm, trưởng ban tổ chức đảng xếp đặt cho Lê Quang Đạo làm chủ tịch QH. Kỳ bầu cử này, ngoài các cán bộ được chỉ định, đảng Cộng Sản c̣n cho vào một số nhỏ những nhân vật cơ hội không  phải đảng viên như Phan Khắc Từ, Thích Minh Châu, Lư Chánh Trung, Nguyễn Xuân Oánh, Ngô Bá Thành … Bác Sĩ Dương Quỳnh Hoa được mời ứng cử nhưng đă từ chối. Sau năm 1975, dù đă được cử làm thứ trưởng Y tế, bà đă nhiều lần, kể cả khi gặp Phạm Văn Đồng, xin ra khỏi đảng nhưng chỉ được chấp thuận năm 1979 với điều kiện việc ra khỏi đảng của bà chỉ được tiết lộ 10 năm sau.

Sau khi được hỏi về biến cố lịch sử nào trọng đại nhất trong năm 50 năm qua, bà trả lời là là sự sụp đổ của bức Tường Bá Linh vào năm 1989, v́ biến cố đó đă chấm dứt một (đại ảo tưởng). Ngoài bà Dương Quỳnh Hoa, những người thuộc Mặt trận Giải Phóng Miền Nam cũng như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tuấn Phát, Nguyễn Thị Định… được sắp xếp cho làm phó chủ tịch nhà nước. Chức vụ này chỉ có hư danh, dành cho những người sắp bị loại. Bà Hoa đă từng nói thẳng với Nguyễn Hữu Thọ là họ chỉ là “h́nh nộm, mặt nạ hay vài món trang sức rẻ tiền” của chế độ CSVN mà thôi.

Trong những năm đầu của chính sách đổi mới, Cộng Sản Việt Nam vẫn chỉ có một chỗ dựa duy nhất là cộng sản Liên Xô. Sau khi đă sắp xếp xong nội các, ngày 17 tháng năm 1987, đến lượt Nguyễn Văn Linh bay sang Liên Xô để gặp TBT đảng CS Gorbachev. Đích thân Gorbachev vạch rơ cho Nguyễn Văn Linh những kinh nghiệm về sự tŕ trệ của kinh tế xă hội chủ nghĩa, sự cần thiết phải giao thương với những nước tư bản và khuyến cáo Việt Nam nên giải quyết vấn đề Căm Pu Chia sớm ngơ hầu ḥa hoăn được với Trung Hoa. V́ thế, sau khi từ Liên Xô trở về, ngày 23 Tháng Năm 1987, Nguyễn Văn Linh đă viết ngay một loạt bài “Những việc cần làm ngay” đăng trên báo Nhân Dân của ĐCSVN để hô hào “đổi mới tư duy” và ngày 26 Tháng Năm 1987, Nguyễn Văn Linh họp Bộ Chính Trị thông báo về những khuyến cáo của Liên Xô (6). Trong thời gian đó, trong bước đầu lấy ḷng Trung Hoa, Bộ Ngoại Giao đă làm tờ tŕnh lên Bộ chính trị xin bỏ câu nói “ Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” trong lời mở đầu của Hiến Pháp nước CHXHCN VN.

Sau phái đoàn của đảng Cộng Sản Việt Nam do Nguyễn Văn Linh hướng dẫn sang gặp Gorbachev, những phái đoàn chính phủ và quân đội cũng lần lượt bay sang Liên Xô để học kinh nghiệm và xin ư kiến. Phái đoàn chính phủ do Phạm Hùng hướng dẫn sang Mạc tư Khoa vào ngày 12 Tháng sáu 1987 và phái đoàn do Nguyễn Quyết, chủ nhiệm tổng cục Chính trị, sang ngày 19 Tháng Sáu 1987. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi sau đại hội VI. Việt Nam lại học tập khuôn mẫu của Liên Xô để thực hiện sự thay đổi.

