Fax: +493046795841 Email: thongtinberlin@gmail.com Tel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Tim hiểu khái niệm về một cuộc chiến có chính nghĩa
Monique Canto-Sperber
Đỗ Kim Thêm dịch
Tác giả: Monique Canto-Sperber là giáo sư triết học người Pháp, làm việc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học (Centre Nationale de la Recherche Scientifique). Bà là thành viên trong Ủy ban Quốc Gia về Đạo đức (Comité National de l´Éthique) và Giám đốc L’École normale supérieure từ 2005. Các tác phẩm chủ yếu là Le Bien, La Guerre et la Terreur, Paris, Plon 2005; Faut-il sauver le libéralisme ?, cùng viết chung với Nicolas Tenzer, Paris, 2006 và Le Libéralisme et la gauche, Hachette Littératures 2008.
Tác phẩm:Le Bien, La Guerre et la Terreur đưa ra vấn đề là khủng bố ngày càng lan rộng và sẽ c̣n gây nhiều nguy hiểm cho nhân loại. Các chính quyền cũng như các tổ chức quốc tế và các tôn giáo dường như không đủ khả năng giải quyết vấn đề. Trước hiện t́nh quốc tế, có quan niệm bi quan cho rằng trong tuơng lai một thế giới đại đồng với một nền hoà b́nh vĩnh cửu sẽ không bao giờ đạt được và chiến tranh là tai họa cũng không tránh khỏi. Nhưng làm sao chúng ta có thể t́m ra những phương sách chính trị, đạo đức và tri thức để đối phó vấn đề. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần bàn đến tương quan giữa đạo đức quốc tế và cuộc chiến tương lai. Đâu là cơ sở đạo lư cho cuộc chiến, thế nào là một cuộc chiến v́ chính nghĩa là một đề tài được thảo luận trong giới trí thức tại Pháp. Trong bối cảnh này, Monique Canto-Sperber đă đề ra một lư thuyết mới về một cuộc chiến v́ chính nghĩa trong cuốn sách này.
Bản dịch Việt ngữ sau đây là một đoạn trích trong tác phẩm Le Bien, La Guerre et la Terreur, được tạp chí Esprit đăng lại trong số tháng hai 2005, trang 204 -212 nhằm giới thiệu hai quan điểm của hai thuyết chủ hoà và chủ chiến trong quá khứ. Phái chủ hoà cho rằng chiến tranh là điều vô đạo đức, không thể chấp nhận được, trong khi phái chủ chiến nghĩ là không có chuyện đạo đức trong chiến tranh, tất cả mọi chuyện đều được phép. Nhưng cả hai thuyết chủ hoà lẫn chủ chiến sẽ không là những quan điểm thuyết phục dùng để suy luận về những giới hạn của bạo lực trong hoàn cảnh hiện nay (Lời người dịch)
----------
Vấn đề đạo lư chiến
tranh đă được đặt ra từ thời thượng cổ và thường được đặt tên dưới dạng học thuyết
chiến tranh có chính nghĩa. Khái niệm này từ lâu đă là nguồn cung cấp những lập
luận để sử dụng vũ lực. Khi suy lư về căn gốc của vấn đề người ta tin rằng có thể
thảo luận được ư niệm chính nghĩa trong hai khía cạnh: mục tiêu chiến tranh và
phương tiện sử dụng. Khái niệm về chiến tranh v́ chính nghĩa thường quan hệ chặt
chẽ với một nền đạo lư khả chấp cho việc sử dụng bạo lực.
Khái niệm này đưa ra hai vấn đề: một mặt, trong một vài trường hợp nào đó, có những
lập luận cho rằng chiến tranh là chính đáng; chiến tranh, do đó, có thể biện
minh được về mặt đạo đức (Jus ad bellum, quyền gây chiến); mặt khác, nó
đưa ra một phương cách đúng đắn trong chiến tranh (jus in bello, quyền
trong chiến tranh).
