Giáo xứ Tam Ṭa, qua khủng bố lịch sử đang tái diễn...
Nguyễn Đức Cung
Một triết gia Tây phương có nói:
“Chẳng bao giờ người ta có
thể tắm lần thứ hai ở một ḍng
sông.” Câu nói cho người
đọc sử một nguyên lư dứt khoát
đó là lịch sử không bao giờ lặp
lại cũng giống như con sông hễ
trôi đi một lần là đi biền biệt
với ḍng thủy lưu luôn luôn đổi
thay cùng với băi cát nương dâu
khi bồi khi lở. Tuy nhiên chắc
chắn lịch sử đă có khi lặp lại
và - không những thế - đă lặp
lại nhiều lần cho nên người ta
đă luôn luôn thúc dục nhau nhớ
lấy bài học lịch sử, rút ra kinh
nghiệm lịch sử, t́m hiểu vấn đề
lịch sử để bồi bổ cho những nhận
thức cùng hành động trong hiện
tại và như vậy rơ ràng là câu
nói của sử gia Pháp Fustel De
Coulanges “Lịch sử chẳng có
ích lợi ǵ” (L’histoire ne sert
à rien) (Nguyễn Phương,
Phương pháp sử học, Phong
nghiên cứu Sử, Viện Đại Học Huế,
1964, trang 23) đă hóa nên vô
nghĩa?
Ngày 20-7-2009, lịch sử đă lặp
lại trên một vùng đất bé nhỏ,
một địa điểm đă từng là chiến
trường giữa lực lượng người Hán
và Đại Việt với người Chăm từ
thế kỷ I đến thế kỷ XI, giữa
Đàng Trong và Đàng Ngoài thời
Trịnh Nguyễn trong gần hai trăm
năm, một linh địa mệnh danh Tam
Ṭa từng hiện diện trên đó ngôi
thánh đường ngày nay đổ nát chỉ
c̣n mặt tiền được chính quyền
cộng sản tỉnh Quảng B́nh dùng
làm nơi lưu niệm chứng tích tội
ác của đế quốc Mỹ trong chiến
tranh Việt Nam. Giáo xứ Tam Ṭa
ở phía nam sông Gianh, trên vùng
biên giới giữa vương quốc Đàng
Trong và Đàng Ngoài thể hiện cá
tính đặc thù đúng như câu nói
của sử gia Anh Arnold J.
Toynbee: “Những miền nằm
trên vùng biên giới đều có sinh
lực mạnh mẽ.” (Arnold J.
Toynbee, The Study of
History, tác phẩm tóm lược
(hai tập) của D.C. Somervell, A
laurel edition, Dell Publishing
Co., Inc xuất bản, 1971. Nguyễn
Thế Anh, Nhập môn Phương
pháp Sử học, Sài G̣n, 1974,
tr. 17). Biến cố khủng bố có tổ
chức đối với người giáo dân Tam
Ṭa do chính quyền cộng sản tại
Quảng B́nh điều động có lớp
lang, có bài bản ngày 20-7-2009
và những ngày sau đó đă cho thấy
rơ ràng là lịch sử bách hại đạo
Công Giáo đang lặp lại trên vùng
đất đầy đau khổ mà cũng rất anh
hùng này.
1.- Hạt giống đức tin
gieo xuống và chông gai bước
đầu.
Dưới thời Pháp thuộc thành phố
Đồng Hới có tên thơ mộng là
Thành Phố Hoa Hồng nằm gần đúng
vào giữa tỉnh Quảng B́nh ở tọa
độ 17, 21 đến 17, 31 vĩ độ Bắc
và 106, 30 đến 106, 10 kinh độ
Đông. Đồng Hới trước đây có tên
Động Hải mà theo một tư liệu của
linh mục Nguyễn Văn Ngọc có tên
“Trang sử giáo xứ Tam Ṭa”
th́ năm 1615 chúa Săi
(Nguyễn Phúc Nguyên) cho phép
các giáo sĩ Âu châu vào truyền
đạo từ Phú Yên đến sông Gianh.
