![]() ![]() ![]() ![]() ![]() Fax: +493046795841 ![]() ![]() www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Đỗ Kim Thêm
1. Vấn đề
Từ sự suy sụp kinh tế mà Liên Xô đă quyết định táo bạo đi theo con đường cải
cách và những thành tựu của Perestroika đă gây nhiều ấn tượng sâu xa và cũng là
mô h́nh cho Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi Mới. Một trong những thay đổi quan
trọng của Perestroika là du nhập khái niệm nhà nước pháp quyền (Rechtsstaatsbegriff)
của Đức. Khái niệm này là một học thuyết thuộc luật hiến pháp nhằm đề cao tính
cách tối thượng của luật pháp và hiến pháp mà chính nhà nước cũng phải tuân thủ.
Liên Xô đă vận dụng khái niệm này và dịch thành Pravovoe gosudarstvo
nhưng không cải biên.
V́ nhiều lư do khác nhau Việt Nam đă không trực tiếp học tập kinh nghiệm của Đức,
mà lại từ Liên Xô. Việt Nam hiện nay vẫn kiên định tiếp tục theo đuổi con đường
Xă Hội Chủ Nghĩa (XHCN), mà trên lư thuyết là xây dựng nhà nước chuyên chính vô
sản do giai cấp công nhân lănh đạo. Để đạt mục tiêu này Việt Nam sẽ tiếp tục đập
tan mọi thế lực thù địch, bảo vệ thành quả cách mạng và phát huy nền dân chủ
nhân dân nhằm tổ chức, quản lư và phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN. Do đó, pháp chế XHCN vẫn c̣n là một công cụ để Đảng xây dựng nhà
nước chuyên chính vô sản. Trong chiều hướng vận dụng khái niệm nhà nước pháp
quyền, Việt Nam lại cải biên nó thành nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghiă
(NNPQXHCN), điều mà Đức và Liên xô đều không có trong tư duy của họ. Đáng chú ư
hơn, khi giới thiệu khái niệm NNPQXHCN, Việt Nam đă mượn thuật ngữ Rule of
Law của Anh để diễn đạt, một khái niệm được h́nh thành trong một bối cảnh
văn hoá, lich sử và truyền thống luật pháp khác hẳn với Việt Nam hiện tại. T́m
hiểu khái niệm Rule of Law và kinh nghiệm của Anh có thể giúp ǵ cho Việt
Nam trong nỗ lực cải cách luật pháp, đặc biệt là luật hiến pháp, đó là chủ đề
của bài viết này.
2. Thuật ngữ
Khó khăn đầu tiên là việc dịch khái niệm Rule of Law cho chính xác trong tiếng Việt. Thật ra, các học giả ngoại quốc đều không chú trọng vấn đề dịch thuật ngữ. Bằng chứng là các sách giáo khoa Anh và Pháp ngữ đều giữ khái niệm Rechtsstaat của Đức mà không dịch, cũng như sách của Đức không t́m khái niệm tương đương cho Rule of Law của Anh hay État legal của Pháp mà chỉ diễn giăi để giúp người đọc nắm bắt vấn đề. V́ thấm nhuần văn hoá Á Đông, người Việt rất quen thuộc với khái niệm nhân trị, pháp trị và đức trị trong xă hội quân chủ, mà lối diễn đạt này lại c̣n không thích hợp trong một xă hội dân chủ, v́ chữ ‘trị’ phải được hiểu hoàn toàn khác biệt trong hoàn cảnh hiện nay. Về nguồn gốc th́ Rule of Law là một học thuyết trong luật học (legal doctrine), không phải là một quy định pháp luật (legal rule). Do đó, chúng ta có thể tạm dịch Rule of Law là tinh thần thượng tôn pháp luật, v́ luật pháp phải được tất cả tôn trọng, dù là Đảng, nhà nuớc hay dân chúng. Bài viết này, theo kinh nghiệm học giới phương Tây, đề nghị giữ nguyên khái niệm Rule of Law để thảo luận nội dung hơn là đi vào chi tiết của vấn đề thuật ngữ.
3. Truyền thống tôn trọng luật pháp
Albert Venn Dicey, nhà luật học Anh là người đầu tiên đă giới thiệu và triển
khai khái niệm Rule of Law trong tác phẩm Introduction to the Study of
the Law of Constitution of 1885. Trong tác phẩm này ông đă mô tả hệ
thống hiến pháp nước Anh và đề ra những nguyên tắc chung của luật hiến pháp. Cho
đến nay học giới đă xem đây là tác phẩm kinh điển cho việc nghiên cứu luật hiến
pháp nói chung và học thuyết Rule of Law nói riêng. Nói như thế không có
nghĩa là xác định rằng Rule of Law được h́nh thành vào thế kỷ XIX mà thật
ra nó đă có một lịch sử lâu đời. Do đó cần phải t́m xem khái niệm này h́nh thành
từ lúc nào.
Ư kiến thứ nhất
của nhiều học giả đều đồng ư rằng lịch sử về chủ thuyết hiến định tại Anh
(English constitutionalism) là khởi điểm cho khái niệm Rule of Law.
Dù là một khái niệm bất thành văn nhưng nó đă được thể hiện qua các văn kiện
luật pháp làm nền tảng cho luật hiến pháp tại Anh. Các văn kiện này là Magna
Charta, Petition of Rights, Bill of Rights và Habeas Corpus mà ở đây
không thể đi vào chi tiết.
Nh́n lại lịch sử Anh thời xưa ai cũng công nhận Anh một xă hội phân chia giai
cấp rơ rệt và xung đột giai cấp là chuyện hiển nhiên mà hoàng gia, quư tộc, tu
sĩ và địa chủ là những tầng lớp có nhiều ưu quyển. Đặc điểm chính này đă có ngay
từ thế kỷ XIII. Dù sống trong thể chế quân chủ các học giả nhận ra đưọc vai tṛ
của pháp luật làm nền tảng: tự do và b́nh đẳng của nguời dân trước pháp luật và
toà án, tất cả đều bị ràng buộc bởi luật pháp, kể cả nhà vua. Câu nói của Henry
de Bracton là một bằng chứng luôn được trưng dẫn: “Nhà vua không bị ràng buộc
bởi dân chúng, mà bởi thượng đế và luật pháp, chính v́ luật pháp tạo ra nhà
vua”. Một ư tuởng khác của William Edward Hearn cũng có nội dung tương tự. Ông
nói: “Gió mưa có thể vào được mái tranh của nguời dân nghèo, nhưng không hề vào
đuợc thâm cung của hoàng gia, nhưng bất kỳ ngựi dân Anh nào, dù thường dân hay
quư tộc vẫn bị ràng buộc bởi pháp luật và b́nh đẳng trước toà án”. Niềm tin vào
luật pháp cũng được Sir Edward Coke minh chứng. Ông nói: “Luật pháp là một thâm
cung kín đáo nhất và cũng là một pḥng thủ mạnh nhất để bảo vệ nguời cô thế”.
Đây là những ư niệm chính mà sau này Ducey triển khai.
Nhưng sự biến đổi xă hội từ thế kỷ XVII đă làm thay đổi nhiều mối quan hệ trước
đây, đặc biệt khi giai cấp thương nhân ra đời, họ trở nên giàu có và bắt đầu
muốn có thế lực. Những cải cách pháp lư đă giúp cho giớí này có tiếng nói mạnh
hơn chống lại địa chủ và các giai cấp khác, mà quyền tư hữu, quyền chuyển nhượng
tài sản, quyền thừa kế và tự do kết ước là những thành tựu lớn nhất trong thời
kỳ này. Những pháp luật bảo vệ người dân trước ṭa án được h́nh thành rơ rệt.