Từ Liên Xô, Nguyễn Văn Linh bắt đầu thi hành hàng loạt những biện pháp “đổi mới”. Trước hết về kinh tế, được thấy rơ bản chất thiếu năng động và trí tuệ của nền kinh tế Liên Xô, được thông báo về kết quả thảm hại của nó sau hơn sáu chục năm ( 60) xây dựng xă hội chủ nghĩa, và được chứng kiến sự phát triển của kinh tế nhảy vọt của những nước liên bang, Cộng sản Việt Nam đành chấp nhận sự thất bại của hệ thống kinh tế tập trung và bắt đầu đưa ra những phương cách sửa đổi lại. Dù cho những biện pháp tư nhân hóa và tản quyền hóa về kinh tế như vậy đi ngược lại với giáo điều Mác xít, họ vẫn muốn giữ ưu quyền độc tôn của Đảng để gọi chính sách kinh tế của họ là nền “kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa”. Những biện pháp cởi mở kinh tế được đưa ra gồm có :

Giải trừ việc tập thể hóa nông nghiệp

Để cho những công ty quốc doanh được độc lập hơn 

Băi bỏ những trạm thuế quan từ địa phương này sang địa phương khác.

Hoàn chỉnh lại Luật đầu tư để các công ty ngoại quốc dễ dàng đem vốn vào Việt Nam đầu tư làm ăn.

Băi bỏ độc quyền của Nhà nước trong việc buôn bán với nước ngoài

Cho phép các công ty tư nhân thuê dùng mười nhân công trở xuống.

Giải thể bớt những cơ quan và bộ máy hành chánh hoạch định kế hoạch kinh tế trung ương

Bớt đi 15% nhân viên nhà nước.

Trả lại một số những xí nghiệp ở miền Nam đă bị nhà nước tịch thu sau ngày “giải phóng” 30/4/1975

Băi bỏ chế độ (bao cấp) theo đó công nhân viên ngoài lương bổng, tùy theo chức vụ mà được lănh một số nhu yếu phẩm (như gạo, thịt, thuốc lá …) nhất định

Nhờ những biện pháp đổi mới, trong ṿng 2 - 3 năm sau, nền kinh tế của Việt Nam bắt đầu hồi phục và phát triển. Nông đân không c̣n bị bó buộc lao động trong tập thể đă gia tăng sản xuất, cho nên mấy năm sau Việt Nam đă bắt đầu xuất cảng lúa gạo. Những cơ sở kỹ nghệ nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng cũng bộc phát.

Nhờ vị trí thiên nhiên thuận lợi, dân trí cao, nhân dân được tiếng là cần cù siêng năng nên dù có phần nào bị g̣ bó do cấm vận, những nhà đầu tư ngoại quốc bắt đầu đổ tiền vào đầu tư.  Ngoài ra, những giếng dầu hỏa ngoài khơi đă khai thác được, đồng thời với nhu cầu về dầu hỏa trên thế giới tăng lên nhanh chóng. Thêm vào đó, tiền bạc của người Việt Nam ở hải ngoại gửi về mỗi năm hàng tỷ Mỹ kim nên đă giúp cho kinh tế Việt Nam kể từ 1991 đă phát triển đều đặn từ 6 đến 8% mỗi năm trong liên tiếp 6,7 năm liền.

Tuy nông nghiệp và những xí nghiệp tư doanh đă đóng góp lớn lao trong việc hồi phục kinh tế, chính quyền Cộng sản lúc nào cũng nhằm ưu tiên cho việc phát triển những công ty quốc doanh, dù trong khoảng 6000 công ty quốc doanh này, đa số bị lỗ vốn. Do việc phát triển nền kinh tế thị trường, một số luật lệ kinh doanh được đặt ra. Tuy đại hội VI của đảng Cộng sản bắt đầu nhấn mạnh đến quan niệm “nhà nước pháp quyền” để điều hành kinh tế theo luật pháp, nhưng đại hội vẫn cứ xác nhận lại cái gọi là pháp chế xă hội chủ nghĩa “đảng lănh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ” nhằm bảo vệ quyền lợi của Đảng. Trước năm 1986, trong 8914 văn kiện luật pháp, chỉ có 62 đạo luật là do Quốc Hội biểu quyết, số c̣n lại hoặc là chỉ thị, hoặc công tư, hoặc nghị quyết do Đảng hay chính phủ đưa ra. Họ giải thích luật pháp của họ như sau :

“Luật pháp của chúng ta khác với luật pháp của tư bản. Luật của chúng ta nhằm phát triển đất nước chúng ta theo định hướng xă hội chủ nghĩa, trong khi luật của các quốc gia tư bản là nhằm bảo vệ cho bọn tư bản”.