Lúc bấy giờ, muốn truyền đạo có
kết quả mau chóng th́ phải t́m
đến chỗ đông người, nên các giáo
sĩ phải chọn vùng thị tứ để tới
đó giảng đạo mà ở Quảng B́nh
không có chỗ nào đông đúc hơn
vùng Nhật Lệ cho nên Động Hải là
một điểm truyền giáo được chú ư
tới. Đặc biệt là trong giai đoạn
chúa Nguyễn xây đắp lũy Trấn
Ninh, lập đồn Động Hải, xây lũy
Trường Sa v.v… th́ Động Hải lại
càng tấp nập, trở thành địa hạt
giảng đạo quan trọng đối với các
vị thừa sai. ( Nguyễn Văn Ngọc,
Trang sử giáo xứ Tam Ṭa. Tư
liệu phổ biến nội bộ của họ giáo
Tam Ṭa, Sài G̣n, 1996, trang 5;
Nguyễn Tú, Địa chí Đồng Hới,
Trung Tâm VHTT Thị Xă Đồng Hới
xb., 2000, tr. 150). Chỉ trong
một thời gian không lâu ở phía
nam Quảng B́nh đă có bốn họ đạo
đó là Đại Phong, Trung Quán,
Dinh Mười và Động Hải. Sau khi
được thành lập, các giáo xứ tại
Quảng B́nh sống đời sống mục vụ
tự lập, không có linh mục trông
coi nên giáo dân đă sớm trưởng
thành trong đức tin. Thỉnh
thoảng trong một năm, một hoặc
hai lần mới có linh mục từ Huế
ra thăm ban các phép bí tích.
Cũng theo tư liệu của linh mục
Nguyễn Văn Ngọc, hồi đó các quan
chưởng cơ ở Quảng B́nh cũng
tuyển lựa đồng bào công giáo vào
quân ngũ. Báo cáo ngày tháng
12-1692 của linh mục Lôrensô Lâu
gửi về Ṭa Thánh Rôma cho biết:
“Tôi tới thăm các họ đạo Đại
Phong, Trung Quán, Dinh Mười,
Động Hải, tại vùng này có dinh
quan Chưởng cơ và quân đội chúa
Nguyễn, có lũy lớn gọi là lũy
Trấn Ninh, ở đây có 50 lính công
giáo…”. (Nguyễn Tú, Sđd,
trang 150)
Nhưng t́nh h́nh về sau đổi thay
do việc các chúa Nguyễn thi hành
chính sách cấm và bắt đạo qua
nhiều h́nh thức khủng bố nhắm
vào đối tượng là người Công
Giáo.
Trong tác phẩm Lịch sử
truyền giáo, linh mục
Nguyễn Hồng viết về các anh hùng
xưng đạo ở Quảng B́nh qua cơn
khủng bố dưới thời Chúa Thượng
Nguyễn Phúc Lan (1635-1648) như
sau: “Cuộc bách hại vẫn tiếp
tục. Bắt đầu với cái chết của
thầy Andrea, rồi đến hai thầy
I-nha-xu và Vinh-Sơn, cuối năm
1646 lại tái diễn với án trảm
quyết hai ông Agostinô và Alêxi.
Thấy hoạt động tông đồ giáo dân
của hai ông Agostinô và Siméon,
hai vị trùm trưởng nhiệt thành
của họ Quảng B́nh, dù trong thời
kỳ cấm cách, vẫn tiếp tục và kết
quả, một số người ghét đạo ở
làng bên t́m cách phá hoại. Họ
nhờ một quan cai đội đệ tŕnh
lên Thượng vương một đơn tố cáo
một số đàn anh họ đạo Quảng
B́nh, trong đó tên hai ông
Agostinô và Siméon được đặt lên
trên hết. Họ kêu ca v́ dân bên
giáo bỏ thần phật, nên mùa quả
bị hỏng và trâu ḅ chết nhiều.
Thượng vương ra lệnh cho lính
phủ về bắt hai ông Agostinô và
Siméon đóng gông giải về dinh..
