Fax: +493046795841 Email: thongtinberlin@gmail.com Tel. +4917678132650

www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de

Những thay đổi buồn tẻ ở Việt Nam tại Đại hội Đảng thứ 11

Những thay đổi buồn tẻ ở Việt Nam tại Đại hội Đảng thứ 11

 

David Koh

 

Đại hội toàn quốc lần thứ 11 của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức từ ngày 12 tới 19 tháng 1 năm 2011. Đại hội chẳng kéo theo thay đổi nào lớn về chính trị, xă hội hay kinh tế, khi mà các nhà lănh đạo cao nhất của đảng cộng sản đă quyết định không quá mạo hiểm trong việc thiết kế đường lối cho đất nước.

Vượt lên trên tất cả mọi thứ và thậm chí vượt cả lên cuộc tranh luận về h́nh thức chủ nghĩa xă hội đang được thực thi ở Việt Nam, là sự quan tâm to lớn tới việc những ai sẽ là các lănh đạo cao nhất của đất nước kể từ sau ngày 19-1-2011. Thật mỉa mai là, vấn đề ít nhiều đă được giải quyết vài tuần trước khi Đại hội khai mạc, khi Bộ Chính trị nhất trí nội bộ rằng sẽ đề cử ông Nguyễn Phú Trọng vào cương vị lănh đạo tối cao. Ban Chấp hành Trung ương khóa 10 chấp nhận đề cử, và Ban Chấp hành Trung ương khóa 11 được bầu chọn tại Đại hội Đảng thứ 11 đă phê chuẩn sự lựa chọn đó.

Ông Nguyễn Phú Trọng là Chủ tịch Quốc hội từ năm 2006 tới năm 2011. Kể từ giữa năm 2010 khi tên tuổi ông bắt đầu nổi lên như là ứng cử viên cho vị trí Tổng Bí thư nhiệm kỳ tới, những đối thủ của ông trong hậu trường đă phá ông một chút. Nhưng việc Bộ Chính trị lựa chọn ông Trọng cũng dễ hiểu, xuất phát từ hai quan điểm. Thứ nhất là nếu không chọn ông Trọng th́ hai vị trí lănh đạo cao nhất là Tổng Bí thư và Thủ tướng có thể đều rơi vào tay người miền Nam. Công thức lựa chọn lănh đạo tối cao luôn luôn đ̣i hỏi phải cân bằng giữa người miền Bắc, miền Nam và miền Trung. Trong quá khứ, không phải lúc nào cũng có thể đưa các nhà chính trị khu vực miền Trung vào cơ cấu, nhưng đă luôn có một sự cân bằng sít sao giữa Bắc và Nam. Thêm vào đó, cái tư duy thường được chấp nhận là người miền Bắc giỏi hơn trong lĩnh vực chính trị và lư luận, người miền Nam th́ giỏi chơi bóng trực tiếp hơn. Đấy là lư do tại sao người miền Bắc thường được ưu tiên vào chức vụ Tổng Bí thư, c̣n người Nam vào vị trí Thủ tướng.

Nếu ông Trọng (ngoại trừ vị Chủ tịch được tôn sùng, ông Hồ Chí Minh, được gọi là Bác Hồ, người Việt Nam nói chung được gọi bằng tên) không trở thành Tổng Bí thư, sẽ khó mà c̣n người miền Bắc nào khác trong Bộ Chính trị vào được vị trí này. Một người miền Bắc khác có thể là ông Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc pḥng. Tuy nhiên kinh nghiệm của ông trong chính phủ chưa bao giờ bao gồm cả kinh nghiệm về chính sách kinh tế và xă hội. Một người Bắc nữa, ông Phạm Quang Nghị, th́ vẫn chưa đủ thâm niên bởi ông chỉ mới làm một nhiệm kỳ ở Bộ Chính trị, là nơi cung cấp nhân sự cho chức vụ Tổng Bí thư. Đương kim Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cũng mới làm được một nhiệm kỳ đầu tiên, mặc dù ông có tương đối kinh nghiệm trong chính phủ và là người miền Bắc. Người miền Bắc cuối cùng là Hồ Đức Việt, Trưởng Ban Tổ chức và Nhân sự của Đảng, từng có một nhiệm kỳ khó quên, đă bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11 gạt khỏi Ban Chấp hành Trung ương nhiệm kỳ này (và do đó phải rời Bộ Chính trị cũng như các cương vị khác). Một điều cũng rất quan trọng là vấn đề thâm niên: Ngoài ông Trọng ra, những người miền Bắc khác đều ít thâm niên hơn những người miền Nam cùng cạnh tranh vào chức vụ Tổng Bí thư. Do đó, đối với cánh miền Bắc, giao ghế cho ông Trọng c̣n tốt hơn cho một người miền Nam, bởi người miền Nam c̣n có thể được nhận chức Thủ tướng nữa.