 Do sự mơ hồ của luật lệ, nếu có tranh chấp giữa xí nghiệp tư nhân và nhà nước, chắc chắn phía nhà nước sẽ thắng. Ngoài ra, nếu mọi xí nghiệp tư nhân có làm mất ḷng hay dám cạnh tranh với một công ty nhà nước, họ không những bị truy tố về những vi phạm kinh tế mà c̣n có thể bị suy diễn sang thành tội chính trị, tội phá hoại quốc gia. Để chắc ăn, thường là những công ty tư nhân phải dựa dẫm vào một vài cán bộ cao cấp nào đó làm ô dù che chắn cho ḿnh. Từ đó tham nhũng nảy sinh. Hệ thống cho vay tiền ngân hàng cũng thế. Một cái thư giới thiệu của một cán bộ hay ủy viên cao cấp sẽ giúp cho việc vay tiền được dễ dàng.

Điển h́nh của việc đầu tư làm ăn của Việt Nam là Nguyễn Trung Trực một Việt kiều ở Úc về thành lập công ty Peregrine. Công ty này bắt đầu kinh doanh nhập cảng thuốc Tây từ năm 1990. V́ có một công ty của nhà nước không chịu trả tiền, ông ta nhờ người quen bên vợ là bộ trưởng Bộ công an Bùi Thiện Ngộ và vợ của phó thủ tướng Trần Đức Lương làm ô dù để can thiệp giúp.

Từ đó, trong thời gian Bùi Thiện Ngộ làm bộ trưởng, công ty của Nguyễn Trung Trực làm ăn rất phát đạt, được báo chí nhà nước ca tụng là “một tư nhân ngoại quốc đầu tư thành công” nhưng đến năm 1996, khi Bùi Thiện Ngộ (phe của đảng) bị loại khỏi Bộ Chính Trị, th́ Nguyễn Trung Trực bị (phe chính phủ của Vơ Văn Kiệt) đưa ra ṭa về tội trốn thuế, mục đích chính là để Trần Đức Lương cũng bị mang tiếng.

V́ những điều hành guồng máy nhà nước từ trên xuống dưới đều nằm trong tay những đảng viên đang nắm chính quyền đặc lợi, trong đó tương đối có học hay có dịp ra nước ngoài được đào tạo ở Liên Xô hay Đông Âu là những nơi mà luật pháp chỉ vào mục đích chính trị cho nên những vấn đề thi hành những biện pháp đổi mới kinh tế đă được thi hành một cách tùy tiện, tùy theo hoàn cảnh hay địa phương

Về phương diện văn hóa hay tư tưởng, mấy tháng sau này đại hội đảng, không khí đổi mới c̣n tưng bừng nhộn nhịp, trong hai ngày 6 và 7 Tháng Mười 1978, trưởng ban văn hóa Trần Độ đă tổ chức để cho TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh gặp gỡ với gần 100 văn nghệ sĩ gồm có các nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa như : Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Dương Thu  Hương, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Khắc Viện …vv… Trong buổi gặp mặt, những văn nghệ sĩ đă phát biểu trung thực cảm nghĩ của họ và Nguyễn Văn Linh cũng tuyên bố “cởi trói” cho văn nghệ, đồng thời cũng nhắc nhở văn nghệ sĩ “đừng bao giờ uốn cong ng̣i bút ”.

Nghị quyết số 5 của Bộ Chính Trị Tháng Mười Hai năm 1988 cũng đề ra những mục tiêu cởi mở tích cực “Văn học, nghệ thuật góp phần tích cực cho đấu tranh để mở rộng và làm sâu sắc thêm quá tŕnh dân chủ hóa của mọi mặt đời sống đất nước, cổ vũ nhiệt t́nh cho công cuộc đổi mới, tích cực tham gia giải quyết việc giải phóng những tiềm năng của đất nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xă hội do Nghị quyết của đại hội VI của Đảng đề ra ”.

Được nới lỏng sự kiểm soát, những văn nghệ sĩ bắt đầu viết về những tệ nạn xă hội và ngay của cả đảng, của chính quyền một cách táo bạo hơn. Điển h́nh nhất là Tiến Sĩ khoa học Nguyễn Xuân Tụ. Tháng chín năm 1988, dưới bút hiệu Hà Sĩ Phu, ông đưa ra bài tham luận “Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Của Chí Tuệ ”, nêu lên những sai lầm tai hại của chủ nghĩa Cộng sản.