Cậy thế triều đ́nh, họ
Quảng-B́nh bị lính phủ phá phách
tàn tệ. Hai ông Agostinô và
Siméon bị bắt giam cùng với 4
giáo dân trong họ, trong đó có
ông Alêxi. Ông là người trong
quân đội, nghe biết lính phủ lên
bắt giáo dân trong họ, ông liền
xưng ra ḿnh là người có đạo.
Lấy t́nh bạn đồng nghiệp, quan
cai đội chỉ yêu cầu ông kư bản
chối đạo, không bắt ông phải đạp
ảnh và t́m hết các đường lối
quanh co để gỡ cho ông thoát,
nhưng ông Alêxi từ chối những cử
chỉ hèn nhát đó. Ông lại yêu cầu
được danh dự mang gông như hai
ông Agostinô và Siméon. Theo
luật, quân lính có tội được miễn
nhục h́nh đó, nhưng v́ ông Alêxi
khẩn khoản, nên sau khi hỏi ư
kiến quan phủ, quan cai đội cũng
để ông được mang gông. Bị giải
đến trước mặt Thượng vương, nhà
chúa bỡ ngỡ v́ lệnh truyền chỉ
đóng gông có hai người. Hiểu
chuyện do quan cai đội tâu
tŕnh, Thượng vương bắt đầu tra
vấn ông Alêxi rồi đến hai ông
Siméon và Agostinô. Tất cả đều
can đảm xưng đạo. Nổi giận,
Thượng vương kết án trảm quyết
hai ông Agostinô và Alêxi, c̣n
cụ già Siméon đă 62 tuổi và 3
giáo dân khác bị chặt một ngón
tay, bị đánh đ̣n và cạo trọc
đầu. Án giao cho quan phủ Quảng
B́nh thi hành và c̣n truyền cho
ông phải truy nă những giáo dân
bất tuân lệnh vẫn cả gan hành
đạo và trừng phạt để làm gương
cho người khác sợ. Một số ảnh
tượng và sách đạo bị tịch thu
trong chuyến vây bắt họ
Quảng-B́nh, cũng bị đem thiêu
hủy hôm đó.” (Nguyễn Hồng,
Lịch sử truyền giáo ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Hiện Tại,
1959, quyển I, trang 245). Linh
mục Nguyễn Hồng đă dựa trên tư
liệu của cha Metello Saccano ghi
tên làng đó là làng “Kenyka”
mà theo chúng tôi đoán đó là
làng Kẻ Nại tức
là làng Diêm Điền là làng của
ḥa thượng Thích Trí Quang ở gần
giáo xứ Tam Ṭa. Dân làng
Diêm-Điền có tật nói ngọng, chữ
l nói là
n thí dụ “làm
sao” th́ nói “nàm thao”. Trong
biến cố quân Văn Thân đốt phá
giáo xứ Sáo Bùn năm 1886, chính
đa số là dân Diêm Điền vào đốt.
Vậy th́ trước đó cả hơn thế kỷ,
chính quân phủ Quảng B́nh xúi
dục làng Kẻ Nại khiếu kiện người
Công giáo gây mối xung đột lương
giáo từ đó kéo dài về sau. Những
việc làm đó về sau được công an
Quảng B́nh áp dụng trong sự biến
Tam Ṭa ngày 20-7-và 27-7-2009
chẳng hạn như bắt người, đánh
đập linh mục, giáo dân, tịch thu
ảnh tượng, sách đạo, tượng thánh
giá v.v…
T́nh h́nh lúc đó rất căng nên
các linh mục phải trốn đi miền
khác. Từ Phú Xuân ra tới nam
sông Gianh lúc bấy giờ chỉ c̣n
hai thừa sai Ḍng Tên. Tuy nhiên
cuộc bắt đạo trở nên khốc liệt
dưới triều các vua nhà Nguyễn
như Minh Mạng, Thiệu Trị và nhất
là Tự Đức.