Lư do thứ hai giải thích tại sao ông Trọng được Bộ Chính trị hiện tại lựa chọn là logic “người đáng tin cậy”. Ông Trọng tạo dựng sự nghiệp chính trị của ḿnh trong lĩnh vực lư luận về chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xă hội; ông là người được hai nhà lư luận Đào Duy Tùng và Nguyễn Đức B́nh bảo trợ, mặc dù tư duy của ông ít bảo thủ hơn họ. Nhiều thập niên kinh nghiệm làm việc ở Tạp chí Cộng sản (tạp chí lư luận của Đảng) và trong Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, dạy và điều hành công việc giảng dạy bộ môn Chủ nghĩa Mác-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, hẳn đă cho ông lợi thế hơn các nhà lănh đạo khác trong công việc diễn giải ư thức hệ của Đảng.

Tuy nhiên ngoài những “quyền được ủy nhiệm” này, ông Trọng có quá ít kinh nghiệm ở cấp chính quyền trung ương so với các đối thủ khác cũng cạnh tranh vào chức Tổng Bí thư. Trước khi trở thành Chủ tịch Quốc hội, ông là Bí thư Thành ủy Hà Nội. (Trước đó nữa, ông làm việc tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh). Khi ông được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, báo chí hỏi ông làm thế nào có thể xử lư công việc khi chưa có kinh nghiệm nghị trường. Ông bảo ông sẽ học từ công việc. Đó là một phương pháp luận kiểu “cứ làm đi đă”, nhưng nó không đảm bảo được là đă chọn đúng người đúng việc. Tuy nhiên ông Trọng chắc chắn là sẽ cảm thấy thoải mái hơn trên cương vị Tổng Bí thư, với bề dày kinh nghiệm của ông trong lĩnh vực lư luận.

Điều đó cũng có nghĩa là căn bản quyền lực của ông Trọng thật sự không phải trong nhánh hành pháp, bởi lẽ Tổng Bí thư, tuy mang tính primus inter pares (một từ Latin, có nghĩa là đứng đầu nhưng b́nh đẳng-ND), phải chịu trách nhiệm về chính sách nhưng không phải về việc thực thi chính sách. Phần thực thi là nhiệm vụ của Chính phủ mà đứng đầu là Thủ tướng. Chẳng thế mà cương vị chính trị và nghi thức của chức Tổng Bí thư là số 1, trong khi Thủ tướng chỉ đứng số 3 (số 2 là Chủ tịch nước); tuy nhiên, nhiều quyền lực chính trị ở Việt Nam th́ lại có được thông qua hệ thống ngân sách và hợp đồng mà Chính phủ chi ra. Trên thực tế, ở bất kỳ cấp nào, các chức vụ trong Chính phủ cũng đáng thèm muốn hơn các vị trí trong Đảng nói chung, mặc dù sở hữu một trong những chiếc ghế cao nhất trong hàng ngũ của Đảng là ch́a khóa để đạt được chức vụ cao nhất trong bộ máy Chính phủ.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được Ban Chấp hành Trung ương khóa 11 bỏ phiếu ủng hộ để ông làm thêm một nhiệm kỳ nữa. Người ta thường nói rằng ở Việt Nam, mọi chính trị gia khi đă đạt được thành công vừa sức ông ta (đa phần chính trị gia ở Việt Nam là đàn ông) đều sẽ muốn trở thành Tổng Bí thư, nhưng có vẻ như ông Dũng không làm được việc này, và điều ấy có vài lư do.