Ư tưởng liên hệ đến suy tư về đạo lư của chiến tranh không hề coi chiến tranh
như là chuyện đương nhiên. Trái lại, đối với những người bảo vệ cho lư tuởng của
một cuộc chiến v́ chính nghĩa th́ chiến tranh là một điều ác, nhưng lại là điều
ít ác hơn, thông thường người ta không tránh được và không thể kết án nó một
cách dễ dàng. Chiến tranh v́ chính nghĩa vừa là một điều ác, nhưng cũng vừa là một
phương tiện để chữa trị điều ác. Nhưng tư duy về một cuộc chiến có chính nghĩa
có thể giúp chúng ta giải quyết được sự căng thẳng giữa hai nghiă vụ: nghiă vụ
thứ nhất có ư tiêu cực, đó là chúng ta không nên làm những điều ác với ư đồ, và
nghiă vụ thứ hai có ư tích cực, đó là chúng ta cần phải hành động để tránh điều
ác xảy ra hay có thể phát triển xấu hơn. Nó cũng giải quyết sự căng thẳng bằng
cách đề ra những giới hạn về lập luận cổ vũ cho chiến tranh trong những mục tiêu
kỳ lạ cũng như những phương tiện sử dụng: tại sao lại là lập luận này mà không
phải là lập luận kia, thời điểm này mà không phải là thời điểm trước kia, bằng
phương cách này mà không phải là một phương cách khác v.v. Trong lối diễn đạt
„chiến tranh v́ chính nghiă“ th́ sự đề cập đến từ “chính nghiă” hàm chứa một đ̣i
hỏi trước tiên về một điều phân biệt giữa những cách lập luận và tiến hành chiến
tranh.
Chiến tranh có chính nghĩa theo quan điểm phái chủ hoà
Khái niệm về chiến tranh có chính nghĩa đề cập đến tính đạo đức giữa hai phái chủ
hoà và chủ chiến. Phái chủ hoà luôn cho rằng chiến tranh là điều vô đạo, không
thể chấp nhận được, trong khi phái chủ chiến tuyên bố rằng không có chuyện đạo đức
trong chiến tranh, tất cả mọi chuyện đều được phép. Những người theo cả hai phái
cùng gặp nhau trong trong một niềm tin chung: khi súng đạn lên tiếng th́ không
c̣n chính nghĩa. Nhưng họ đă rút hai hai kết luận đối nghịch nhau. Đối với phe
chủ hoà th́ tất cả mọi cuộc chiến tranh đều không có chính nghĩa, không bao giờ
nên gây chiến, đối với phe chủ chiến th́ không có một cuộc chiến nào là v́ chính
nghĩa hay phi chính nghĩa, chiến tranh là chiến tranh thế thôi. Khái niệm chính
nghĩa gây sự đối kháng lẫn nhau.
Những người ủng hộ cho chiến tranh v́ chính nghĩa không phải là những người chủ
hoà. Người chủ hoà thường xem chiến tranh không bao giờ là điều tốt đẹp, nói
khác đi, chiến tranh là một điều ác cần từ bỏ trong tất cả mọi trường hợp. Theo
họ, lời cảnh báo đơn thuần xem chiến tranh là ǵ cũng đủ biện minh cho việc kết
án chiến tranh. Chiến tranh đồng nghiă với chết chóc và phá hoại. Người khác lại
coi chiến tranh như một kẻ thù, v́ bạo lực tràn lan khắp nơi với nhiều vi phạm đủ
mọi h́nh thái[1]. Chiến tranh đưa tới những vi phạm buộc ta phải luôn giấu kín, cho dù ta muốn
điều tốt đẹp đi nữa. Phe chủ hoà không chịu thảo luận về những lợi điểm cho chiến
tranh mang lại hoặc so sánh những điều tệ hại do cuộc chiến gây ra và những tệ hại
có thể tránh được. Do đó, những nhận xét về chính nghĩa hay tiết giảm các phương
tiện gây chiến đối với họ có vẻ là vô vọng. Không hề có chính nghĩa cũng không hề
có một phương cách đúng đắn nào trong việc gây chiến. Trên nguyên tắc, tất cả mọi
cuộc chiến đều là xấu xa và gây tội ác. Chiến tranh có chính nghĩa cũng chỉ là một
cuộc chiến tranh mà thôi.
Lập luận thứ hai của phe chủ hoà đưa ra dựa trên một niềm tin cho là chiến tranh
không hề cải thiện được t́nh h́nh thế giới. Bạo lực không đưa tới điều thiện, bởi
v́ bạo lực chỉ gây tác hại thêm những ǵ mà nó tạo ra. Những cuộc nội chiến đă để
lại những bạo lực mang sắc thái địa phương qua những mặt nạ mang danh hoà giải
như là một loại di sản. Những cuộc chiến nhằm bảo vệ dân chúng, cho dù có những
hậu quả có lợi đi nữa, chỉ xây dựng bạo lực một cách lâu dài.