Về sau chính sách khủng bố đạo
Công Giáo vốn là sáng kiến của
vua Minh Mạng nhưng v́ sợ mang
tiếng nên ông mới khôn khéo bắt
các quan triều đ́nh làm kiến
nghị gởi lên vua xin cấm đạo
Công Giáo trong toàn quốc. Và
trước mặt dân Minh-Mạng hạ chỉ
cấm đạo chỉ v́ triều thần nài
xin gắt gao. Sử gia linh mục
Phan Phát Huồn cho rằng “cái
hài kịch mà Minh Mạng và tôi tớ
của ông đóng xem ra giống hài
kịch mà Cộng-Sản thường diễn lại
ngày nay. Minh Mạng cám ơn các
quan đă có ḷng hăng nồng sốt
sắng lo việc nước, việc dân.”
(Phan Phát Huồn, Việt
Nam Giáo Sử, bản in lần thứ
hai, 1965, quyển I, trang 322).
2.- Cao điểm của chính
sách khủng bố.
Tuy nhiên cao điểm của sự khủng
bố đạo Công Giáo dưới thời Tự
Đức (1847-1883) là chính sách
phân sáp được áp dụng trong toàn
quốc giai đoạn 1861-1862 mà
trong đó giáo dân toàn tỉnh
Quảng B́nh trong đó có giáo dân
Sáo Bùn, tổ tiên của giáo dân
Tam Ṭa đă phải chịu đựng khó có
ng̣i bút nào diễn tả hết sự đau
thương, thảm khốc.
Trong chính sách phân sáp, Tự
Đức chủ ư gây ra t́nh trạng mâu
thuẫn lương giáo, miệt thị giáo
dân bằng cách gọi giáo dân là
“dữu dân” (dữu là một thứ cỏ độc
hại). Phân sáp là ǵ? Nhà sử học
Lê Ngọc Bích trong sách Nhân
vật Giáo phận Huế đă cho
biết: “Phân sáp (cũng đọc là
Phân tháp); “Phân” là chia ra,
“Sáp” hay “tháp”là cắm vào, lách
vào. “Phân sáp” (hay “Phân
tháp”) là chia riêng ra không
cho tụ họp lại rồi cắm vào, ghép
vào một nơi khác để bộ phận bị
ghép vào đồng hóa với nơi được
ghép vào. Như vậy, “Phân sáp”
người Công giáo ở các làng Công
giáo là xé nhỏ các gia đ́nh Công
giáo, các làng Công giáo để
không c̣n là một đồng thể rồi
ghép vào với gia đ́nh không Công
giáo (thuật ngữ gọi là người
“bên lương” ở các làng “bên
lương” khác quản lư, người Công
giáo sẽ bị đồng hóa về mặt tôn
giáo với người “bên lương” th́
từ đó các cộng đồng người Công
giáo là các họ đạo, các giáo xứ
sẽ tàn lụi, sẽ bị xóa sổ.”
(Lê Ngọc Bích, Nhân vật Giáo
phận Huế, Tập I, 2000, tr.
43).
Sau đây là những thảm cảnh do
chính sách “phân sáp” đă được
Giám mục Sohier (tên VN là B́nh)
ghi lại bằng những nét rất phổ
biến đối với nhiều giáo xứ “
(…) hàng loạt người Công giáo bị
bắt (…) nhiều người chỉ gặp vợ
con trong ṿng 5-6 ngày rồi đau
đớn xa ĺa nhau, không thể nào
gặp nhau lại được. V́ thế họ
khóc than vô kể (…) Họ kể lể:
Chúa ôi, thà người ta chặt đầu
cắt cổ chúng con c̣n hơn! Tại
sao không để chúng con chết đi
cho rồi! Sống làm chi cho khổ
thế!” (Lê Ngọc Bích, Sđd,
tr. 44).
Cảnh tượng tại Kẻ Sen, cách giáo
xứ Tam Ṭa khoảng 17 cây số thật
đau ḷng, theo lời Giám mục
Sohier: “Đây là cảnh tượng
đau ḷng nhất: nào là những bà
mẹ ra đi với đứa con dại đeo
lung lẳng trên vú, nào các bà
khác th́ cơng con sau lưng.
Chồng họ đi theo gánh gồng lương
thực. Sau những người này là
những ông chủ mới, tay cầm roi.