Ông Nguyễn Xuân Tụ có bằng tiến sĩ sinh học, từng du học ở Tiệp Khắc và làm viện phó học Viện Khoa Học Đà Lạt, v́ không chịu vào đảng CSVN nên ông bị ép phải về hưu sớm. Trong bài tham luận, ông viết: “Ngày bác Hồ ra đi t́m đường cứu nước th́ cứu nước mưu hạnh phúc cho dân là mục đích chính, chủ nghĩa Mác Lê nin là phương tiện. Nhưng rồi dần dần lại phát sinh cái tín ngưỡng “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”. Lạ như vậy đấy, chủ nghĩa với tư cách là con đường, là phương tiện th́ nó là cái để ta dùng chứ sao lại là cái để ta thờ…”.

Từ đó, Hà Sĩ Phu liên tiếp bị bắt giữ tra xét nhà cửa tịch thu máy vi tính hay tài liệu. Ngoài Hà Sĩ Phu có những đảng viên khác như : Nhà thơ Bùi Minh Quốc, từng là tổng biên tập Tạp chí Lang Bian cũng bất măn với đảng CS v́ đất nước chưa có tự do dân chủ. Năm 1988, ông cùng với nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự đi một ṿng khắp nước kêu gọi văn nghệ sĩ và trí thức đ̣i hỏi Đảng cộng sản mở rộng tự do dân chủ và báo chí (8). Trở về, ông bị mất chức và bị trục xuất ra khỏi đảng sau đó liên tiếp bị bắt giữ, quản chế mấy năm liền. Một nhà nghiên cứu điện ảnh khác là Vũ Huy Cương từng bị ở tù 9 năm không xét xử sau khi phát biểu ủng hộ dân chủ, tự do chung sống ḥa b́nh với phe tư bản hồi “chủ nghĩa xét lại hiện đại” ở Liên Xô đang là cao trào, sau khi ra tù ông viết thư ủng hộ tướng Trần Độ cũng bị công an bắt giữ lại (9).

Cũng thời gian đó, một số cán bộ miền nam bất măn trước những biện pháp đàn áp công dân của chế độ nên đă cùng ông Nguyễn Hộ lập ra “ Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ”, sở dĩ được gọi là câu lạc bộ v́ cộng sản  không cho lập đảng hay hội đoàn không thuộc nhà nước (10). Đảng Dân Chủ VN được đảng Cộng Sản cử ông Hoàng Minh Chính đứng ra thành lập ngày 30-6-1994 để làm bù nh́n cho đảng Cộng Sản Việt Nam, dù đă an phận chịu sự kiểm soát của Mặt Trận Tổ Quốc cũng bị giải tán trong năm 1988, tổng thư kư của đảng này là Nghiêm Xuân Yêm tuyên bố là “đă làm chọn nhiệm vụ lịch sử ”.

Ông Nguyễn Hộ từng là đảng viên Cộng Sản từ năm 1937, giai đoạn từ năm 1964 đến 1975 phụ trách công tác binh địch vận. Sau năm 1975 đă giữ nhiều chức vụ quan trọng trong vùng Sài G̣n. Tuy mới đầu những đảng viên cựu cán bộ này chỉ muốn cải thiện lại đường lối cai trị của Đảng CS, cũng như của phẩm chất cán bộ, nhưng v́ không một chính quyền cộng sản nào muốn có một đảng hay hiệp hội nào dù non yếu tồn tại hay song song với ḿnh, nhất là trước cái gương của Công đoàn Đoàn Kết bên Ba Lan, đă từng phát triển và lấn áp được đảng Cộng Sản, cho nên câu lạc bộ của Nguyễn Hộ mới đầu c̣n bị cảnh cáo, sau đó bị gán cho kẻ phản động, nhận tiền đế quốc…

Tờ nội san “Truyền Thống Kháng Chiến” sau ba số th́ bị đóng cửa vĩnh viễn. Đồng thời Đảng cho thành Lập một hội Cựu Chiến sĩ Việt Nam khác để cạnh tranh và làm phân hóa câu lạc bộ này. Những cán bộ tên tuổi của câu lạc bộ bị mua chuộc, lôi kéo, trong đó có Trần Văn Giàu, một trong những sáng lập viên của câu lạc bộ này, sau khi bỏ sang Hội Chiến Sĩ  được cho sang Pháp rong chơi nhiều tháng. Trần Văn Trà th́ được thông gia là Vơ Chí Công dụ sang cho làm phó chủ tịch của hội, c̣n Trần Bạch Đằng th́ hy vọng sẽ được Nguyễn Văn Linh giúp đỡ. Cũng như các hội đoàn khác của nhà nước CSVN, hội Cựu Chiến Sĩ này được đặt dưới dưới quyền giám sát của Mặt Trận Tổ Quốc. Những người đứng đầu trong câu lạc bộ không chịu khuất phục như các ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Ṭng, Đỗ Trung Hiếu… cũng bị bắt giữ. Ông Tạ Bá Ṭng trước kia phụ trách trí thức vận dưới quyền ông Nguyễn Hộ, từng khuyến dụ được thú y sĩ Phạm Văn Huyến và con gái của ông ta là Phạm Thị Thanh Vân (vợ Ngô Bá Thành) vào Mặt Trận GPMN VN…