Phe chủ hoà đưa ra một phán đoán về một giá trị (chiến tranh là một điều ác), dựa
trên một niềm tin (chiến tranh chỉ gây ra điều ác) và một điều cấm đoán (không
nên gây chiến). Họ thể hiện một trạng thái tâm linh đối diện với cuộc đời. Họ
xác nhận rằng thế giới này là xấu xa, nhưng từ chối sử dụng bạo lực để cải thiện
thế giới hoặc ngăn chận thế giới thành địa ngục. Một thái độ như thế không hẳn
đưa tới một sự thụ động một cách tất yếu. Thái độ này có thể kết hợp với những
phương thức hành động hữu hiệu như đă minh chứng qua vô số những phong trào động
viên dân chúng chủ hoà[2].
Dù với những dấn thân đầy cao thượng, tuy vậy, phe chủ hoà có quan điểm sai lầm
và thiếu mạch lạc. Họ sai lầm khi cho rằng chiến tranh luôn luôn là điều xấu xa
nhất. Trong trường hợp bị tấn công hay những đe doạ nghiêm trọng tới sinh mạng của
ḿnh hay người khác, th́ sự tự bảo vệ ḿnh không phải là một điều xấu hơn là để
bị giết chết, và nhất là người khác bị giết chết trước mặt ḿnh. Trên nguyên tắc,
lên án mọi hành vi bạo lực về mặt đạo đức, những hành vi có thể tiêu diệt hoặc
tàn sát người khác, đó chính là việc thẩm định về giá trị đạo đức của con ngựi
trước một khả năng có nên từ bỏ bạo lực hay không. Nhưng nếu tôi bị giết chết rồi,
th́ tôi không c̣n cơ hội hành động về đạo đức nữa. Hậu quả của việc này là tôi
không c̣n khả năng quyết định tự vệ nữa. Có phải chăng cái giá mà tôi phải trả
cho một quan điểm đạo đức như thế mà người ta buộc tôi phải tuân thủ, chính là
làm mất đi một phương tiện hành động nhằm tự bảo vệ, nó tương phản những điều
người ta quy định. Nếu cho rằng thà mất tất cả những khả năng hành động trong
tinh thần bất bạo động, vẫn hơn là hành động tự vệ bằng bạo lực, đây là một lập
luận không thuyết phục.
Mặt khác, lịch sử đă minh chứng một số trường hợp khác: một nền hoà b́nh dài lâu
đạt được sau khi chiến tranh kết liễu, khi mà việc hoà giải có kết quả, ngay cả
khi cần đến những cấu trúc giả tạo về mặt pháp lư và giải quyết được các vấn đề
thuộc về hoài niệm quá khứ. Việc công bố đại xá tại Nhă Điển vào năm 403 trước
Công nguyên nhằm chấm dứt nội chiến giữa hai phe độc tài và dân chủ là một thí dụ.
Từ đó, người ta phải kể đến nhiều thí dụ khác về sự tái lập hoà b́nh[3]. Nếu chủ trương rằng chiến tranh luôn luôn chỉ gây thêm bạo lực và chết chóc, lập
luận này không chính xác lắm.