Những trẻ con bị bỏ lại, chúng
chạy trốn lên rừng. Dầu vậy họ
vẫn hiên ngang đi, ḷng đầy tin
tưởng (…)” (Lê Ngọc Bích,
Sđd, tr. 44)
Chính sách đối xử với dân Công
giáo thật dă man. Cứ mỗi làng
bên lương nhận quản lư 5, 6
người Công giáo, có làng nhận
tới 90 giáo dân. Có người bị
giam cầm suốt cả năm không được
cấp một hạt gạo hay một đồng
tiền nào cả. Các quan mỗi tháng
đến kiểm soát 3 lần và tra tấn
giáo dân trong khi đó các lư
trưởng, chánh tổng tha hồ đánh
đập dân Công Giáo hơn cả đối xử
với súc vật. Nhà giam những
người Công Giáo thường làm bằng
tre thấp lè tè, thiếu không khí,
không có những tiện nghi cần
thiết, chung quanh chất đầy rơm
khô, trên không mái che, chờ hễ
khi có lệnh th́ phóng hỏa. Sau
đây là những lời Giám Mục Sohier
ghi lại: “Theo Sắc dụ Phân
Sáp, các nhà giam được cất giữa
các làng “bên lương” (để dễ kiểm
soát), nhưng về sau đưa các nhà
giam ra làm tại những nơi hoang
vắng đồng không mông quạnh, xa
nhà dân để một khi đốt các nhà
giam th́ nhà dân trong làng khỏi
bị cháy lây. Bởi v́ vua Tự Đức
và các quan nhất quyết thiêu
sống giáo dân trong trường hợp
có tàu Tây trở lại các cửa biển…
Ở các cửa biển cũng có sẵn rơm
và củi, hễ có tàu ngoại quốc
đến, quân ta đốt lửa lên làm
hiệu lệnh, trong đất liền, ở các
nhà giam sẽ nổi lửa đốt nhà
giam.” (Lê Ngọc Bích, Sđd,
tr. 45).
Trong các tư liệu viết về lịch
sử Giáo phận Vinh, có Bài
Phú Phân Tháp do Đức cha
Phêrô Trần Xuân Hạp gửi cho linh
mục Cao Vĩnh Phan, được đăng lại
đầy đủ trong tác phẩm Lịch
sử Giáo phận Vinh, với
những chứng tích rất đau thương
trích dẫn một đoạn như sau:
Ai ngờ:
- Trong buổi trị b́nh,
Sinh điều loạn lạc.
- Cứ sổ kêu phân tháp, ông tỉnh
ấy dâng lên
Nghe chỉ cho thi hành, ông phủ
chi làm trước.
- Trong nửa tháng sự thanh hết
thảy, đưa dâng lên một tập quyển
vàng,
Trên chín lần để dụ đáng khen mà
đệ vào mấy đồng tiền bạc.
Rồi một cái:
- Các tỉnh thành đều phải thi
hành,
Cứ quảng nghĩa cho in thể thức.
- Chiếu sổ ai là tả đạo, phủ bắt
về đầy nha, huyện bắt về đầy
nha,
Mật trát sức cho b́nh dân, làng
mô cũng làm rặc, xă mô cũng làm
rặc.
- Từ dần chí dậu trống đánh th́
thùng,
Cả đêm liền ngày mơ khua cúc
cắc.
- Các ông chức dịch ngồi trong
đ́nh họp họp hành hành,
Bắt đứa phu đài t́m mặt dân gông
gông gạc gạc.
- Chính ở trong làng dựng vài
điếm canh,
Chôn dưới chân cột xiên xiên mũi
mác.
- Áp tận nơi: tre cắm một tầng
dày kín mịt mù chông thả trong
thả ngoài,
Sâu lút người: hào rạch tứ phía
rào bao hai lớp gai bỏ ngang bỏ
ngác.
- Nghe sắm sửa: kẻ một chục kẻ
đôi ba chục, kẻ ba bốn chục mua
lấy nơi gần gần,
Thành sổ rồi: làng năm người,
làng dăm bảy người, làng chín
mười người kéo từng đoàn dặc
dặc.