Người dân Anh dù bất kỳ thành phần giai cấp nào cũng được luật pháp bảo vệ. Các
sử gia hănh diện cho rằng nước Anh là một vương quốc của luật pháp và công b́nh.
Từ đó khái niệm Rule of Law ra đời trong khuôn khổ của một nền tự do kiểu
nước Anh (the liberty of the English). Sự hănh diện này có lư do của nó.
Các học giả đă chứng minh rằng từ thế kỷ XVII nước Anh hầu như không c̣n có việc
tra tấn trong các cuộc điều tra h́nh sự và hệ thống ṭa án hoàn toàn độc lập với
cơ quan hành pháp. Nguyên tắc phân quyền này đă giới hạn sự chuyên quyền của cơ
quan hành pháp. Đáng kể nhất là niềm tin của dân chúng vào các hoạt động của ṭa
án, ngựi dân Anh tự hào được sinh ra trong môi trường tự do, mà hai quyền cơ
bản lúc bây giờ là tự do lập hội và tự do báo chí. C̣n tự do tôn giáo thực ra
chỉ có mức độ giới hạ
Đến thế kỷ XVIII th́ khái niệm Rule of Law đă phổ biến khi hệ thống luật
pháp của Anh đă đi vào nề nếp, nhất là khi hệ thống chính quyền dựa vào chủ
thuyết hiến định làm cơ sở nhắm vào việc bảo vệ quyền lợi người dân, một khởi
điểm cho sự phát triển dân chủ theo mô h́nh của phương Tây. Những người tranh
đấu chống lại bất công giai cấp trong xă hội, những người bất đồng quan điểm về
tôn giáo hay chính trị đều có quyền sử dụng những quyền tranh đấu của ḿnh,
quyền này được bảo đảm trong khuôn khổ luật hiến pháp.
Ư kiến thứ hai
của các nhiều học giả cho rằng chính yếu tố văn hoá vào thế kỷ XVIII là thành tố
quan trọng giúp cho khái niệm Rule of Law được phát triển
và
ư thức về vai tṛ luật pháp làm nền tảng cho việc tổ chức xă hội. Từ đó, luật
pháp trở thành một giá trị có một sức mạnh vô h́nh đặc biệt, dĩ nhiên nó không
phải là sức mạnh như quân đội, không cần dựa vào huyền thoại của tôn giáo, không
nhờ sự cuỡng chế về kinh tế, mà chính tinh thần t́m hiểu về công lư và yêu
chuộng hoà b́nh làm căn bản cho tinh thần thượng tôn pháp luật. Một hănh diện
khác mà luật giới Anh luôn đề cập khi bàn về Rule of Law là vai tṛ của
bộ h́nh luật. H́nh luật Anh rất hữu hiệu nên giúp cho xă hội Anh ổn định mà
không cần đến cảnh sát hay quân đội để lo chuyện trị an. So với các quốc gia
khác tại châu Âu trong cùng thời kỳ, th́ bộ h́nh luật của Anh là một mẫu mực,
đặc biệt là về phần luật thủ tục tố tụng. Thí dụ như nuớc Pháp lúc bấy giờ vẫn
có chế độ mật chỉ (lettre de cachet), có nghĩa là bắt người không theo thủ tục
và giam người vô thời hạn mà không cần quy kết một tội danh nào. Nói như thế
không có nghĩa là h́nh luật tại Anh rất khoan dung, mà phải hiểu là những tiêu
chuẩn quy định về thủ tục cũng như kết án khá rơ rệt ngăn ngừa được mọi sự
chuyên đoán của cơ quan hành pháp hay những quyết định quá nghiêm khắc của ṭa
án. Nó đem đến một niềm tin cho người dân một cảm tưởng về sự an toàn pháp lư.
Lịch sử cho thấy nước Anh không phải là đất nước luôn có sự đồng thuận đầy lư
tưởng mà sự tranh chấp quyền lợi theo giai cấp đă gây ra bao xung đột thường
xuyên trong xă hội. Hoàng gia, quốc hội hay địa chủ luôn t́m cách bảo vệ quyền
lợi của giai cấp ḿnh thông qua việc áp dụng luật pháp. Trong khi nghiên cứu
cách giải quyết tranh chấp trong xă hội các học giả đều cho rằng luật pháp chưa
hề bị bẻ gẫy để phục vụ cho bất kỳ một giai cấp nào trong suốt thời kỳ từ thế kỷ
XVI đến XVIII. Chính luật pháp đă bảo vệ tài sản của người dân tránh được sự lạm
quyền của hoàng gia và sự kiêu căng của giới quư tộc.
Dĩ nhiên, không phải bất cứ lúc nào luật pháp cũng đem lại công b́nh tuyệt đối,
nhưng ít nhất sự công b́nh trong mọi thủ tục pháp lư cũng đem đến cảm tưởng là
ngựi dân không bị coi là nạn nhân của bạo quyền. Giai cấp thống trị và đặc
quyền đặc lợi trong xă hội thường t́m cách hợp pháp hoá các quyền lợi của ḿnh
và t́m cách ngăn ngừa những thế lực khác phân chia việc sử dụng những ưu quyền
này. Nhưng luật pháp đem lại một giá trị mới cho mọi ngựi dân Anh là họ có thể
hănh diện nói rằng ḿnh có quyền hưởng tự do từ thuở lọt ḷng (right of free
borm Englishman). Edward P.Thompson đă nhắc lại ư niệm này khi cho rằng nhà cầm
quyền, dù muốn hay không, khi tham gia vào tṛ chơi quyền lực, cho dù họ cố giữ
sao cho luật pháp phù hợp với quyền lợi của giai cấp của họ, nhưng điều quan
trọng là họ không thể bẻ gẫy luật pháp hay hủy bỏ luật chơi. Sir Edward Coke
cũng diễn đạt tương tự khi ông nói rằng không phải chỉ có gia cấp thống trị sử
dụng luật pháp nhằm ngăn chống mọi thứ hành sử bạo lực, (thí dụ như giam ngựi
vô cớ, sử dụng quân đội để trấn áp đám đông, tra tấn và các phương tiện bất công
khác), mà chính luật pháp tự nó, trong chừng mực nào đó, là phương cách để giải
quyết các vấn đề xung đột giai cấp.
Thực tế cho thấy luật pháp của Anh qua hệ thống common law được h́nh
thành là do cả một quá tŕnh dài của lịch sử. Với hệ thống án lệ chặt chẽ và
những luận giải phân minh, khó mà bất cứ ai, nhân danh bất kỳ lư do ǵ, để có
thể phá huỷ luật pháp một cách dễ dàng. Tranh chấp về luật đất đai hay luật bảo
vệ tài sản là một thí dụ. Trước đây luật bảo vệ tài sản không quy định chặt chẻ,
định nghĩa không rơ ràng, sau này đă được sửa đổi phù hợp và đưa vào áp dụng.
Các tranh chấp luật pháp đều dựa trên những luật pháp thành văn do quốc hội
thông qua và luật phong tục được chuẩn nhận. Do đó, mọi tranh chấp luật pháp
trưóc ṭa án đều được thủ tục hoá rất cao độ, dĩ nhiên phí tổn cho thủ tục toà
án trở nên quá đắt và vấn đề thủ tục hợp pháp trước toà án chính là điều khó
khăn chủ yếu. Tranh tụng về quyền sở hữu đất đai đôi khi lại trở thành vấn đề
tranh chấp thuần về luật thủ tục trước ṭa án.