Sau rốt, phe chủ hoà dường như có một quan điểm miễn cưỡng trong t́nh h́nh thế
giới hiện nay. Trên nguyên tắc, việc chống đối một cuộc chiến tranh xâm lược là
một quan điểm dễ dăi về mặt đạo đức. Khi một cuộc chiến tranh như thế xảy ra,
th́ sự đồng thuận để kết án và trừng phạt khá phổ biến, như trong trường hợp
Iraq tấn công Kuwait. Những cuộc chiến loại này không phải là một đề tài phức tạp
về đạo đức, nhưng trong mọi trường hợp th́ nó hầu như đă không c̣n nữa trong thế
giới Tây phương. Nhưng bù lại, đă có những cuộc chiến đặt ra những trường hợp
đáng nghi ngờ về mặt đạo đức. Đôi khi có những cuộc chiến mà động cơ thúc đẩy là
nhằm cứu văn trươc những thiên tai v́ lư do nhân đạo. Đó là những cuộc chiến mà
các nước này phải giết một phần dân chúng của ḿnh, hoặc bị xâu xé v́ nội chiến
hay v́ dung chứa các tên khủng bố. Trong các h́nh thái chiến tranh này, nếu ta
không can thiệp hay từ bỏ tiến hành chiến tranh v́ lư do chiến tranh là điều ác,
th́ rơ ràng ta để cái ác phát triển thêm và t́nh h́nh sẽ tồi tệ hơn, hoặc là chỉ
làm cho thiện và ác lẫn lộn. Điều ác tạo ra một sự can thiệp, sự can thiệp này lại
tạo ra tàn sát hay nội chiến, tất cả đều liên hệ nhau, v́ luôn luôn có khổ đau
và chết chóc. Phe chủ hoà hiện nay dù lập lờ trước mọi h́nh thái can thiệp có vũ
trang, lại mặc thị chấp nhận điều này. Trong khi họ kêu gào: “Không được phép
can thiệp, không dùng bạo lực thêm nữa trước bạo lực“ họ nghĩ rằng hai loại bạo
lực này giống nhau. Với khẩu hiệu này họ giả đ̣ không biết đến việc cầu cứu bạo
lực khi cần có thể gây tác dụng làm giảm đi bạo lực lan tràn.
Trong khi phê phán phe chủ hoà về mặt đạo đức, ta không thể tự giới hạn ca ngợi
các nghị quyết về việc không vi phạm các bạo hành. Ta cũng cần phải nhận xét về
những giá trị đạo đức của việc từ bỏ hành động, bỏ qua sự can thiệp và từ chối
giúp đỡ. Khi người ta giết hại lẫn nhau, tôi sẽ không làm ǵ hết ngoài chuyện kết
án điều này là ác. Ta cũng biết một câu nói nổi tiếng của Peguy về những người
Công giáo: „Họ có những bàn tay tinh khiết, nhưng họ không có bàn tay.“ Có rất
nhiều t́nh huống mà bất bạo động không phải là một sự chọn lựa đạo đức. Đó chính
là lư do tại sao mà ngay cả giá trị đạo đức của phái chủ hoà là điều đáng tranh
luận[4].
Thực ra, thuyết chủ hoà ở một vị thế không vững trong bối cảnh quốc tế. Thế giới
đều đồng ư rằng chiến tranh là một điều ác và chỉ gây ra tai hoạ. Nhưng nếu xác
quyết rằng chiến tranh luôn luôn là một điều ác cùng cực th́ quả là một điều phi
lư. Phần đông những người hiện nay tự cho ḿnh là chủ hoà cũng chỉ là những người
c̣n sót lại trong số những người chủ hoà theo quan điểm cổ truyền. Khi họ thú nhận
ngoài môi rằng nếu chiến tranh là một điều không tránh được, th́ nó là một điều
ác lại có thể chấp nhận được. Họ chỉ uớc đoán rằng trong đa số t́nh h́nh thực tế
có những điều kiện làm cho chiến tranh có thể chấp nhận được lại không hội đủ.
Trong những biện pháp mà họ cân nhắc là không loại trừ trên nguyên tắc những điều
kiện như thế xảy ra. Họ không là những người theo phái chủ hoà theo ư nghĩa
nghiêm chỉnh nhất, đúng hơn, họ là môn đệ của một khái niệm rất giới hạn về một
cuộc chiến tranh v́ chính nghĩa
[5].