Thất vọng với chủ nghĩa Cộng Sản, Nguyễn Hộ đă viết trong tác phẩm Quan điểm và cuộc sống : “Tôi phải thú nhận là chúng tôi đă chọn nhầm lư tưởng chủ nghĩa Cộng Sản. Bởi v́ trong suốt hơn 60 năm cách mạng cộng sản, nhân dân Việt Nam đă phải gánh chịu biết bao hy sinh để chẳng được cái ǵ, đất nước vẫn nghèo đói, nhân dân vẫn không đủ ăn, đủ mặc, không có tự do không có dân chủ….Thật là một điều sỷ nhục” !!!

Tương tự như thế, chính quyền Việt Nam cũng lập ra một giáo hội phật giáo thuộc nhà nước CSVN để cạnh tranh với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đồng thời cũng t́m cớ bắt giam hai vị cao tăng của hội giáo này là hai Thượng Tọa Huyền Quang và Quảng Độ. Để bịt miệng Thượng Tọa Quảng Độ, có tin Mai Chí Thọ đă có lần dụ đỗ thượng tọa cho về chủ tŕ chùa Quán sứ ở Hà Nội nhưng thượng tọa từ chối. Ngoài ra họ cũng bắt luôn hai nhà Phật học thông thái là Thượng Tọa Trí Siêu và Thượng Tọa Tuệ Sĩ ở chùa Già Lam, rồi kêu án tử h́nh vào ngày 30- 9- 1998 về tội “âm mưu lật đổ chính phủ”. Trước sự phản đối của quốc tế, án tử h́nh sau đó được giảm xuống c̣n 20 năm tù. Nhiều đại diện tôn giáo khác như linh mục công giáo Nguyễn Văn Lư, ông Lê Quang Liêm phật giáo đạo Ḥa Hảo, Phạm Công Trí đạo Cao Đài cũng bị bắt giữ…

Riêng bác sĩ Nguyễn Đan Quế (11), từng bị bắt năm 1987 và bị tù 10 năm, sau khi bị bắt lại v́ thành v́ thành lập Cao Trào Nhân Bản và bị đưa ra ṭa ngày 29- 4 - 1991, ông điềm tĩnh nói với chánh án là họ là họ không có tư cách xử lí ông. Khi công bố đọc bằng chứng là “Tuyên Ngôn Cao Trào Nhân Bản” nhiều đoạn chỉ trích chính quyền của ông bị sửa đổi, bác sĩ Quế đă phải liên tiếp phản đối, chỉnh sửa lại : “ Anh phải đọc cho đúng những ǵ tôi đă viết ”. Ông bị ṭa nhanh chóng kết án 20 năm tù giam.

Ḥa Thượng Quảng Độ, bị đẩy ra ngoài Bắc từ 1982, mười năm sau, ông tự ư trở về Sài G̣n và liên tiếp bị sách nhiễu hoặc quản thúc tại gia. Mấy năm sau, Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu, người được quân đội Bắc Việt đem ra miền bắc năm 1968 làm dụng cụ tuyên truyền viên tịch. Trước khi chết, Thượng Tọa Huyền Quang lên thay làm Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất mà không công nhận Phật Giáo nhà nước. Chính quyền tịch thu bức thư, nói bức thư đó là giả, không cho Ḥa Thượng Huyền Quang dự đám tang. Thượng Tọa Thích Trí Tựu, trụ tŕ ở chùa Linh Mụ, khi xác nhận thư đó là thật cũng bị chính quyền bắt và cùng các Ḥa Thượng Hải Thanh, Hải Chánh ở tù tại Phủ Lư – trại giam Ba Sao, Nam Hà.