Ư kiến thứ ba
giải thích rằng chính Rule of Law đă đóng một vai tṛ quan trọng trong
việc hoà nhập các giai cấp trong xă hội Anh và giúp dân Anh thoát ra các cuộc
khủng hoảng sau khi cách mạng Pháp thành công. Điển h́nh là sư xung đột xă hội
vào đầu thế kỷ XIX. Bất công xă hội lan rộng, giai cấp thống trị đă có ư định
hủy bỏ khái niệm Rule of Law và thay đổi hiến pháp nhắm áp đặt một cơ chế
cai trị chuyên quyền bằng bạo lực. Họ đă bắt đầu đi theo chiều hướng này. Nhưng
cuối cùng họ đành phải từ bỏ ư định mà trở về con đựng hợp pháp v́ thấy rằng
không thể làm tiêu tan uy tín của chính quyền và làm lu mờ h́nh ảnh chính danh
của luật pháp đă h́nh thành trong quá khứ. Cải cách về bầu cử và mở rộng việc
thăm ḍ dư luận vào năm 1832 đă làm cho thanh danh của pháp luật và uy tín của
nhà nước được hồi sinh. Chính luật cải cách năm 1832 đă đem lại giá trị cho luật
pháp v́ đó là một phương tiện nhằm giới hạn mọi xung đột chính trị và xă hội, và
đặc biệt hệ thống tư pháp được củng cố.
Tóm lại, Rule of Law la một thành tựu về văn hoá và lich sử trong cả một
quá tŕnh dài trên 300 năm mà kết quả là tất cả moị tranh chấp quyền lợi của mọi
tầng lớp hoàng gia, quư tộc, điạ chủ, tá điền, công đoàn và thương giới đều được
giải quyết bằng phương tiện luật pháp. Luật pháp là một sân chơi b́nh đẳng mà
chính ngựi cô thế trong xă hội cũng chấp nhận (fair play in the Rule of
Law).
4. Nội dung học
thuyết Rule of Law của Dicey
Dù Rule of Law là một khái niệm được h́nh thành và chấp nhận trong xă hội
Anh qua chiều dài của lịch sử nhưng măi đến cuối thế kỷ XIX vẫn chưa có môt học
giả nào đưa ra một ư nghĩa chính xác về Rule of Law. Thực tế th́ cũng
chưa có ai xác định tầm quan trọng của chủ thuyết hiến định tại Anh và đặt vấn
đề t́m hiểu tại sao hệ thống luật tại Anh có khả năng duy tŕ được trật tự công
cộng và quyền tự do cá nhân trong xă hội. Dicey chính là người đầu tiên làm công
việc này trong tác phẩm Introduction to the Study of the Law of the
Constitution of 1885. Đây là một công tŕnh mà giá trị của nó cho măi đến
nay không nhà nghiên cứu nào có thể vượt qua và vẫn luôn là một đề tài được học
giới đem ra để thảo luận.
Những luận điểm của Dicey đề ra đă chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng của John
Austin. John Austin cho rằng để nhà nước được tiếp tục duy tŕ, nhà nước cần có
một cơ quan tối thượng mà quyền lực khó có thể định nghĩa trước một cách chính
xác và không thể nào giới hạn được. Khái niệm này được chấp nhận dễ dàng trong
công luận, bởi v́ nội dung khái niệm quyền tối thượng này chỉ hầu như lập lại
những nguyên tắc hợp hiến đă có trước đây. Một trong những thành tựu xuất sắc
của Dicey là tổng hợp và diễn đạt lại những ư tưởng của John Austin và luận
cương chính trị của đảng Tự Do (Whig). Dicey cho rằng chính Rule of Law
và quyền tối thượng của quốc hội làm nguyên tắc nền tảng của hiến pháp Anh. Tổng
hợp hai luận điểm này, Dicey cho là khái niệm Rule of Law không có khả
năng giới hạn quyền lực của toàn bộ guồng máy nhà nước mà chỉ giới hạn quyền lực
của chính phủ. Lập luận này cho thấy khái niệm Rule of Law của Dicey rất
gần với khái niệm Rechtsstaat của Đức, cũng được h́nh thành trong cùng
thời kỳ. Rule of Law được coi như là một mô h́nh tốt đẹp nhất nhằm bảo vệ
ngựi dân chống lại những hành vi chuyên đoán của nhà nước. Nội dung của Rule
of Law mà Dicey đề ra có thể được tóm luợc qua những nguyên tăc cơ bản như
sau
Nguyên tắc thứ nhất là quyền tối thượng của quốc hội
được ông tŕnh bày trong phần đầu trong tác phẩm. Quốc hội có thể làm luật hay
hủy bỏ luật, không một cơ quan hay một cá nhân nào có quyền bỏ thẩm quyền này
của quốc hội. Thẩm quyền của quốc hội là tuyệt đối, v́ mọi thay đổi th́ chỉ gây
hậu quả là làm cho quyền này trở nên tương đối mà thôi. Chính ṭa án cũng phải
tôn trọng nguyên tắc này. Ư tưởng này rất gần gũi với luận thuyết của John
Austin. Trong khi đó, tại các quốc gia khác ở châu Âu lại có khuynh hướng chia
luật ra làm hai loại: luật hiến pháp làm nền tảng và các loại luật khác. Ông cho
rằng sự phân biệt này chỉ dựa trên tiêu chuẩn h́nh thức hoặc thủ tục lập pháp.
Luật hiến pháp tại Anh không hề đi sâu vào việc phân biệt quyền này. Nhưng ông
lại phân biệt quyền tối thượng của quốc hội là thuộc về luật pháp chứ không liên
hệ tới quyền tối thượng về chính trị, v́ quyền chính trị thuộc về lănh vực bầu
cử mà nhà lập pháp hoàn toàn lệ thuộc vào việc kiểm soát chính trị qua các cuộc
bầu cử.
Nguyên tắc thứ hai là quyền tự do của cá nhân phải là một quyền hiến định,
một quyền mà ông cho là nội dung chính của khái niệm Rule of Law. Thật ra
trước đây tự do cá nhân cũng đă được quy định trong các văn bản khác thí dụ như
Habeas Corpus Writs. Nhưng trong tác phẩm này, ông thảo luận khá chi tiết
trong phần tự do hội họp, tư do ngôn luận và xác nhận tính cách tối thượng của
Rule of Law làm nền tảng cho trật tự hiến định của Anh. Theo ông, quyền
tự do cá nhân có ba khía cạnh chủ yếu:
Khía cạnh thứ nhất là tinh cách hợp pháp của mọi hành vi,
nghĩa là không ai có thể bị trừng phạt nếu không phạm pháp. Việc phạm pháp phải
được ṭa án điều tra và kết án theo đúng thủ tục. Nguyên tắc này nhằm tránh mọi
sự lạm quyền và chuyên đoán không dựa trên cơ sở pháp luật của cơ quan chấp
pháp. Chính sự công nhận chủ thuyết tự do và đưa chủ thuyết này vào làm nội dung
của hiến pháp là một đóng góp quan trọng của ông. Rule of Law trở thành
một nguyên tắc lập pháp, mà ư chính là mọi hành vi của chính phủ nhằm giới hạn
vào quyền tự do cá nhân và tài sản đều phải dựa trên luật hiến pháp.
Khía cạnh thứ hai đề cao nguyên tắc b́nh đẳng trưóc ṭa án.
