Hợp tác chiến lược toàn diện” và chủ quyền lănh hải trên biển đông
TQ đ̣i lấy 80% biển Đông
Mấy ngày qua, truyền h́nh TQ
liên tục phát ra những cảnh bắt
bớ ngư dân Việt nam ở vùng biển
thuộc vịnh Bắc bộ, chung quanh
quần đảo Hoàng sa-Trường sa theo
lệnh cấm đánh cá đơn phương của
họ ! Lính tuần tra TQ với súng
ống, ṿi phun nước dùi cui…mặc
sức “đàn áp” xua đuổi và bắt bớ
các ngư dân Việt nam, thậm chí
đưa họ về các đảo hải quân Trung
quốc đang chiếm đóng ở Hoàng Sa
giam giữ, bắt kí biên bản “phạm
luật”, “xâm phạm” vùng biển hay
đánh cá trái phép và phạt tiền
lên đến nửa tỷ đồng… nghĩa là
qua hành động nầy, phía TQ đă
công khai tuyên bố biển Đông
thuộc chủ quyền của họ, họ có
quyền “hành xử luật pháp” Trung
quốc một cách ngang nhiên ! Ít
nhất là qua những h́nh ảnh nầy,
Hải quân TQ đă “thị uy” được sức
mạnh của ḿnh trên biển đông mà
phía VN chẳng làm ǵ được ngoài
những tuyên bố mang tính chiếu
lệ về chủ quyển như mọi khi.
Lệnh “cấm” của TQ đưa ra vào đầu
tháng 5.2009 thế mà sau hơn hai
tuần lễ, kể khi một số tàu đánh
cá bị vây bắt, đánh ch́m vào
20.5.2009, vào ngày 9.6.2009 Hội
nghề cá Việt Nam, các hội nghề
cá địa phương mới được phép lên
tiếng phản đối yếu ớt, ra lời
khuyên ngư dân tập trung đi ra
khơi thành đoàn để tự bảo vệ
ḿnh. Ông Nguyễn Việt Thắng,
Chủ tịch Hiệp hội Hải sản Việt
Nam cho rằng phản ứng của Việt
Nam với vấn đề này là quá trễ,
tuy nhiên là “cần thiết nhằm
khuyến khích ngư dân Việt Nam
tiếp tục hoạt động đánh bắt cá
của họ”(1). Đại tướng Lê Văn
Dũng, phụ trách Tổng cục chính
trị quân dội nhân dân khuyên
rằng “không nên vào vùng biển
đang có tranh chấp” trong khi
các ngư thuyền của các tỉnh miền
trung đang vào mùa thu hoạch,
đánh bắt tại vùng biển Hoàng Sa
và Trường Sa thuộc lănh hải của
ta sau khi một số tàu đánh cá bị
vây bắt(2). Hơn thế nữa, hành
động nầy rơ ràng mang mục đích
gây ấn tượng với thế giới rằng
biển đông vẫn là của TQ, chủ
quyền không thể “tranh căi” như
lời tuyên bố của Tần Cương,
người phát ngôn Bộ Ngoại giao TQ
trước sự phản kháng của phía VN.
Điều nầy hoàn toàn bất lợi cho
VN mỗi khi vấn đề chủ quyền trên
biển đông đă trở thành một sự
thật đă rồi (Fait accompli) cho
dù hiện nay hay sau nầy phía VN
có kêu la, trưng bằng chứng thế
nầy thế khác.
Điều nầy có thể thấy qua việc TQ
chiếm đóng toàn bộ quần đảo
Ḥang sa vào năm 1974 và một số
đảo của Việt Nam ở Trường Sa năm
1988. Trong suốt 35 năm qua
quân đội Trung Quốc luôn củng cố
và tăng cường lực lượng canh giữ
ngày càng hiện đại, trở thành
một căn cứ quân sự vững chắc của
TQ trên biển đông để khống chế
và lấn chiếm! Chủ tịch Hồ Cẩm
Đào tuyên bố ”Chúng ta phải cố
gắng xây dựng một lực lượng Hải
quân Nhân dân hùng mạnh có thể
đáp ứng được sứ mạng lịch sử
trong một thế kỷ mới và một thời
kỳ mới.” vào ngày 28.12.2006
trước lănh đạo hải quân TQ(3).
Sứ mạng lịch sử đó là ǵ? phải
chăng là nhu cầu về dầu mỏ, khí
đốt… khống chế biển đông để phục
vụ chính sách “phú quốc cường
binh” và học thuyết “đại Đông Á”
kiểu mới mang màu sắc Trung quốc,
đầy tham vọng của một nước lớn?
Tốc độ phát triển kinh tế với
mức tăng trưởng cao, luôn trên
10% GDP trong hơn hai thập kỷ
qua càng làm cho những nhà lănh
đạo TQ nóng ḷng trước việc “bỏ
trống” biển đông hơn bao giờ hết.