C̣n những người tự nhận là chủ hoà v́ họ cổ vũ các giải pháp bằng thương thuyết,
bằng đường lối ngoại giao hoặc bằng cách cần phải thử nghiệm tất cả mọi phương
thức cho phép tránh được chiến tranh, th́ họ cũng chẳng phải là những người chủ
hoà hơn những ngựi khác Nhằm tránh chiến tranh, tất cả chúng ta ai cũng mong uớc
đạt đến một giải pháp bằng hoà ước. Nhưng điểm khác là ở chỗ đối với một người
chủ hoà chân chính th́ phương cách ngoại giao nhằm tóm tắt những ǵ có thể thực
thi được, trong khi một người không chủ hoà lại cho rằng giải pháp ngoại giao có
hữu hiệu hay không, việc này c̣n tùy thuộc vào khả năng áp dụng bạo lực hay đe
doạ dùng bạo lưc. Một người chủ hoà chân chính phải lo đối đầu toàn diện với một
chính sách ngăn ngừa, nhưng thật ra phải hành động bằng cách đe doạ là sẽ gây
chiến tranh như thật nhằm tránh chiến tranh. Lịch sử đă cho chúng ta nhiều thí dụ
mà sự đe doạ chiến tranh là một phương thức duy nhất không gây ra chiến tranh. Vấn
đề duy nhất nhằm phân biệt giữa người chủ hoà và ngựi không chủ hoà là t́m hiểu
xem họ phải làm ǵ trong khi giải pháp thương thuyết thất bại: tiếp tục thương
thuyết khi không c̣n ai để đàm phán hay chỉ cầu cứu đến vũ lực?
Cũng nên xem phe chủ hoà như biểu hiện ḷng khoan dung. Khoan dung là một đức
tính khi mà ta chấp nhận không hề kết án những ǵ mà ta không đồng ư. Nhưng tính
khoan dung mất đi ư nghiă đạo đức trong khi khoan dung đưa tới phải chịu đựng những
ǵ xấu xa. Người ta có nên chủ trương cần phải hành động đúng đắn trong khi lại
phải chịu những điều thực ra là xấu xa ấy chăng? Thuyết chủ hoà chỉ có một thái
độ đạo đức nhất quán cho đến khi nào nó tạo ra một chuyển hướng trong hành động.
Trong khi thuyết này đưa ra quan điểm thuộc về nguyên tắc, th́ thuyết này lại trở
nên thiếu thuần nhất trong thực tế. Thuyết này coi việc không cần tới chiến
tranh như luôn luôn là một việc ưu tiên, cho đến chừng nào mà điều này có thể đạt
được. Nhưng khi từ chối chiến tranh trong mọi trựng hợp một cách quyết liệt như
vậy, đó chính là việc làm sụp đổ ngay đến những giá trị làm nền tảng cho sự từ
chối đó. Có nên chủ trương hành động một cách khôn khéo trong khi người ta để
cho bạo lực tự lộng hành chăng? Nguyên tắc của thuyết chủ hoà cho thấy rơ tính
cách bất khả thi của những nguyên tắc tuyệt đối trong thế giới ngày nay.
Chiến tranh có chính nghĩa theo quan điểm phái chủ chiến
Khái niệm về chiến tranh có chính nghĩa luôn đối nghịch với tư tưởng thường được
mệnh danh là chủ chiến, mà theo quan điểm này trong chiến tranh tất cả đều được
phép. Phái chủ chiến dường như bảo vệ một quan điểm khá đơn giản: inter arma
silent leges (khi súng đạn lên tiếng nói th́ luật pháp phải im). Khi có
chiến tranh th́ không c̣n những luật lệ hay những tiêu chuẩn về công lư cho phép
người ta xác định những lập luận hợp pháp để cầu viện đến chiến tranh và những
phương tiện khả chấp để tiến hành chiến tranh. Tất cả đều có thể bị vi phạm và
phải chịu đựng v́ chiến tranh. Họ sử dụng bạo lực mà không hề nh́n thấy ǵ đạo đức,
và đúng họ là đạo đức giả khi chủ trương gây một cuộc chiến v́ chính nghĩa. Ngay
từ thuở sơ khai của lịch sử nhân loại, trong phe chủ chiến có nhiều niềm tin
khác nhau đă gợi ư cho họ gây chiến, cần nên phân biệt các luận điểm này.
Quan điểm cực đoan nhất cho rằng chiến tranh tự nó tạo nên một h́nh thức của
chính nghĩa. Chiến tranh là động lực của lịch sử. Nó tuyển lựa ra xem thành phố,
dân tộc hay nền văn minh nào đáng được sinh tồn. Chiến tranh cũng tạo cơ hội cho
cá nhân đem lại những thành tựu nhằm siêu việt hoá nhân loại. Chiến tranh cũng
là những trường hợp chủ yếu nhằm quy tụ dân chúng lại làm thành một dân tộc. Khi
đem những động cơ hay phương tiện làm thành những giới hạn nhằm áp đặt cho chiến
tranh để ngăn cản những công tŕnh tương tự của lịch sử, th́ những cuộc chiến đó
không có chính nghĩa. Người ta nhận ra quan điểm này trong lí thuyết của Hegel.