Luật pháp được áp dụng cho tất cả mọi người không phân biệt thành phần, giai cấp
hay tŕnh độ. Đây là nguyên tắc đồng nhất dành cho mọi chủ thể pháp luật. Ông
chú ư đến vai tṛ của ṭa án trong xét xử. Khi đề cao Rule of Law như là
một đặc điểm của Anh, th́ không phải chỉ có ư là không một ai có quyền đứng trên
luật pháp mà phải hiểu rằng bất kỳ ngườ́ dân nào, bất kể là thành phần nào trong
xă hội, đều bị ràng buộc bởi pháp luật và chịu sự xét xử của ṭa án trong thẩm
quyền luật định. Thật ra, qua đề xuất này ông đă gián tiếp chỉ trích về sự lạm
quyền của các công chức trong việc áp dụng luật hành chánh. Chính nguyên tắc
b́nh đẳng trước pháp luật tạo khả năng loại trừ mọi tham quyền cố vị, không tôn
trọng luật pháp, đặc biệt là những ngoại lệ trong luật hành chánh. Ông lấy luật
hành chánh của Pháp làm thí dụ. Luật này đă tạo quá nhiều ngoại lệ khiến cho các
công chức dễ lạm quyền, khi có vấn đề th́ họ chỉ chịu trách nhiệm truớc toà án
hành chánh và thoát ra khỏi được sự kiểm soát của hệ thống pháp luật chung. Ông
cho rằng không nên cho các công chức quá nhiều ưu quyền được miễn truy cứu trách
nhiệm khi so với ngựi dân khác. Dĩ nhiên, đây là một đề tài tranh luận về sự
khác biệt nội dung luật hành chánh tại Pháp và Anh. Nhưng với nguyên tắc b́nh
đẳng trước pháp luật theo khái niệm Rule of Law của Anh th́ ngựi dân
Anh, theo ông, sẽ được hưởng nhiều an toàn về mặt pháp lư hơn người dân Pháp.
Ông cho rằng câu nói toà án là cơ quan tối thượng cho cả nước không thể áp dụng
cho trường hợp của Pháp.
Khía cạnh thứ ba là nguyên tắc quyền tự do người dân phải đưọc toà án bảo vệ.
Sự bảo vệ này không phải bắt nguồn từ hiến pháp mà c̣n qua các án lệ ṭa án. Đây
là một sư kiện lịch sử, nó biểu hiện một truyền thống đặc thù về commom law
và hiến pháp Anh. Một câu nói khá quen thuộc và luôn luôn được lập lại để mô tả
đặc tính hiến pháp của Anh: ”Hiến pháp không được làm sẵn mà h́nh thành do sự
phát triển”. Ông đả phá quan điểm cho rằng chính phủ nước Anh là một sự phát
sinh đột biến trong xă hội đầy xung đột mà thật ra là sự phát triển tiệm tiến
qua ư chí và năng lực của con nguời. Pháp luật là một sản phẩm của ư chí của con
người, không giống như cây cỏ chỉ vun trồng và tự nó lớn lên. Ư ông muốn nói giá
trị của luật hiến pháp không thể phát triển tự nhiên, mơ hồ và không định hướng
mà chính vai tṛ án lệ giúp cho tự do của người dân Anh được bảo vệ. Thành quả
này phải kể đến sự góp sức của ṭa án. Nếu quan điểm bảo vệ tự do này được hiến
pháp các quốc gia châu Âu đề ra như một nguyên tắc, th́ tại Anh, theo ông, ngược
lại, chính là một phương thức thực hành, một hệ quả của quyền tự do cá nhân được
ṭa án minh thị và áp dụng. Phương cách áp dụng này cho thấy rằng không nên xem
hiến pháp Anh là một sự đột biến đầy sáng tạo mà là kết quả của một hoạt động
b́nh thường trong toà án thông qua án lệ.
Dicey lạc quan cho rằng các án lệ đều hoàn hảo và hiến pháp Anh sẽ diễn biến tốt
đẹp trong chiều hướng này. Để minh chứng, ông nêu lên sự khác biệt về nguồn gốc
của hiến pháp Anh và các quốc gia châu Âu. Khác hẳn với châu Âu, toà án tại Anh
đă một thành tố quan trọng trong tiến tŕnh lập pháp, chính toà án là nơi chuẩn
nhận những quyền căn bản của ngựi dân trong trong hệ thống common law.
Dĩ nhiên, quốc hội và ṭa án, với chức năng khác nhau, đều có đóng góp của riêng
ḿnh trong sự phát triển này. Học giới châu Âu thường chỉ trích điểm yếu của
hiến pháp Anh là không thành văn bản, nên về mặt h́nh thức th́ những quyền tự do
cá nhân không được coi là do hiến pháp quy định. Dicey lập luận rằng sự ch́
trích này thiếu cơ sở. Thật ra, sự bảo vệ quyền căn bản của ngựi dân, dù không
minh thị qua một văn kiện cao nhất là hiện pháp, đă được tổng quát hoá qua những
quyết định của toà án. Sự khác biệt này, theo ông, chỉ là về mặt nguồn gốc lập
pháp và h́nh thức mà thôi, nhưng trên thực tế cho thấy th́ sự hữu hiệu về bảo vệ
quyền của ngựi dân, dù ở Anh hay ở các nước khác tại châu Âu, đều giống nhau.
Giá trị của những nguyên tắc hiến định, theo ông, không phải chỉ là những tuyên
bố long trọng, mà là kết quả từ sự thực hành trong toà án. Không có hiến pháp
thành văn không có nghĩa là người dân Anh sẽ gặp khó khăn hơn trong việc bảo vệ
quyền của ḿnh.
Mối quan hệ giữa việc bảo vệ quyền cá nhân và hiến pháp tại Anh hoàn toàn khác
biệt với các quốc gia châu Au, v́ tại Anh, quy định quyền tự do bởi nhiều văn
kiện khác nhau, thí dụ như Habeas Corpus và hệ thống án lệ. Hầu hết hiến
pháp các quốc gia châu Âu chú trọng việc định nghĩa quyền cá nhân và quan tâm
nhu cầu bảo vệ quyền này, trong khi toà án Anh đề ra một khuôn khổ để áp dụng
các quyền này theo hệ thống hiến định. Hiến pháp các nước trong châu Âu quy định
quyền cá nhân trong hiến pháp, nhưng sự thực ra chỉ là một sự diễn dịch từ
nguyên tắc chung trong hiến pháp, mà khi cần thiết phải thay đổi hiến pháp th́
lại rất khó khăn, v́ c̣n có vai tṛ của quốc hội trong việc tu chỉnh. Lịch sử
chứng minh rằng tại Anh quyền tự do cá nhân được đảm bảo tốt hơn nếu so với các
quốc gia châu Âu v́ lẽ toà án Anh với hệ thống án lệ nghiêm minh đă bảo vệ chặt
chẽ các quyền này. Do đó, tất cả vấn đề bảo vệ quyền căn bản hiến định đều
giống nhau. Ở Anh quyền tự do cá nhân đưọc công luận và học giới cảm nhận là một
phần trong luật thông thường hơn là luật hiến pháp. Dicey xác nhận hiến pháp
được quy định trên nền tảng của Rule of Law và quyền tối thượng của quốc
hội. Do đó, việc tạo thành hay hủy bỏ luật hiến pháp không phải là kết quả của
một thành quả cách mạng.
5. Những phản biện về học thuyết của Dicbr
Học thuyết của Dicey đă gây được tiếng vang trong học giới, nhưng không có nghĩa
là đă được sự đồng thuận, mà ngược lại, gây ra nhiều tranh luận.
Một trong những người phản bác đầu tiên phải kể đến là August Friedrick von
Hyek. Ông cho rằng không hề có sự phù hợp giữa hai khái niệm Rule of Law
và quyền tối thượng của quốc hội như Dicey giải thích v́ lịch sử của chủ thuyết
hiến định cũng như lịch sử về chủ thuyết tự do là cả một cuộc đấu tranh chống
quyền tối thượng và nhà nước toàn năng. Do đó, nên đặt ra một giới hạn thẩm
quyền của quốc hội, nếu không, th́ quyền hạn và tự do của ngựi dân dù thông qua
hệ thống common law cũng có thể bị quốc hội hủy diệt trong một sớm một
chiều.