Về thông tin báo chí, sau một thời gian “cởi trói” ngắn ngủi, trước những biến cố bất lợi xảy ra ở Liên Xô và Đông Âu, đồng thời ở trong nước, có những dấu hiệu phản kháng và xúc phạm vào quyền uy tối thượng của đảng CS và các đảng viên cao cấp. Chẳng hạn như bài phóng sự “Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Ǵ” của kư giả Phùng Gia Lộc, viết về những hành động thiếu t́nh người của những cán bộ tỉnh Thanh Hóa khi đi thu thuế dân nghèo đăng trên báo Văn Nghệ, đă được quần chúng hưởng ứng đến nỗi bí thư tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa là Hà Trọng Ḥa bị mất chức năm 1988.

V́ thế, các nhà lănh đạo cộng sản, kể cả chính người hô hào cởi trói là Nguyễn Văn Linh, lại bắt đầu t́m cách trở lại chính sách trói buộc chặt hơn. Hơn thế nữa, một tháng sau khi Nguyễn Văn Linh đi gặp Ceaucescu là tổng bí thư đảng CS, kiêm chủ tịch nước Lỗ Ma Ni và trước đó nữa là đi dự kỷ niệm ngày 40 năm thành lập nước Đức cộng sản và có gặp gỡ Eric Honecker - tổng bí thư Đông Đức ở Đông Âu khoảng cuối năm 1989 khi về nước, th́ t́nh h́nh thay đổi hẳn, hai người này một người bị xử tử, một người bị bắt giam ngồi tù. V́ thế, đa số đảng đảng viên cộng sản cao cấp, từ những ủy viên bộ Chính Trị đến những ủy viên trung Ương Đảng CSVN, sợ bị mất quyền lực và có thể bị truy tố nên t́m cách quay về con đường độc tài chuyên chính cũ. Ngay cả Nguyễn Văn Linh, người được coi như khai sinh ra “đổi mới” ở Việt Nam, sợ sẽ chịu chung số phận như Ceaucescu ở Rumania nên lại quay về phục hồi những biện pháp đàn áp dân chúng như cũ.

Trong một buổi họp của Trung ương đảng, những biện pháp đổi mới được phê b́nh là hữu khuynh. Thủ tướng lúc đó là Nguyễn Văn Kiệt vừa mới tạm thời thay Phạm Hùng được vài tháng th́ bị Nguyễn Văn Linh cùng Trung Ương Đảng Cộng Sản buộc phải nhường bước cho nhân vật bảo thủ hơn là Đỗ Mười. Theo bà Nguyễn Thị Thi, một đại biểu Quốc Hội của thành phố Hồ Chí Minh, khi Quốc Hội bầu lại thủ tướng, chủ tọa đoàn của Quốc Hội đă ép các đảng viên phải bầu cho Đỗ Mười lên thay Phạm Hùng nhưng một phần ba đảng viên đă căi lệnh mà bầu cho Vơ Văn Kiệt.

Bà Ba Thi từng là giám đốc Công Ty Lương Thực thành phố HCM. Trong những năm 1979, 1980, thành phố bị thiếu lương thực trầm trọng v́ nông dân không chịu bán gạo với giá thu mua rẻ mạt của nhà nước, chính bà Thi đă giám “xé rào” căi lệnh trung ương, xuống những tỉnh miền Tây Nam Bộ mua gạo rồi về bán lại theo giá thị trường tự do.

Trong nội bộ đảng, Trần Trọng Tân, một người từng theo Lê Đức Thọ phụ trách về tư huấn ở Căm Pu Chia được cử lên làm trưởng ban Văn Hóa Tư Tưởng của Đảng để giám sát Trần Độ. Trong Ủy Ban Trung Ương Đảng, ông Trần Độ là một trong những người hiếm hoi giám đưa ra những biện pháp cải cách. Cuối năm 1989, trong bản “Phác Thảo Cương Lĩnh Văn Hóa Việt Nam những năm 1990”. Ông đưa ra những điểm tiến bộ như: “văn hóa phải dựa trên cơ sở đúng đắn về bản chất và chức năng thực sự của nghệ thuật như một tiếng nói bồi đắp lương trí và  đạo đức cho xă hội. thực hiện đầy đủ chính sách tự do sáng tạo, phê b́nh”. Thấy được những quan điểm này “chệch đường nối”, một số phần tử văn hóa bảo thủ và cơ hội như Hà Xuân Trường đă báo cáo ngay nên cho Lê Đức Thọ. Lập tức Trần Độ sau đó bị phê b́nh, mất chức để cho Hà Xuân Trường nên thay.