Joseph de Maistre đă biện minh quan điểm này rất rơ nét
[6]. Tuy thế, điểm yếu của lập luận này là dựa trên định đề về một ư nghiă tổng quất
của lịch sử nhân loại. Một định đề như thế là một đề tài cần được tranh luận, bởi
v́ con người luôn có thể sai lầm, do những đặc tính giới hạn và bất định. Thật
ra, đây cũng giống như những lợi điểm của một “lịch sử nhiều ồn ào và cuồng nộ
do tên khờ kể lại“ hơn là về những thành tựu liên tục trong một ư nghĩa trừu tượng.
Khi tách rời định đề này ra, th́ ư niệm về chiến tranh như một công tŕnh công
lư của lịch sử và một biểu hiện nền đạo đức tối cao như là một yếu tính mất đi vẻ
thật của nó.
Một quan điểm khác lại cho rằng chiến tranh là một sự tất yếu tự nhiên nằm sẵn
trong đức tính cơ bản của con người và đất nước. Chiến tranh bằt nguồn từ những
tham vọng và quyền lợi của con người. Muốn giới hạn chiến tranh điều này giống
như xin con rắn đừng chích nọc đọc. Khi bàn đến quy luật xung đột của con ngựi
là chuyện muôn đời, Thucydide đă lập luận như sau:
„Người ta không hề có bất kỳ một do dự nào để thay đổi từ chiến tranh sang
hoà b́nh. Đối với kẻ khôn ngoan th́ hiển nhiên họ luôn giữ thái độ im lặng, khi
mà ngựi ta không gây thiệt hại ǵ cho họ. Nhưng đối với những kẻ có ḷng, khi
quyền lợi của họ bị thiệt hại, họ sẽ không chiụ hoà mà chấp nhận chiến tranh.
Nhưng khi điều kiện thuận lợi th́ họ từ bỏ chiến để chấp nhận hoà.“
[7]
Muốn áp đặt một nền đạo đức theo bản chất tự nhiên là một mơ ước vô nghĩa. Quy
luật tự nhiên đặt ra ai có quy quyền tối cao là người đó chỉ huy, bất cần tới
luật lệ.
„Khi mà ta thống trị được kẻ khác theo quy luật tự nhiên của con người th́ ta
thường tự biểu lộ rằng ḿnh có chính nghĩa hơn là chấp nhận một quyền lực mà
ngựi ta quy định... trong tận cùng th́ cách lập luận này không hề có giá trị
thuyết phục và đáng được ca ngợi.“[8]
Hai trích dẫn trên rất cần thiết nhằm tránh những hiểu lầm quan điểm này. Không
đặt vấn đề đạo đức cốt để sử dụng bạo lực chỉ có nghĩa là tuyệt nhiên không cân
nhắc và phân biệt các phương sách trước khi cần cầu viện chiến tranh. Thuyết tự
nhiên về chiến tranh th́ không hề có chiến tranh nào là chính nghĩa hay không
chính nghĩa, mà chỉ có chiến tranh ngu xuẩn và chiến tranh có cân nhắc. Sự cân
nhắc hay những tính toán xác đáng về những quyền lợi lâu dài thường đưa tới
những hành động hướng dẫn đạo đức. Nói rộng hơn, khi ta cho rằng chiến tranh
không thể tránh được, sự thật này không ngăn cản được ta suy nghĩ t́m ra những
phương tiện tốt hơn trong hành động, đặc biệt là giới hạn những tổn hại dân sự
không cần thiết[9].
Thuyết tự nhiên cho là chiến tranh là hiển nhiên, mà người ta dùng nó khi cần để
làm một luận đề kiểm chứng: chiến tranh là một điều không tránh được và người ta
gây chiến khi người ta có thể thắng được. Khi lập luận này trở thành quy luật và
cho rằng người ta phải tiến hành chiến tranh bằng mọi phương tiện, th́ điều này
cần đưọc bàn căi. Ngay khi chấp nhận có những cuộc chiến không thể biện minh
được hay biện minh mà không thuyết phục được, th́ người ta cần phải đào sâu vào
các phân tích giống như những tư duy về đạo đức, đây là chuyện không thể tránh
được
Những âu lo cân nhắc, đặc biệt về kinh tế, buộc người ta phải coi chiến tranh
với tất cả mọi h́nh thái hoạt động là không có giá trị ǵ hết; chỉ một vài loại
hoạt động nào đó là có thể được ưa chuộng hơn và những h́nh thái khác phải đưọc
coi là ngoại lệ. Không, người ta không thể chỉ gây chiến v́ những lo âu duy lư.