Georffrey De Q. Walker cho rằng quyền tối thượng của quốc hội cũng không phải là
một trong những nguyên tắc chính của hiến pháp Anh. Dicey đem lại nhiều mơ hồ
trong học thuyết hơn là khai sáng vấn đề v́ không thể giảm bớt nội dung của
Rule of Law vào việc luật pháp chỉ là chuyện chấp nhận luật (rule of
recognition). Khi giải thích Rule of Law, Dicey đề cao vai tṛ của
quốc hội và coi quốc hội như là nguồn gốc tối hậu của mọi quyền hành và thoát
khỏi những cưỡng chế về mặt luật pháp. Nếu theo chiều hướng giải thích này, mọi
luật lệ khác đều mất đi ít nhiều giá trị. Khi cho rằng mọi hành vi của quốc hội
hầu như luôn luôn được ṭa án chuẩn nhận là đúng, điều này nên nghi ng ờ.
Dicey không hề cứu xét đến những hậu quả pháp lư hay những uớc vọng chính đáng
của cá nhân. Theo luận điểm này, Dicey đă đề cao quá mức quyền tối thượng của
quốc hội, đồng thời làm suy yếu việc bảo vệ quyền cá nhân.
Có học giả khác lại phê b́nh việc kết hợp hai nguyên tắc Rule of Law và
quyền tối thượng của quốc hội là một sai lầm v́ lẽ không những gây s ự
tương phản trong áp dụng, gây tác hại cho toàn bộ mô h́nh hiến pháp, mà c̣n làm
cho luật hiến pháp Anh không c̣n là nền tảng chắc chắn. Ư kiến phản biện quy vào
điểm chủ yếu là việc Dicey chỉ dựa vào luận thuyết của Austin để triển khai. Một
mặt, Dicey cổ vũ cho quốc hội được quyền tối thượng trong sinh hoạt lập pháp,
mặt khác, Dicey lại muốn đấu tranh cho tự do cá nhân thoát bỏ mọi chuyên chế
theo mô h́nh của Hobbes. Tác phẩm của Dicey nên được coi như là một khởi thảo
cho một mô h́nh của luật hiến pháp và Rule of Law chỉ là một khuôn mẫu
chỉ có giá trị nội tại giá trị được định h́nh và phát triển trong hệ thống của
common law. Do đó, Rule of Law, tự nó, chỉ là một khâu hiệu vô
nghĩa, và nội dung của nó cũng chỉ là một trong những đặc điểm của luật hiến
pháp
Ư kiến khác lại cho rằng luận thuyết của Diecey chỉ là một sản phẩm phản ánh
những suy nghĩ trong bối cảnh văn hoá và chính trị lúc bây giờ. Lư do thứ nhất
để giải thích là vào cuối thế kỷ XIX những xung đột trong hệ thống common law
và luận thuyết Austin đang ở thời kỳ cao điểm, mà Austin ch́ chú trọng vào những
hoạt động lập pháp. Lư do thứ hai là một phần thuyết này lại bắt nguồn từ luận
cương của Đảng Whig đang thắng cử từ năm 1866 cho đến 1884, hiển nhiên việc
thắng cử làm vai tṛ của quốc hội được nâng cao. Tác phẩm của Dicey, xuất phát
từ trong bối cảnh đó, đă trở thành một tiêu chuẩn để giải thích cho mô h́nh hiến
pháp cho măi đến sau khi đệ nhị thế chiến.
6. Những biện luận bảo vệ của Dicey
Hiền nhiên, Dicey rất hănh diện truyền thống luật pháp Anh trên hai b́nh diện lư
thuyết và lịch sử, điều này có thể hiểu được khi ông đánh giá về sự phát triển
luật hiến pháp Anh. Để trả lời những phản biện, Dicey cho rằng mối quan hệ giữa
Rule of Law và quyền tối thượng của quốc hội không phải là mối quan hệ tự
động mà chỉ h́nh thành và phát triển được ở Anh mà thôi. Ông lấy mô h́nh hiến
pháp của Pháp để so sánh. Quốc hội Pháp và quốc hội Anh, về cơ bản th́ giống
nhau về quyền lực, nhưng khi hành sử th́ quốc hội Pháp đă biểu thị một tinh thần
hoàn toàn khác biệt. Quốc hội Pháp, nói chung, có khuynh hướng can thiệp quá
nhiều vào các vào các hoạt động hành chánh và không tin về sự độc lập của tư
pháp. Mặt khác, quốc hội Pháp cũng nới tay để cho hành pháp trong việc cai trị.
Ngoài ra, c̣n có sự khác biệt về thái độ của quốc hội Anh và Pháp trong mối quan
hệ với công chức hành chánh. Công chức Anh mang tinh thần phục vụ hoàng gia
nhiều hơn, cho dù quyền lực của quốc hội có tăng lên trong thực tế. Tinh thần
phục vụ hoàng gia cũng một phần là do là một truyền thống lịch sử và một phần v́
giới công chức Anh cũng luôn có nghi ngờ đối với quốc hội. Dù ở cương vị quyền
tối thượng, quốc hội Anh không can thiệp trực tiếp vào việc áp dụng luật pháp và
không chủ trương cho các công chức hành chánh có quá nhiều quyền băi miễn truy
cứu khi ra toà án. Điều này th́ Anh trái hẳn với Pháp.
Mối quan hệ giữa hoàng gia, quốc hội, chính quyền và tư pháp tại Anh không luôn
luôn tốt đẹp mà là các xung đột và các thỏa hiệp, mà việc toà án và quốc hội
liên minh để chống lại hoàng gia là một chứng minh. Việc này thuờng xảy ra, mà
căng thẳng nhất là vào thế kỷ XVII và cao điểm nhất từ thế kỷ XVIII trở đi, liên
hiệp quốc hội và ṭa án đă thắng thế và có nhiều thuận lợi hơn trong việc định
h́nh cho lu ật
pháp. Dicey cho rằng chính những biến cố này cho thấy quốc hội có khuynh hướng
bảo vệ sự độc lâp của toà án, trong khi đó hoàng gia lại nỗ lực bảo đảm phương
tiện cho hành pháp thi hành nhiệm vụ của họ. Diễn biến của t́nh h́nh này khiến
cho quốc hội, dù có vai tṛ tối thượng, nhưng chỉ có thể hành sử được quyền này
khi liên minh được với ṭa án. Mối quan hệ này trở thành lịch sử và định h́nh
cho khái niệm của Rule of Law như ông đă đề cập.