Thứ nhất, có những tiếng nói rất ảnh hưởng cho rằng Thủ tướng và Chính phủ của ông ta có lỗi trong cuộc khủng hoảng tài chính ở Việt Nam năm 2007 (cùng thời với khủng hoảng tài chính toàn cầu), cũng như bất ổn kinh tế vĩ mô giai đoạn cuối 2010. Thứ hai, t́nh trạng gần như phá sản của Vinashin, tập đoàn đóng tàu nằm trực tiếp dưới sự quản lư của Thủ tướng, làm sứt mẻ danh tiếng của Thủ tướng. Có tin đồn là c̣n nhiều Vinashin nữa sắp xảy ra. Thứ ba, suốt hai năm qua, tin tức về vụ nhượng cho Trung Quốc khai thác mỏ bauxite trên Tây Nguyên và cho thuê rừng ở nhiều nơi khác cũng đă làm Chính phủ mang tiếng xấu. Và hăy lấy một ví dụ là việc Quốc hội bác đề nghị của Chính phủ xây đường sắt cao tốc Bắc Nam. Dự án này có tính chiến lược và có giá trị cực kỳ to lớn, nhưng đề nghị của Chính phủ th́ được viết thật vắn tắt và thiếu chuyên nghiệp. Ấn tượng nó tạo ra là một Chính phủ cố sức thông qua mọi thứ thật vội vă mà không hề tập trung một cách thích đáng vào khâu chuẩn bị tài liệu và thuyết phục. Hay là, hăy xem vụ hợp nhất tỉnh Hà Tây vào Hà Nội, một việc làm bị coi là quá vội vă của Chính phủ, bất chấp nhiều ư kiến cho rằng chủ trương sáp nhập là không khôn ngoan.

Tuy nhiên, cũng cần có sự thông cảm tương đối với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chính phủ. Hầu hết những sai lầm trên không phải chỉ của ḿnh Chính phủ. Lư do là, lănh đạo ở Việt Nam là một công việc tập thể, và phần lớn các quyết định căn bản và quan trọng do Thủ tướng đưa ra th́ đều có dấu vết của quyền lực từ Bộ Chính trị. Các quyết định được thảo luận, và việc bỏ phiếu ở những lĩnh vực có sự bất đồng là chuyện thường xảy ra. Do có sự lănh đạo tập thể và cơ chế làm việc ở Bộ Chính trị th́ bí mật, không dễ xác định ai chịu trách nhiệm cho một sáng kiến chính sách nào đó. Là một nhóm, Bộ Chính trị giữ cương vị đứng đầu và không có một thiết chế nào ở bên ngoài nó để làm đối trọng sau khi nó đă ra quyết định.

Chức Chủ tịch nước, sau khi ông Nguyễn Minh Triết rời ghế, sẽ thuộc về ông Trương Tấn Sang. Ông Trương Tấn Sang đă làm rất tốt nhiệm vụ của ḿnh ở cương vị Thường trực Ban Bí thư trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng, từ năm 2006 tới năm 2011, và nhiều ư kiến coi ông ngang hàng với ông Nguyễn Tấn Dũng về mặt năng lực. Trên thực tế, trong danh sách các thành viên Bộ Chính trị, công bố sau Đại hội 11 của Ban Chấp hành Trung ương, ông Sang đứng đầu, c̣n Tổng Bí thư và Thủ tướng xếp dưới. Theo một lời giải thích chưa được xác nhận, danh sách này được sắp xếp theo số phiếu bầu từ cao nhất xuống thấp nhất. Do đó, ông Sang hẳn đă nhận được nhiều phiếu nhất từ những đồng sự của ḿnh trong Bộ Chính trị ở Ban Chấp hành Trung ương khóa 11. Trước Đại hội, người ta thậm chí c̣n cho rằng ông đang chạy đua cùng ông Nguyễn Tấn Dũng để giành chức Tổng Bí thư nhiệm kỳ tới, như điện tín của Wikileaks đă hé lộ. Song chức Chủ tịch nước cũng là một cái giải an ủi (giải khuyến khích), và ông Sang, với tính cách chủ động đi tiên phong, được kỳ vọng sẽ mang lại đổi thay cho một định chế mà quá nhiều người coi là chỉ có tính nghi thức.