Những cưỡng chế bắt nguồn từ những cân nhắc cẩn trọng không dựa trên những lập
luận đạo đức, nhưng nó có những hậu quả tương tự tạo ra lo âu đạo đức của chiến
tranh. Nhượng bộ về điểm này có nghĩa là từ bỏ quan điểm chiến tranh của thuyết
tự nhiên, đối nghịch với ư tưởng về một cuộc chiến v́ chính nghĩa. Trong một
cuộc bàn căi nổi tiếng về thân phận của những cư dân vùng Mytiliène, Thucydide
nhắc lại những lập luận của Diodote. Ông biện hộ cho việc đại xá với những lập
luận về sự cân nhắc cũng hàm chứa những lập luận khác của Cleon, người theo phái
tiêu diệt. Khi Cleon phản đối sự trả thù dân Mytiliene không màng đến luật lệ,
th́ Diodode cho rằng không cần thiết phải thảo luận bằng lập luận về sự cân nhằc
trong những quyết nghị.
„Tôi có thể minh chứng rằng những cư dân của Mytiliène là hoàn toàn phạm tội
mà không hề khiếu nại ǵ về cái chết cuả họ, điều này không phải là quan tâm của
chúng tôi.“[10]
Nỗi lo âu về sự cẩn trọng đưa tới sự phân biệt; điều này cũng giống như cân nhắc
trong đạo đức giữa những hành vi có thể và không thể biện minh được.
Trong một cuốn sách nhan đề là Le Nomos de la terre, phát hành năm 1950,
Carl Schmitt định nghĩa một h́nh thức khác lạ về tính cách trung dung về mặt đạo
đức của chiến tranh[11] . Theo ông, chiến tranh dựa trên một trật tự thế giới có cội
rễ từ châu Âu (Jus Publicum Europeanum). Bắt nguồn từ chủ quyền tối
thượng của châu Âu, trật tự này thành h́nh trong không gian đích thực. Trật tự
này do kết quả từ những chiếm đóng đất đai, nói khác đi, là những chia cắt không
gian và lănh thổ, mà nó tạo nên nguồn gốc của t́nh trạng thực tế Âu châu. Họ tự
định nghĩa về chính nghĩa cho chiến tranh khi họ so với tự quyền đi chiếm đất
đai của ḿnh, cũng như họ cho rằng trong cuộc chiến tranh của hai phe đối nghịch,
khi ai là kẻ chiếm đất đầu tiên th́ người đó có chính nghĩa. Theo Schmitt, nếu
với nội dung này để định nghĩa chính nghĩa th́ chỉ là định danh cho một cuộc
chiến nhằm tái lập một trật tư do Âu châu lập ra, cho dù cuộc chiến này nhằm
chống lại một kẻ thù có chính danh và giải pháp của nó có ra sao đi nữa. Trong ư
nghĩa này, chính nghĩa chiến tranh đặt ra một cưỡng chế thuần về mặt h́nh thức.
Nó không tùy thuộc vào căn cơ của chính nghĩa. Ngay khi kẻ thù có chính danh,
th́ tất cả mọi lập luận để gây chiến đều tốt và bất cứ ai trong phe họ cũng
không thể coi là kẻ thù vi phạm h́nh sự. Phân tích đạo đức về những cơ sở lập
luận để gây chiến, những trường hợp gây chiến và những mục tiêu theo đuổi trong
trựng hợp này đều thiếu ư nghĩa của nó.