Một điểm khác gây tranh luận là sự so sánh giữa Rule of Law và nguyên tắc
hợp pháp. Dicey trả lời rằng Rule of Law không thể bảo đảm tuyệt đối các
quyền cơ bản của ngựi dân mà chỉ t́m cách nhằm chống lại sự lạm quyền của chính
quyền. Khi so sánh các quốc gia châu Âu trong thế kỷ XVII, Dicey cho rằng nh́n
chung các nước không hề có đàn áp một cách thô bạo, nhưng thực tế cho thấy không
có nước nào có thể bảo vệ ngựi dân một cách hoàn hảo trước bạo quyền. Nhưng ở
nước Anh th́ việc cai trị không xuất phát từ sự thành tâm cố hữu của chính quyền
mà là từ nguyên tắc hợp pháp của luật pháp. Rule of Law không trực tiếp
đem lại một định nghĩa chính xác nào cho quyền tự do của người dân mà chỉ nhằm
giới hạn vào mục tiêu bảo đảm về những an toàn của luật pháp và những tiên đoán
về hành vi của chính quyền. Tự do được bảo đảm trong khuôn khổ của Rule of
Law chỉ là một loại tự do c̣n sót lại trong hệ thống: tự do làm những ǵ mà
luật pháp không cấm. Rule of Law không dựa vào các tuyên bố long trọng
nhằm bảo vệ quyền cơ bản cho người dân mà căn cứ vào nguyên tắc hợp pháp. Trong
khi quốc hội có thể hủy bỏ các quyền cơ bản của người dân được quy định trong
hiến pháp khi cần, th́ chính Rule of Law với nguyên tắc hợp pháp sẽ chống
lại sự lạm quyền của hành pháp, cho dù Rule of Law không thể bảo đảm tự
do tuyệt đối cho người dân trong việc hành xử các tự do của họ. Theo ông, đấy
chính là một nguyên tắc mà mọi can thiệp vào đời sống, tự do và tài sản phải
được cho phép bởi luật pháp.
Dicey cho rằng quốc hội làm luật chỉ là việc để đưa ra các ư chí chung của nhà
lập pháp, nhưng khi giải quyết vấn đề tranh chấp th́ chủ yếu phải là việc nâng
cao vai tṛ của tư pháp. Việc hiến pháp có nên giới hạn quyền của quốc hội hay
không, ông không coi đó là điều quá quan trọng, mà theo ông, mỗi khi luật được
ban hành đều phải được cơ quan hành chánh áp dụng đúng đắn và được cơ quan tư
pháp theo dơi. Những nguyên tắc cơ bản của hiến pháp Anh không chỉ là quyền tối
thượng của quốc hội mà chính là làm sao mà khi luật ban hành được toà án áp dụng
theo đúng như quy định. Rule of Law và quyền tối thượng của quốc hội
không có khả năng loại trừ nhau mà có ảnh hưởng cộng sinh.Trong tinh thần này,
pháp luật sẽ được duy tŕ và phát triển.
Dicey c̣n đề cao vai tṛ của ṭa án trong việc điển chế hoá hệ thống án lệ,
chính toà án là một thành lũy bảo vệ tự do cá nhân. Toà án không thể hủy diệt
luật của quốc hội, mà trong thực tế toà sẽ áp dụng nghiêm nhặt hay thông thoáng
hơn khi cần thiết. Chính ṭa án là nơi bảo vệ quyền căn bản của người dân được
hữu hiệu nhất. Đó là ư chính của Dicey đ ể
minh chứng rằng hai nguyên tăc quyền tối thượng của quốc hội và vai tṛ ṭa án
bổ sung cho nhau trong việc bảo vệ người dân.
Sự thành công của Dicey trong tác phẩm này là một sư tổng hợp giữa hai khuynh
hướng về hệ thống common law và truyền thống của chủ nghĩa tự do, làm hồi
sinh lại huyền thoại về common law, những giá trị luật pháp cổ truyền
khác và các căn bản giá trị của chủ thuyết tự do. Trong khuôn khổ giải thích
này, Dicey khẳng định rằng sự vi phạm những quyền hiến định có thể xảy tại nước
Anh, nhưng không thể xáo trộn đến mức độ đưa tới một cuộc cách mạng triệt để làm
thay đổi toàn bộ hệ thống luật pháp.
Dicey đă lấy việc áp dụng luật Habeas Corpus luận giải vấn đề này. Luật
Habeas Corpus được ban hành lần đầu tiên vào thời của Charles II, nhằm
bảo vệ những ngựi bị bắt giam vô cớ. Luật này đưọc tu chỉnh dưới thời George
III và nới rộng hơn việc bảo vệ liên quan đến thủ tục tố tụng h́nh sự. Ṭa án có
quyền yêu cầu cơ quan chấp pháp làm rơ việc giam người và làm nhanh thủ tục xét
xử. Dicey cho rằng việc áp dụng luật Hebeas Corpus của toà án đă tăng giá
trị cho luật hiến pháp hơn là quốc hội. Nhưng thực tế cho thấy đây là điều không
dễ dàng. Trong thời kỳ hỗn loạn chánh trị, việc bắt người nghi ngờ phạm pháp của
cơ quan chấp pháp tăng nhanh. Việc sốt sắng này gây cho toà án nhiều ngờ vực nên
đă áp dụng luật chặt chẽ hơn. Tranh chấp đă xảy ra đến mức quốc hội phải can
thiệp bằng cách ra luật đ́nh chỉ việc thi hành luật Habeas Corpus để giúp
cho chính quyền làm tốt hơn việc trị an, nhất là liên hệ tới các vụ việc vi phạm
an ninh, phản quốc ở mức trầm trọng. Vấn đề là t́m cách giải thích thế nào là
tính cách khẩn cấp và gây nguy hại cho an ninh quốc gia, trong chừng mực nào th́
quyền an toàn của người dân phải được bảo vệ. Đây cũng là một đề tài tranh luận
quen thuộc trong học giới mà ở bất cứ nuớc nào cũng có. Việc đ́nh chỉ thi hành
luật không được phép hiểu là hợp pháp hoá mọi hành vi bắt người trái phép, nhưng
giới hạn việc can thiệp của toà án trong thời kỳ biến động và đem lại niềm tin
cho các cơ quan chấp pháp trong khi thi hành công vụ, nhưng lại cho thấy đây
chính là sự biểu hiện quyền tối thượng của quốc hội.
Theo Dicey, quốc hội có quyền theo dơi các hoạt động của ṭa án, nếu không, th́
quyền tối thượng của quốc hội sẽ không c̣n ư nghĩa. Khi quốc hội ra các đạo luật
đ́nh chỉ thi hành luật Habeas Corp th́ cũng phải theo đúng thủ tục pháp
định. Việc đ́nh chỉ không phải là những bảo vệ hiến định về quyền công dân trong
các thủ tục về tố tục h́nh sự hoàn toàn vô giá trị, mà thực tế toà án vẫn tiếp
tục bảo vệ an toàn cho ngựi dân trong các thủ tục xét xử và chỉ làm giảm đi
những hậu quả về mặt bảo vệ nhất thời trong t́nh h́nh an ninh nguy kịch. Dicey
cho rằng ṭa án không thể áp dụng luật quá cứng nhắc mà không chú trọng đến khía
cạnh an nguy của đất nước và xem đây là những ngoại lệ.
bổ sung cho nhau. Quyền tối thượng giúp cho Rule of Law định h́nh và phát
triển và ngược lại chính Rule of Law đ̣i hỏi quốc hội cũng phải theo đúng
nguyên tắc hợp pháp. Điểm chủ yếu mà ông luôn theo đuổi là đă phá vai tṛ của
toà án hành chánh và các quyền băi miễn truy cứu cho công chức. Theo ông, đây là
một một mối nguy cơ trong hệ thống pháp luật, nằm ngoài phạm vi bảo đảm của
common law cũng như ư chí của nhà lập pháp.
7. So sánh giữa
hai khái niệm Rule of Law và Rechtsstaat
Khái niệm Rechtsstaat là một kết quả mà các học giả Đức đă tiếp thu từ
các học thuyết của Locke, Rousseau và Montesquieu rồi vận dụng vào hoàn cảnh của
Đức sau thời kỳ khai sáng. Quan tâm chủ yếu của học giới Đức vào cuối thế kỷ
XVIII là cho dù ư chí của nhà lập pháp trong việc bảo vệ quyền tự do của người
dân có mạnh đến đâu, th́ nó cũng không đủ để việc áp dụng được hữu hiệu hơn. Một
lư do khác là một trật tự nhằm bảo đảm tự do không thể chỉ dựa trên quyền tối
thượng của quốc hội, chính v́ lẽ quốc hội có khả năng và ư chí hủy diệt quyền
này khi cần.Từ giữa thế kỷ XIX các học giả Đức như Lorenz von Stein và Otto Bähr
đă tổng hợp các khái niệm của Hobbes và Montesqiueu để định h́nh cho vai tṛ của
nhà nước mà quan trọng nhất là họ đă vận dụng thành công nguyên tắc tam quyền
phân lập. Thành quả này làm cho các vai tṛ bộ máy nhà nước được xác minh.