- Không cho thối hồi,
Đ̣i đi lập tức.
- Chẳng để ai lưu lại quê nhà,
Cũng chán kẻ phải đi xa lắc.
- Những tưởng dồn làng vừa mang
vừa hát vâng lệnh nước ra đi,
Ai ngờ phép vua một ngày một
nghiêm bỏ cửa nhà tan tác…
(Linh mục JBT. Cao Vĩnh Phan,
Lịch sử Giáo phận Vinh,
Hội Ái hữu Giáo phận Vinh Bắc
Cali, Hoa Kỳ, xuất bản, 1996,
tr. 531)
Một tư liệu xuất bản gần đây có
tên Châu bản triều Tự-Đức
c̣n ghi lại một trong nhiều
trường hợp nhà Nguyễn xử lư vấn
đề ruộng đất của người Công Giáo
trong chính sách phân tháp như
sau: “ Nội các duyệt xét các
quy định của tỉnh Quảng ngăi
nhằm xử trí với giáo dân đạo Gia
Tô: Ruộng đất của giáo dân bị
tập trung ở những nơi riêng
biệt, giao cho lư dịch quản lư.
Các lư dịch này sẽ chiêu mộ dân
lương các nơi đến canh tác số
ruộng đó. Một nửa số thu hoạch
sẽ giao cho người canh tác, c̣n
một nửa dùng nộp thuế và cấp
dưỡng cho giáo dân.”
(R.X.Q. Tự-Đức thập tứ niên,
Thập nguyệt. Ngày 2-10 TĐ.
XIV (1861). Tờ 17-23. Kho
L.T.T.Ư. 2; CB. 262). Trung Tâm
Nghiên Cứu Quốc Học, Châu
bản triều Tự Đức, Nxb. Văn
Học, 2003, tr. 110.
Đây chỉ là những điều ghi nhận
trên giấy tờ, c̣n trong thực tế
giáo dân phải chịu rất nhiều đau
thương cả vật chất lẫn tinh thần
mà trong đó giáo dân Sáo Bùn
(Tam Ṭa) nói riêng và Công Giáo
toàn quốc nói chung phải gánh
chịu thật sự không sao kể xiết.
3.- Lịch sử đang bước
đầu tái diễn, nhưng người cộng
sản đừng tưởng bở…
Trong bài trả lời BBC từ Hà Nội,
tiến sĩ Nguyễn Hồng Dương, Viện
trưởng Viện Nghiên Cứu Tôn giáo
nhận định: “Chắc là lịch sử
sẽ không lặp lại. Việt Nam có
đường lối ngoại giao rất cụ thể
và tính chất độc lập. Chắc lịch
sử sẽ không lặp lại như thế.”
(Vietcatholic ngày
28-7-2009) Ngày trước, vua chúa
nhà Nguyễn thi hành chính sách
cấm đạo, bắt bớ giam tù, đánh
đập giáo dân, kể cả đàn ông, đàn
bà, trẻ con, th́ ngày nay qua
biến cố tại Tam Ṭa ngày 20 và
27-7-2009, công an Quảng B́nh
cũng lặp lại các hành vi như vậy
và c̣n được hỗ trợ thêm bằng các
phương tiện truyền thông để bào
chữa, biện minh cho việc làm của
ḿnh, rơ ràng là lịch sử đang
lặp lại và chỉ những người có
mắt mà không có con ngươi cỡ như
tiến sĩ “giấy” Nguyễn Hồng Dương
mới không thấy được sự thật mà
thôi.