Cũng trong tháng 12 năm 1989, đại hội  các nhà văn được tổ chức tại Hà Nội. Tuy là đại hội của các nhà văn, nhưng đại hội lại được tổ chức dưới sự lănh đạo của Trần Trọng Tân, Nguyễn Đức Tâm và Đào Duy Tùng. Ngoài ra lại c̣n sự hiện diện của Đỗ Mười, Lê Đức Thọ (lúc đó là cố vấn Bộ Chính Trị ) và trung tướng công an - Dương Thông (12). Dương Thông đến để tố cáo một số nhà văn nhận tiền để làm tay sai cho nước ngoài nhưng không nói được là ai khi bị chất vấn. Tuy trong 330 nhà văn đảng viên CSVN, có 180 người đa số là những nhà văn miền Nam trừ những người như Trần Bạch Đằng, đă bỏ phiếu để bầu trực tiếp Nguyễn Quang Sáng làm chủ tịch Hội Nhà Văn, nhưng cũng có đến 150 người theo lệnh Đảng mà muốn ban quản trị bầu một người mà Đảng đă chọn lựa là Anh Đức. Tỷ số này cho thấy ngay trong giới cầm bút, một giới tương đối đầu óc phóng khoáng cũng có một số không ít những phần tử thủ cựu và sợ oai hùm của Đảng CS. Tuy Nguyễn Quang Sáng đắc cử, nhưng trong Ban Quản Trị Hội Nhà Văn, đa số vẫn là những người có trong danh sách Đảng chỉ định. Đó có lẽ cũng là một thắng lợi chót của Hội Nhà Văn VN.

Những năm sau, chính quyền lại siết chặt  quyền kiểm soát thông tin và văn nghệ. Những nhà văn như Dương Thu Hương, Bùi Minh Quốc… bị kiểm soát chặt chẽ hay bị quản chế hoặc bị bỏ tù. Dương Thu Hương là người đă viết về những nhũng lạm của chính quyền Cộng sản một cách trực tiếp và can đảm nhất. Cuốn tiểu thuyết “Những Thiên Đường Mù” xuất bản năm 1988 đă mô tả một giai  mới, nhờ ưu quyền mà làm giàu qua tham nhũng hay biển thủ của công quỹ (13).

Song song với những biện pháp cải tổ hệ thống kinh tế, sau đại hội VI, Cộng Sản Việt Nam cũng phải bắt buộc thay đổi đường lối ngoại giao. Tháng 7 năm 1987, Hội Nghị Trung Ương Đảng họp và ra nghị quyết số 2 về ngoại giao gồm những điểm chính :

- Tránh đụng chạm với quân đội Trung Hoa ở vùng biên giới và ở ngoài biển Đông

- Đặt kế hoạch rút quân đội VN ra khỏi Cam Pu Chia, Việt Nam đă thực hiện rút quân từ năm 1986 và cuộc rút quân dự trù hoàn tất vào cuối năm 1989. Song song với Việt Nam rút quân, Căm Pu Chia đă chuyển hướng thay đổi tên nước, sửa đổi tên pháp, tuyên bố là một nước trung lập và lấy Phật giáo là quốc giáo. Đồng thời, Việt Nam chấm dứt việc gọi quan hệ ngoại giao với Ai Lao và Cam Pu Chia là những “quan hệ đặc biệt”…

- Giảm bớt quân số để tiết kiệm ngân sách

- Bớt ngân sách quốc pḥng

Nghị quyết này dù đă được từng bước thực hiện nhưng được giữ kín cho tới ngày 28- 1-1990 th́ báo Nhân Dân của đảng CS mới tiết lộ. Thi hành tinh thần của nghị quyết, Bộ Ngoại Giao dưới dưới quyền điều khiển của Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ, Phan Doăn Nam… đă hoàn thành một dự thảo về chính sách ngoại giao mới, được tŕnh bày trong buổi họp Bộ Chính Trị trong tháng 5 năm 1988. Trong những bộ phận chính phủ, ngành ngoại giao là một ngành gồm những người có học, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài nên đầu óc cấp tiến hơn.