Từ cuối thế kỷ XIX khái niệm Rechtsstaat thể hiện rơ hơn trước v́ nguyên
tắc hợp pháp không những áp dụng cho cơ quan tư pháp trong việc xét xử, mà c̣n
cho các cơ quan hành chánh. Về sau, Rodolf von Jhreing với học thuyết nhà nước
tự giới hạn và Georg Jellinik với học thuyết về tố quyền của người dân như là
một chủ thể pháp luật đă bổ sung làm cho giá trị Rechtsstaat được gia
tăng. Dĩ nhiên, ư thức tôn trọng luật pháp của dân chúng và những yếu tố văn hoá
và lịch sử đă làm thuyết này được áp dụng thành công.
Về cơ bản, Rule of Law không quá cách biệt với Rechtsstaat trong
việc xác định quyền của tự do cùa người dân là một quyền hiến định. Trong một
nhà nước hiện đại th́ các khái niệm luật pháp đều mang tính phổ quát, h́nh thức,
hợp lư và hợp pháp trong sư kết hợp với chủ thuyết tự do cá nhân được quy định
trong hiến pháp. Nhưng làm sao dung hoà được sự bảo vệ quyền tự do với quyền lực
của nhà nước và vai tṛ quốc hội, đó là ở điểm khác biệt.
Việc áp dụng Rule of Law có phần khác với Rechtsstaat. Dicey không
công nhận luận thuyết của Montesqiueu về tam quyền phân lập và sự tùy thuộc của
quốc hội vào hiến pháp là phù hợp với Anh, nhưng theo ông, Rule of Law
phải dựa vào nguyên tắc hợp pháp và có trách nhiệm theo dơi sự lạm quyền của
hành pháp. Đây là điểm tương đồng của cả hai. Nhưng điểm dị biệt là Rule of
Law và quyền tối thượng quốc hội bổ sung cho nhau trong việc bảo vệ tự do và
Rule of Law được hữu hiệu hay không nhờ vai tṛ toà án. Đó là sự khác
biệt giữa Dicey, Montesquieu và Rousseau. Theo Dicey, luận thuyết của
Montesquieu và Rousseau không thuyết phục v́ quan điểm về một nền tư pháp độc
lập là một điều trái ngược truyền thống Anh. Ông không tin vào vai tṛ trung
dung của toà án mà toà án chỉ là một phương cách thực hành ư chí của nhà lập
pháp.
Kinh nghiệm cho thấy việc áp dụng luật pháp không thể coi là máy móc, nhưng nhờ
có một hệ thông án lệ hoàn chỉnh của common law giúp cho việc bảo vệ
ngựi dân được tốt hơn. Nguyên tắc của Rule of Law chỉ là một khởi đầu
trong tiến tŕnh dài để phát huy dân chủ. Nhưng đâu là sự chính thống của luật
pháp? Sự chính thống này không phải là hiển nhiên mà có, cũng không phải v́ quốc
hội Anh có tính chất dân chủ mà có. Theo Dicey, vấn đề tùy thuộc vào mức độ áp
dụng luật pháp tại toà án. Chính ṭa án xét nguyên tắc hợp pháp của luật pháp,
lúc đó mới xác định được là luật pháp có dân chủ và chính thống hay không. Đặc
điểm này chỉ có được trong truyền thống của common law.
Rechtsstaat
mang tham vọng sâu xa hơn khi đề cao tố quyền của người dân trong trường hợp
chính quyền vi phạm vào các quyền tự do cơ bản và chú trọng về luật nội dung hơn
là luật thủ tục. Sau chiến tranh kết thúc, nhiều học giả Đức lại càng lư tư ởng
hoá vấn đề hơn, khi có ư định mở rộng phạm vi áp dụng tố quyền của người dân
trong các vấn đề an sinh xă hội.
8.
Kinh nghiệm cho Việt Nam?
Không ai có thể phủ nhận công lao của Dicey khi đem lại một nội dung cho Rule
of Law, mặc dù công tŕnh không hoàn hảo, v́ thiếu luận cứ triết học vững
chắc và không phân biệt rơ giữa lư thuyết về hiến pháp và những khía cạnh thuộc
về định chế. Dicey lập luận rằng toà án phải áp dụng nguyên tắc hiến định khi
xét xử, nhưng ông không chú tâm đúng mức tới vấn đề giới hạn quyền lực của chính
phủ và quốc hội. Thật ra, ông đă có ư đề cao hệ thống pháp luật của Anh khi so
sánh với các quốc gia dân chủ phương Tây khác cùng thời kỳ. Tuy nhiên, để đánh
giá sự thành tựu khái niệm Rule of Law đúng đắn hơn, vai tṛ của văn hóa
và giáo dục trong việc nâng cao tŕnh độ ư thức của ngựi dân là những đóng góp
đang kể làm cho khái niệm Rule of Law có được như ngày nay.
Việt Nam có thể học kinh nghiệm nào của Anh? V́ tŕnh độ phát triển, hoàn cảnh
lịch sử và xă hội và nhất là truyền thống pháp luật giữa Anh và Việt hoàn toàn
khác biệt, nên mọi đối chiếu đều không có cơ sở. Tuy nhiên, có thể nêu lên một
vài nhận xét tổng quát để làm tiền đề cho các công tŕnh nghiên cứu toàn diện
hơn sau này.
Hoàng gia trong chế độ quân chủ lập hiến Anh là một định chế lịch sử, không do
bầu cử, mà do thừa kế nhưng sự trị v́ được người dân luôn tôn kính. Xung đột của
hoàng gia với các giai cấp khác thường xảy ra và đều được giải quyết tốt đẹp
bằng luật pháp, bởi v́ hoàng gia vẫn luôn tự đặt ḿnh trong khuôn khổ của luật
pháp. Lịch sử của nước Anh cho thấy luật pháp chưa hề bị bẻ găy để phục vụ cho
một giai cấp nào, kể cả hoàng gia. Đây là điểm son của Anh mà Việt Nam cần so
sánh với vai tṛ của Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay.
Đảng cũng là một định chế lịch sử v́ đă đem lại độc lập cho dân tộc và đang độc
quyền lănh đạo đất nước nhưng không do dân chúng bầu cử trực tiếp. Vai tṛ Đảng
đang và sẽ ở đâu trong hệ thống luật pháp, vấn đề c̣n tranh luận mà ở đây không
thể đi vào chi tiết. Nhưng Đảng có nên theo gương hoàng gia Anh hay không, đây
là vấn đề cũng cần thảo luận.
Quốc hội Anh và Việt giống nhau ở điễm cả hai đều có quyền tối thượng nhưng kỹ
năng của các dân biểu và nghị sĩ Anh làm cho công tác lập pháp hữu hiệu. Họ là
luật gia chuyên nghiệp, làm việc toàn thời gian. Thêm vào đó, cơ quan truyền
thông, đoàn thể áp lực và công luận theo dơi hoạt động nên quốc hội có màu sắc
dân chủ hơn dù là thể chế quân chủ.