Chức vụ lănh đạo quan trọng thứ tư là Chủ tịch Quốc hội. Ngẫu nhiên thế nào, ông Nguyễn Phú Trọng là người thứ hai liên tiếp đi theo con đường từ vị trí Chủ tịch Quốc hội trở thành Tổng Bí thư. Người trước ông là ông Nông Đức Mạnh (2001-2011). Có tin cho rằng Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị có thể đă được đề nghị trở thành Chủ tịch Quốc hội khóa tới, nhưng h́nh như chưa đạt được sự nhất trí đối với việc này. Do vậy vai tṛ ứng viên của ông Nghị có vẻ c̣n gây nghi hoặc. Một bức ảnh chụp những người đứng đầu trong Bộ Chính trị, chụp sau Đại hội toàn quốc lần thứ 11 của Đảng, cho thấy ông Nguyễn Sinh Hùng, đương kim Phó Thủ tướng, có thể trở thành Chủ tịch Quốc hội. Tân Tổng Bí thư có mái đầu bạc trắng; Thủ tướng Dũng và Chủ tịch tương lai Trương Tấn Sang đứng hai bên phải và trái Tổng Bí thư. Có lẽ không có lư do nào để ông Nguyễn Sinh Hùng đứng ngay cạnh Chủ tịch nước Tương lai bởi v́ cương vị hiện tại của ông – Phó Thủ tướng – không cao đến thế.

Nói về chính sách, Đại hội Đảng thứ 11 không phải là một bước ngoặt. Việt Nam vẫn đang thụ hưởng thành quả và danh tiếng của việc là con hổ kinh tế tiếp theo ở ASEAN. Sự thịnh vượng và mức sống đang tăng lên chứng tỏ tính đúng đắn của chính sách mở cửa và hội nhập với cộng đồng toàn cầu. Đại hội sẽ không thay đổi điều này. Chỉ dấu quan trọng nhất cho thấy điều ấy là sự thống nhất rộng răi về Chiến lược Phát triển Kinh tế Xă hội mà Đại hội Đảng thông qua. Điều này cho thấy rằng những kẻ có lợi ích đều chung suy nghĩ rằng con đường Việt Nam đă đi từ thời Đổi Mới năm 1986 là đúng đắn.

Có vài quan điểm khác biệt về việc thế hệ các lănh đạo kế tiếp (chứ không phải lănh đạo mới) có thể làm được ǵ. Những người lạc quan tin rằng những thay đổi, theo hướng đi tới một tŕnh độ quản lư tốt hơn để nh́n ra được vô số các vấn đề nói trên, có thể mất thời gian đấy, nhưng chắc chắn thay đổi sẽ đến, và cần phải có sự chuyển giao thế hệ dần từng bước để những đổi thay đó diễn ra. Họ cũng cho rằng tốc độ không phải vấn đề sống c̣n; sự thận trọng mới là sống c̣n. Những người bi quan th́ tin là các vấn đề được nêu trên bắt nguồn từ một thể chế do đảng cộng sản tạo dựng nên và do đó không tồn tại ư chí phải thay đổi hệ thống một cách căn bản, chờ đợi thay đổi đến thật là vô nghĩa; đất nước sẽ tiếp tục luẩn quẩn thế này. Và cũng có những người cho rằng thay đổi là có thể, ngay từ thế hệ này hoặc sang thế hệ kế tiếp, và cần gây áp lực mạnh lên các nhà lănh đạo để các thay đổi đó diễn ra càng sớm càng tốt. Họ tin là tŕ hoăn thay đổi chỉ một, hai thế hệ nữa, sẽ là muộn màng không cứu văn được.

Cho dù ai đó có theo quan điểm nào, Đại hội lần thứ 11 của Đảng cũng không qua đi mà không được chú ư. Nhưng những việc thật sự phải làm để cải thiện t́nh h́nh đất nước sẽ sớm được giao vào tay bộ máy quan chức cũng như trông cậy vào năng lực của Thủ tướng và Bộ Chính trị mà đứng đầu là Tổng Bí thư, để có thể tiến mạnh lên phía trước mà không giống như đang ăn th́ nhai phải sạn. Hai con người này sẽ chia sẻ quan điểm và chính sách tới mức nào, họ có thể hợp tác tới đâu để thuyết phục những nhà làm chính sách đồng sự trong Bộ Chính trị tuân theo sự lănh đạo của họ, điều ấy sẽ quyết định khả năng cất cánh – hay là hạ cánh một cách khó khăn – của Việt Nam trong ṿng 5 năm tới, cho đến Đại hội toàn quốc của Đảng năm 2016.

David Koh là nhà nghiên cứu cao cấp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á.

 

Người dịch: Đan Thanh

Nguồn: basam.imfo


<<trở về đầu trang>>
free counters