Ngày trước, dưới thời các vua
nhà Nguyễn, trong các cuộc ruồng
bố t́m bắt người Công Giáo, việc
tịch thu các ảnh tượng, kinh
sách, áo lễ, là bằng chứng để
buộc tội các đạo trưởng như linh
mục, giám mục. Trong ngày
20-7-2009, công an Quảng B́nh
cũng đă tịch thu tượng thánh giá
do Đức Cha Vơ Đức Minh ở Nha
Trang tặng cho giáo xứ Tam Ṭa,
tịch thu các sách hát của ca
viên, máy phát điện cũng lều bạt
của giáo xứ. Trong ngày 27-7,
công an Quảng B́nh đă hung bạo
đánh đập hai linh mục Ngô Thế
Bính và Nguyễn Đ́nh Phú đến mang
trọng thương, đánh đập một số
giáo dân, đập găy tượng thánh
giá là một h́nh thức công khai
sĩ nhục, xúc phạm tôn giáo. Rơ
ràng là lịch sử đă lặp lại trong
một xă hội mà chính quyền luôn
luôn xoen xoét cái mồm là tôn
trọng tự do tôn giáo. Chủ nghĩa
Cộng Sản đă khẳng định rằng tôn
giáo và cộng sản không thể đội
trời chung xét cả lư thuyết lẫn
thực hành.
Ngày trước, dưới thời các vua
nhà Nguyễn, chính sách cấm đạo
được đưa ra nhưng được viện cớ
là do yêu cầu của các quan (thời
Minh Mạng) cùng lúc sử dụng
người bên lương làm đối trọng
chống giáo dân, cụ thể tại Quảng
B́nh, giáo xứ Sáo Bùn bị đốt phá
do dân làng Diêm Điền (đa số là
Phật giáo, đạo ông bà) ngày
24-6-1886. Các vua nhà Nguyễn đă
khích động hiềm thù lương giáo,
phá hoại t́nh đoàn kết dân tộc
rơ ràng là đă đưa đường chỉ lối,
tạo kinh nghiệm, tạo tiền lệ cho
công an tỉnh Quảng B́nh ngày nay
sử dụng đám người mà họ gọi là
“quần chúng tự phát” để tấn công,
đe dọa, phá phách giáo dân, đánh
trọng thương các linh mục. Đám
côn đồ giả dạng “quần chúng tự
phát” được công an bảo kê để ung
dung phạm tội ác th́ nào khác
chi đồng bào bên lương trước đây
được tự do hành động gây ra
nhiều cuộc đổ máu do sự làm ngơ
cho phép của nhà nước phong kiến
trong các biến cố bắt đạo, phá
đạo. Lịch sử há không phải đang
được lặp lại hay sao?
Ngày trước, dưới thời các vua
nhà Nguyễn, chính sách khủng bố
được nhà nước công khai sử dụng
như là những biện pháp hữu hiệu
nhằm triệt hạ đạo Công Giáo,
nhưng như lời giáo phụ
Tertullien đă nói “Máu tử đạo là
hạt giống sinh con nhà có đạo”.
Nhờ chính sách khủng bố Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam có 117 vị
thánh tử đạo và biết bao nhiêu
người kể được kể vào hàng các
bậc khả kính vô danh đă bỏ ḿnh
v́ đạo dưới h́nh thức này hay
h́nh thức khác. Trong cuộc đàn
áp của công an Quảng B́nh đối
với giáo dân Tam Ṭa, như đă
thấy và chắc c̣n diễn ra trong
tương lai, chính linh mục Vơ
Thanh Tâm, tổng đại diện Giáo
phận Vinh cho biết: “Nếu nổ
ra th́ nó trầm trọng lắm. Nó nổ
ra chúng tôi không biết có kiềm
chế được tiếng ḥa b́nh của
ḿnh. Nó uất ức quá cho nên nó
sẽ đánh nhau. Khi đă đánh nhau
rồi th́ bất chấp, sẵn ǵ đánh
nấy. Đánh th́ nhất định tổn
thương giáo dân, mà giáo dân
khẳng định không có đường nào
lên Thiên Đàng nhanh cho bằng tử
đạo. Nó khẳng định thế th́ tôi
thấy ghê lắm, tôi sợ lắm.”
(Vietcatholic ngày 28-7-2009).