Trước kia, chiều hướng ngoại giao của Cộng Sản Việt Nam là chỉ thân thiện với những nước Cộng Sản và thế giới theo quan niện chật hẹp của họ cũng chỉ có 2 phe. Cộng sản hay tư bản theo mô h́nh (hai phe, bốn mâu thuẫn). Cộng sản là bạn, tư bản là địch. Bộ Ngoại Giao, dưới sự hướng dẫn của Bộ Trưởng Nguyễn Cơ Thạch đă đổi mới “tư duy đối ngoại” bằng chủ trương “đa phương hóa và đa dạng hóa” đường lối ngoại giao để “phá thế bao vây” trong t́nh trạng cô lập do sự chiếm đóng Căm Pu Chia. Khác với những ủy viên Bộ Chính Trị khác, trong tập san “Quan Hệ Ngoại Giao” năm 1990, Nguyễn Cơ Thạch thẳng thắn công nhận đóng góp quan trọng của chủ nghĩa tư bản trong hai thế kỷ qua, xác nhận sự cần thiết phải hội nhập vào thị trường kinh tế thế giới nhất là, ông công nhận sự sụp đổ của những nước xă hội chủ nghĩa là do nguyên nhân nội tại chứ không phải do những âm mưu phá hoại của đế quốc (14).

V́ bản dự thảo mà Nguyễn Cơ Thạch tŕnh bày trong cuộc thảo luận của Bộ Chính Trị tháng 5 năm 1988 có nhiều điểm mới lạ nên đă gặp nhiều chống đối. Cuối cùng, sau những thảo luận gay gắt, bản dự thảo được thông qua ngày 20- 5- 1988, trở thành nghị quyết 13 của Bộ Chính Trị về ngoại giao, trong đó đề ra những chính sách đối với những đối tượng khác nhau:

- Nhanh chóng giải quyết vấn đề Căm Pu Chia

- Phấn đấu sớm b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc

- B́nh thường hóa với quan hệ các nước ASEAN.

- Khôi phục quan hệ với các nước Phương Tây

- Tranh thủ kéo Mỹ đi vào b́nh thường hóa quan hệ

- Củng cố, tăng cường quan hệ đồng minh, bạn bè….

Theo tinh thần nghị quyết mà Nguyễn Cơ Thạch đưa ra, nhà nước CS Việt Nam sẽ giải quyết cho xong vấn đề Căm Pu Chia và ḥa giải với Trung Hoa, nhưng đồng thời, phải có một quan hệ ngoại giao quân b́nh với các nước Asean , Hoa Kỳ và Tây Âu để không bị Trung Hoa chèn ép…

Trong chiều hướng này, song song với việc “cởi trói” cho văn nghệ, đổi mới kinh tế, và để lấy ḷng Hoa Kỳ và các nước Tây phương, năm 1988, chính quyền Việt Nam công bố trả tự do cho 2474 tù nhân chính trị, giảm án hai tu sĩ Tuệ Sĩ và Trí Siêu từ tử h́nh xuống 10 năm tù giam. Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận cũng được trả tự do sau 13 năm tù đày… (Tổng Giám Mục Thuận sau đó qua La Mă và được thăng chức Hồng Y).

Hai năm 1987 và 1988 cũng là năm mà tổng Tổng Thống Reagan của Hoa Kỳ lần đầu tiên gửi một sứ giả đặc biệt là Tướng Versey sang Việt Nam hai lần để bàn thảo sơ bộ về những vấn đề giúp đỡ nhân đạo. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân do, sự thiết lập bang giao với Hoa Kỳ của Việt Nam đă bị chậm trễ thêm mấy năm nữa. Dù nguyên nhân chính khiến Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch bị loại là áp lực của Trung Hoa, nhưng những phần tử bảo thủ trong Bộ Chính Trị CSVN cũng quy nỗi cho Nguyễn Cơ Thạch là đă thất bại không thuyết phục được Hoa Kỳ băi bỏ cấm vận dù cho Việt Nam đă rút hết quân đội ra khỏi Căm Pu Chia về nước.  

 

Viết xong giữa năm 2009

Điền Viên

 

Chú thích: Bút hiệu Điền Viên là tác giả lăo thành CSVN của bài viết này, ông nguyên trước đây là cán bộ cấp chuyên viên, sau đó là vụ trưởng một Bộ quan trọng trong nội các của chính phủ nước CHXHCN Việt Nam. Năm nay ông tuổi đă ngoài 75, có hơn 50 năm tham gia đảng CSVN, hiện đang sinh sống và an nghỉ hưu trí tại Hà Nội …  


<< trở về đầu trang >>
free counters