Ngược lại, quốc hội Việt Nam h́nh thành qua cơ chế Đảng cử dân bầu nên mang tính
h́nh thức. Hoạt động lập pháp không hữu hiệu mà nguyên nhân chính là do vấn đề
đại biểu kiêm nhiệm, đây là một đặc thù của Việt Nam cần cải tổ. Đại biểu có
những lư do chính đáng để không hoàn thành nhiệm vụ của ḿnh: không đủ th́ giờ
và không đủ năng lực trưóc các vấn đề quá chuyên môn (luật ngân sách, luật biển,
luật quốc tế, luật WTO v.v.) Họ trở nên thụ động v́ c̣n phải lo tập huấn nghiêp
vụ hoặc chờ văn bản chỉ đạo của Đảng. Gần đây vấn đề quyền chất vấn của quốc hội
có gây nhiêu tiếng vang tích cực, nhưng đây chỉ là những bức xúc trước những vấn
đề nhạy cảm của đất nước, tạo ra những phản biện cần thiết trong xă hội, nhưng
không v́ thế mà kỷ năng lập pháp sẽ được nâng cao.
Nếu toà án Anh đem lại niềm tin cho người cô thế, th́ một hệ thống toà án độc
lập và hữu hiệu tại Việt Nam vẫn c̣n là một điều mơ ước, v́ bản án bỏ túi trước
khi xét xử là một thông lệ ngay trong những vụ kiện quan trọng. Thí dụ gần đây
cho thấy thời gian nghị án cho tội tuyên truyền chống lại nhà nước XHCN chỉ mất
có 27 phút, trong khi thời gian tuyên đọc bản án hơn 50 phút. Toà án công nhiên
sai phạm luật thủ tục tố tụng h́nh sự và điều ngạc nhiên là không ai phản ứng.
Cơ quan hành pháp Anh gặp khó khăn trong việc thi hành pháp luật, v́ có nhiều
sức ép từ nhiều phiá: đảng đối lập, báo chí, nghiệp đoàn, dân chúng và doanh
giới. Họ luôn theo dơi các hoạt động công quyền và nhạy bén trước những biến
chuyển chính trị, nhất là khi quyền lợi của giới ḿnh bị đe doạ thay đổi. Mọi
nghi ngờ về vi phạm pháp luật đều được phát hiện nhanh, nên việc từ chức của các
bộ trưởng xảy ra thựng xuyên.
Ngược lại, hành pháp Việt Nam nhiều thuận lợi hơn v́ không có các khó khăn tương
tự, sức mạnh của doanh giới chưa thành h́nh mà chỉ có tư bản thân tộc vây quanh;
mọi sai phạm cũng khó phát hiện v́ hệ thống bao che hữu hiệu, báo chí luôn im
lặng và dân chúng th́ lại quá thờ ơ v́ muốn yên thân. Một thí dụ cho thấy Chủ
tịch nước có công văn chỉ đạo cho ngành ṭa án về việc nâng cao chất lượng xét
xử và Thủ tướng yêu cầu luật sư đoàn phải quản lư và giám sát các hoạt động của
luật sư đoàn địa phương. Ở Việt Nam không ai coi đây là sự vi phạm tam quyền
phân lập mà là sự nhắc nhở trong tinh thần phân công nội bộ do Đảng giao phó.
Dân chúng Anh hănh diện về truyền thống lịch sử và văn hóa của đất nước và đặc
biệt là được sống trong tự do, có niềm tin vào sự an toàn của luật pháp. Việt
Nam cũng có truyền thống anh hùng, hănh diện về độc lập dân tộc nhưng ngựi dân
hiện nay không có được hưởng sự an toàn trong hệ thống giao thông nên chưa thể
mơ ước như ngụi dân Anh (right of free borm Englishman).
Việc h́nh thành học thuyết, dù bất kỳ ở nước nào, phải kể đến công lao của học
giới. Những công tŕnh nghiên cứu về nhà nước pháp quyền tại Pháp, Đức hay Anh
được h́nh thành trong một môi trường học thuật tự do và khai phá. Học giới là
thành phần ưu tú của xă hội, có viễn kiến, dám đột phá tư duy, có tinh thần độc
lập dám đề xuất cũng như bảo vệ những luận điểm của ḿnh và không lo sợ áp lực
nào. Châu Âu đă tạo nên điều kiện cho học giới phát huy tài năng và đóng góp
những công tŕnh đáng trân trọng. Học giới Việt Nam, trong hoàn cảnh hiện nay,
chưa được những thuận lợi này. Trong thực tế đă có nỗ lực trong âm thầm, nhưng
họ không thể phát triển kỹ năng như mơ ước v́ thiếu đăi ngộ tương xưng. Thậm chí
những buổi tọa đàm khoa học, một sinh hoạt b́nh thường trong học giới, c̣n bị
ngăn trở v́ các đề tài nhạy cảm cho chính giới, họ cũng không có cơ hội phát
biểu tại diễn đàn nước ngoài v́ không phải là đảng viên. Có lập luận lại bi quan
hơn cho là Việt Nam đang thiếu trầm trọng những nhà văn hóa và tư tưởng tầm vóc
có khả năng theo kịp bước đi của thời đại và
đóng góp cho công cuộc xây dựng đât nước. Do đó, luật giới cũng không thoát ra
được quy luật này.
Nhưng có lập luận lại lạc quan hơn cho luật giới là Việt Nam đang có cơ hội tiếp
thu những thành tựu khoa học mới nhờ làm việc với các luật gia nước ngoài qua
các chương tŕnh cải cách luật pháp do các định chế quốc tế tài trợ, nhưng họ
bị áp lực nặng nề về ngân sách, thời gian và mục tiêu, nên họ có thể làm một số
vấn đề thuần túy chuyên môn trong các lănh vực về luật kinh tế thị trường, nhưng
không thể giúp được về việc triển khai học thuyêt NNPQXHCN, một lănh vực mà
chính họ không có kinh nghiệm và nhà tài trợ cũng không cho phép. Học giới Liên
Xô, một bạn đuờng trong công tác tư tưởng của Việt Nam, cũng đă không khai triển
khái niệm này, nên v́ thế Việt Nam cũng không nên trông đợi ǵ từ di sản lư
thuyết này. Như vậy chỉ c̣n lại Việt Nam trong nỗ lực này. Kinh nghiệm Anh cho
thây đây là công việc lâu dài phải do do học giả người Việt đảm nhận, v́ yếu tố
văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ và phong tục Việt Nam cũng quan trọng không kém.
Khái niệm về NHPQXHCH chỉ ở vào giai đoạn khởi thảo, nên không thể nhận xét là
nó sẽ h́nh thành ra sao và sẽ đóng góp ǵ cho tương lai của đất nước. Trong điều
kiện này, chúng ta tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi và hy vọng rằng những công tŕnh
tầm vóc của học giới nguời Việt sẽ ra đời mà chúng ta sẽ tự hào có thể so sánh
vơi Albert Venn Dicey của Anh, Raymond Carré de Malberg của Pháp và Robert von
Mohl của Đức. Sự lạc quan này có cơ sở của nó, v́ theo một thăm ḍ dư luận đầu
năm 2011 của cơ quan BVA Pháp và Gallup Poll quốc tế có trụ sở tại Washington D.
C. Việt Nam là dân tộc lạc quan nhất thế giới. Đây có lẽ là món quà chung cho
những ai đang tự sung sướng với chính ḿnh nhưng lại là một hy vọng mơ hồ cho
những ngựi c̣n ưu tư thời cuộc.
Đỗ Kim Thêm
(Tác giả chân thành cám ơn sự hợp tác qúy báo của Dr. Trương Hồng Quang
(Berlin) trong việc biên tập lại bài viết