Việc đảm bảo quyền kiểm soát của
ḿnh trong vấn đề giao thông,
giữ vững con đường biển chở dầu
từ Trung cận đông vượt eo biển
Malacca qua biển đông là tuyến
đường sống c̣n của TQ v́ vậy
việc tăng cường hạm đội, lực
lượng tuần tra trong những năm
qua cũng không nhằm mục đích nào
khác(4). GS Hiramatsu
Shigeo(Nhật) phân tích “Cải cách
kinh tế và chính sách mở cửa của
Đặng Tiểu B́nh đă cho phép Trung
Quốc đạt được thành quả đáng kể
về phát triển kinh tế, nhưng mặt
khác sự phát triển này cũng tạo
nên nhu cầu năng lượng ghê gớm.
Một kết quả cụ thể khi sản xuất
không đủ tiêu dùng là Trung Quốc
đă biến từ một nước xuất khẩu
sang một nước nhập khẩu dầu.
Điều này khiến việc phát triển
các khu khai thác dầu lửa dưới
đáy biển gần quanh lục địa trở
nên thiết thân. Trung Quốc cũng
tỏ ra rất quan tâm tới dầu lửa
miền Cận Đông”(5).Thực tế Trung
Quốc đă là nước nhập khẩu dầu mỏ
lớn thứ hai, sau Mỹ, Dự kiến đến
năm 2010, lượng nhập khẩu dầu mỏ
của Trung Quốc mỗi ngày sẽ tăng
gấp đôi, đạt 4 triệu thùng.ngày
và đến năm 2030 vào khoảng 10
triệu thùng.ngày(6).
Nh́n một cách khách quan, việc
đối phó của nhà nước VN đối với
những động thái “ra tay trước”
của TQ trong vấn đề chủ quyền
trên biển đông, quyền khai thác
dầu mỏ ở thềm lục địa thuộc lănh
hải được quốc tế công nhận luôn
bị TQ quấy nhiễu, nhưng lúc nào
Việt Nam cũng dừng lại ở giải
pháp t́nh thế, đuổi theo “kêu
gọi” một cách thụ động. Bên cạnh
sự vuốt ve VN với “16 chữ vàng”
và “quan hệ 4 tốt” trong những
cuộc hội đàm cấp cao giữa hai
nước Việt-Trung, các nhà lănh
đạo của phía đối tác hết lấn sân
trên bộ qua cuộc xác lập đường
biên giới mới nay chuyển sang
đường biên giới trên biển, phân
vùng trên vùng biển thuộc vịnh
bắc bộ và tràn xuống phía nam
theo chiếc lưỡi ḅ mà họ đă vạch
sẵn(7). Hành động nầy mỗi lúc
càng gắt gao và mang tính dọa
nạt công khai bất chấp những ǵ
đă cam kết song phương Việt-Trung hay đa phương (giữa
TQ-Asean năm 2002) về cách ứng
xử ḥa b́nh, tôn trọng lợi ích
của nhau và không làm việc tranh
chấp đến xung đột về chính trị
và quân sự. Phải chăng một mặt
giao ước như trên với các nước
để kiềm chế hành động đối phó
trả đũa nhưng mặt khác vẫn ra
tay lộng hành áp đặt để tạo ra
một trạng thái đă rồi như đă đề
cập ở trên?
Nguy cơ TQ trở thành một đế quốc
bành trướng mới nầy không phải
chỉ thấy ở biển đông mà trên
thực tế chính phủ TQ đă tiến
hành việc khai thác dầu mỏ và
nguồn tài nguyên thiên nhiên ở
Châu phi trong một thập kỷ qua.
Kim ngạch thương mại giữa Trung
quốc và Châu Phi đă tăng 50 lần
hơn trong 25 năm qua (từ
1980-2005), gấp 5 lần nếu tính
từ năm 2000-2006, 10 tỷ lên 55
tỷ và sẽ là 100 tỷ euro vào năm
2020. Hiện tại đă có trên 900
công ty TQ có mặt trên lục địa
nầy với 750,000 hoa kiều(8). Đầu
tư hay viện trợ không hoàn lại
để bóc lột khoáng sản, đưa đạo
quân công nhân không có tay nghề
ở các địa phương nghèo của TQ
sang châu Phi cắm dùi lâu dài
với con số không dưới 500,000
người theo công bố của ông Huang
Zequan, Phó chủ tịch “Hội hữu
nghị nhân dân TQ với các nước”
càng làm cho những ai dựa dẫm
vào t́nh “hữu nghị” với TQ cũng
phải xem xét lại mối quan hệ hàm
chứa nhiều khả năng “thuộc địa
hóa” đáng lo ngại (9) biểu hiện
qua các phong trào tẩy chay xí
nghiệp của TQ khai thác tận thu
ở các nước Châu Phi. Nh́n vào
thủ đô Viên Chăn của Lào, một
dăy phố người Hoa “mới” gần
50,000 người sang phục vụ các
công tŕnh xây dựng cho Seagames
2009, tương đương với 10% nhân
khẩu của thành phố nầy và đi
theo là các hợp đồng khai thác
Bô-xít, khoáng sản, thủy điện và
xa lộ nối liền với các tỉnh phía
nam TQ càng cho thấy ư đồ lâu
dài của họ(10) . Ngay trung tâm
cao nguyên giữa ba nước
VN-Lào-Cămpuchia (Tây
nguyên-Attopeu-Boloven) h́nh
thành một vùng công nghiệp khai
thác khoáng sản do TQ chi
phối(11) với hàng chục vạn người
Hoa mới sinh sống và định cư lâu
dài th́ không chỉ vấn đề khai
thác tài nguyên khoáng sản mà
c̣n đi xa hơn trong chiến lược
đặt ba nước nầy nằm dưới tầm
kiểm soát về quân sự là điều có
thể h́nh dung một cách dễ dàng
v́ từ đây có thể sử dụng đường
bộ, đường sắt do TQ xây dựng để
thoát ra biển đông ở miền trung
Việt nam và vịnh Thái lan qua
ngơ Shihanouk Ville gần nhất.