Ngày trước, các vua chúa phong
kiến nhà Nguyễn thi hành chính
sách kỳ thị đối với người Công
giáo, gọi họ là “dữu dân” (dân
xấu như cỏ dại) để phân biệt với
“lương dân” (người tốt), giết
chóc, đày đọa họ, đối xử với họ
như thứ công dân hạng hai – đúng
như Mạnh Tử nói “ vua coi dân
như cỏ rác, th́ dân coi vua như
thù địch” - để khi đến t́nh
trạng nước gần mất vào tay người
Pháp, bị áp lực từ nhiều phía
mới nới rộng tay, tha đạo, tha
phân tháp th́ ngày nay chế độ
Cộng Sản sau hơn 6 thập kỷ cầm
quyền vẫn tiếp tục chính sách
coi các tôn giáo như thù địch,
dùng tôn giáo này để khống chế
tôn giáo kia, dùng bộ máy đàn áp
công an với mọi phương tiện hiện
đại như roi điện, chó nghiệp vụ,
thanh niên du đảng Hồ Chí Minh,
bọn nghiện ngập và xă hội đen
được khoác một mỹ từ là “quần
chúng tự phát” để dập tắt tiếng
nói đấu tranh cho Công lư và Sự
thật. Chính Kalinine đă từng
nói: “Chiến đấu bài tôn giáo
là phương thế cần thiết và tối
diệu để vạch đường cho Cộng
sản.”
Tuy nhiên, khi chủ nghĩa Cộng
Sản đă đi vào mồ chôn của chúng
tại Liên Xô và các nước Đông Âu
từ những năm cuối của thế kỷ 20,
kết quả của cuộc chiến “ai thắng
ai” đă tỏ rơ trên bàn cân lịch
sử. Néron của đế quốc La mă
trong thế kỷ I đă chết sau khi
phóng hỏa đốt thành La Mă rồi vu
cáo cho người Công Giáo là thủ
phạm để có cớ mà tàn sát, giết
hại những người theo Đức Kitô.
“Néron Việt Nam” là Minh Mạng
cũng đă chết sau thời gian dài
t́m mọi cách để tiêu diệt đạo
Công Giáo ở nước ta. Thiệu Trị
rồi Tự Đức nổi tiếng tàn ác
trong các kế hoạch tiêu diệt đạo
Chúa mà cao điểm là chính sách
phân tháp ngày nay chỉ c̣n để
lại nhiều vết nhơ trong lịch sử.
Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam đă
giết biết bao nhiêu giáo dân, tu
sĩ, linh mục, giám mục khi họ
lên cầm quyền năm 1945 cho đến
ngày nay nhưng đạo Công Giáo
được xây dựng trên Đá Tảng Phêrô
chắc chắn vẫn c̣n tồn tại với
thời gian. Giáo xứ Tam Ṭa là
chứng nhân lịch sử với tổ tiên
đă hiến máu đào trong các cuộc
bắt đạo thời chúa Nguyễn, Tây
Sơn và các vua nhà Nguyễn. Ngày
nay lịch sử đang tái diễn trên
đất thánh của giáo xứ Tam Ṭa
nhưng không phải là một lịch sử
bị che khuất dưới bóng đêm của
bạo lực mà được chứng kiến, theo
dơi, hiệp thông, chia xẻ bởi
Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ, Giáo
Hội Mẹ Việt Nam, Giáo Phận Vinh
và hàng triệu triệu con người
chân chính trên khắp thế giới.
Bóng đêm phải lùi bước trước ánh
sáng. Tà đạo phải nhường lối cho
chính nghĩa. Bàn tay của gian
trá và bạo lực đẫm máu phải bị
chặn lại. Chế độ bạo quyền Cộng
Sản không lâu nữa tất yếu sẽ bị
nghiền nát dưới bánh xe của lịch
sử. Ḍng máu lịch sử tử đạo đă
khơi nguồn tại giáo xứ Tam Ṭa
ngày 20 và 27-7-2009 chắc chắn
là hồi chuông cổ vũ vang rền cho
sức mạnh Công Lư, Sự Thật và Đức
Tin của người Công Giáo.
Hăy vững tin hỡi đàn chiên bé
nhỏ của giáo xứ Tam Ṭa, lịch sử
hơn hai ngh́n năm của Giáo Hội
đang nh́n về phía các bạn! Đừng
sợ!
August 4, 2009
Nguyễn Đức Cung
Nguồn: VietCatholic News