Phải chăng đây cũng là điều mà
Đại Tướng Vơ Nguyên Giáp quan
ngại và đă viết trong thư gửi
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày
5.1.2009(12).
Ngày 30.5.2008 TBT Nông Đức Mạnh
và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đă hội
đàm tại thủ đô Bắc Kinh, nhất
trí phát triển quan hệ hai Đảng,
hai nước lên tầm cao mới, trở
thành đối tác hợp tác chiến lược
toàn diện(13) và gần đây nhất
trong chuyên đi thăm Việt nam
vào đầu tháng 6.2009, Ông Lư
Nguyên Triều, Ủy viên Bộ Chính
trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng
ban Tổ chức Trung ương cũng đă
“đánh giá cao sự phát triển của
quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn
diện giữa hai Đảng, hai nước và
khẳng định Đảng, Chính phủ và
nhân dân Trung Quốc rất coi
trọng và làm hết sức ḿnh để
phát triển quan hệ đối tác hợp
tác chiến lược toàn diện với
Việt Nam theo phương châm 16 chữ
và tinh thần 4 tốt mà lănh đạo
cấp cao hai Đảng, hai nước đă
thỏa thuận”. Ông Lư Nguyên Triều
khẳng định “Trung Quốc vừa coi
Việt Nam là láng giềng tốt, vừa
là người bạn trên con đường xây
dựng xă hội chủ nghĩa”(14).
Những điều nầy cho thấy quan hệ
hai nước mỗi khi được nâng lên
tầm “đối tác chiến lược toàn
diện” có nghĩa là Việt Nam ủng
hộ và hợp tác mọi sách lược của
TQ, không thể phản bác hay cưỡng
lại được chủ trương
dành lại chủ
quyền toàn diện trên biển đông
mà họ đă vạch ra từ lâu. Nói một
cách khác, như xă luận của tờ
The Straits Times (Singapore)
ngày 4.7.2009, rằng Việt nam đă
“Chui đầu vô quỹ đạo của Trung
Quốc”(15). Do đó, việc khai thác
Bô-Xít ở Tây nguyên mặc dù gặp
nhiều sự phản đối của hàng trăm
trí thức, chuyên gia kinh tế,
khai khoáng… các vị cách mạng lăo
thành, tướng lĩnh từng chỉ huy ở
Tây nguyên, Nhà ngoại giao… trong
nhiều tháng qua vẫn không làm
thay đổi được kết luận của Bộ
chính trị(16) cho phép tiếp tục
xúc tiến dự án trị giá hơn 15 tỷ
đô la v́ trong tuyên bố chung
giữa lănh đạo hai Đảng Cộng sản
VN-TQ, dự án khai thác Bô-xít
nầy đă được nhắc lại như một lời
cam kết trong sự nhất trí hợp
tác chiến lược nêu trên.
Dù nh́n cảnh ngư dân giơ cao tay
lên đầu trước họng súng tuần tra
của hải quân TQ chúng ta không
thể nén giận và cảm thấy tủi
nhục khi đồng bào ḿnh bị chúng
bắt ngay trên lănh hải Việt nam,
hành động xâm phạm chủ quyền
trắng trợn như vậy nhưng phải
đành thúc thủ, rưng rưng và ngậm
ngùi. Phải chăng đây là “biểu
hiện sinh động của việc xây dựng
quan hệ đối tác hợp tác chiến
lược toàn diện Việt Nam -Trung
Quốc” như TBT Nông Đức Mạnh đă
phát biểu với ông Lư Nguyên
Triều trong buổi gặp gỡ tại Hà
Nội ngày 12.6.2009.
Liệu “độc lập chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lănh thổ(có)
được giữ vững” như lời của Tổng
Bí Thư đă phát biểu hôm bế mạc
Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng vào ngày 4.7.2009 ?
Lê Hoàng