Khái niệm chính nghĩa chiến tranh thuần về h́nh thức tạo nên hậu quả là đạo đức
của chiến tranh mang tính trung dung. Cuộc chiến có chính nghĩa về mặt h́nh thức
theo quan điểm cuả Schmitt đối nghịch với ư nghĩa chiến tranh có chính nghiă
theo thời trung cổ, được phê phán theo quan điểm đạo đức của giáo hội đặt ra
nhằm giải quyết vấn đề chính nghĩa. Nhưng quan điểm này đối nghịch với những
cuộc chiến v́ chính nghĩa của thế kỷ XX, khi mà luật quốc tế được sử dụng như là
một „chủ thuyết thượng tôn luật pháp không biên giới“, tách rời khỏi mọi gốc rễ
từ Châu Âu, điều này đem đến hậu quả là phân biệt giữa nguyên nhân chính đáng và
sai lầm của cuộc chiến và h́nh sự hoá hành vi của kẻ thù. Schmitt cũng nhận ra
trong các tổ chức quốc tế h́nh thành từ sau 1945 có một sự phục hồi quan điểm
thần học về chiến tranh với những lập luận quanh co bằng những phương cách giả
tạo nhân danh luật pháp. Chống lại hai quan điểm này, một của thời trung cổ và
một theo chủ thuyết quốc tế về chính nghĩa cho chiến tranh, Schmitt muốn đề ra ư
tưởng trung dung trong một cuộc chiến. Ông cho là vấn đề chiến tranh chỉ được
biện minh bằng đạo đức, khi nào kết luận được rằng kẻ thù có chính danh hay
không. Theo Schmitt, chiến tranh có chính nghĩa theo ư nghĩa cổ truyền có một
cấu trúc h́nh thức hoàn toàn khác biệt[12] .
Ở đây ta không thể phê b́nh chi tiết tất cả các quan điểm này. Tôi sẽ đề cập đến
ba quan điểm mà đối với tôi dường như có thể thảo luận được. Về quan điểm lịch
sử, hai ư niệm về chiến tranh có chính nghĩa mà Schmitt đề ra, một dựa trên thần
học, một dựa trên thuần h́nh thức, cả hai liên tục tồn tại cho đến cuối thế kỷ
XVIII. Ư tưởng về một học thuyết luật học của chiến tranh xuất hiện từ lúc khởi
đầu thời trung cổ, không phải vào thế kỷ XVI. Về ư niệm về chiến tranh có chính
nghĩa vào thời trung cổ, ư niệm này kéo dài đến trước thời kỳ Khai sáng[13] . Chiến tranh cách mạng vào cuối thế kỷ XVIII được tiến hành
một phần bắt nguồn từ quan điểm coi đối phương như những kẻ phạm tội h́nh sự, mà
Schmitt coi là chỉ thể hiện vào thế kỷ XX.
Hơn nữa, trên b́nh diện ư niệm mà xét, một quan niệm về chiến tranh đứng trung
dung về mặt đạo đức như thế liên hệ chặt chẽ đến nguyên tắc chủ quyền dựa trên
sự chiếm đoạt đất đai. Hoặc là ngựi ta thấy một quan điểm tương tự về một cuộc
chiến trung dung được Thucyidide tŕnh bày khá cặn kẽ, ngoại trừ quan niệm về
Jus Publicum Europeanum. Đây là chỗ đáng nghi ngờ về ư tưởng tính trung dung của
đạo đức trong cuộc chiến, điều mà Schmitt cố áp đặt là một luận đề liên hệ đến
sự nảy sinh một trật tự chung cho Châu Âu và coi đây như là một loại trật tự độc
quyền.
Tóm lại, định nghĩa về chiến tranh v́ chính nghĩa như thế bắt nguồn từ luật châu
Âu. Định nghĩa này quy định tất cả những quốc gia tham chiến đều có một nền văn
hoá và luật lệ chung, ngay cả „công pháp châu Âu“. Điều này cho thấy chiến tranh
chỉ có thể trung dung về mặt đạo đức trong điều kiện minh thị rằng những quốc
gia trước hết có những cam kết chung. Ngựi ta xa rời hẳn quan điểm tính trung
dung cực đoan theo Thucydide.
Đặc điểm đáng tranh luận trong luận đề do Schmitt đưa ra là ông ta chỉ chú tâm
đến những giới hạn đạo đức tạo nên giá trị cho chiến tranh, những giới hạn này
chỉ có thể bắt nguồn từ quan điểm thần học mà giáo hội áp đặt lên trên nhà nước,
hoặc là một loại luật quốc tế không c̣n lảnh thổ và hiển nhiên không bàn đến
tính cách chính danh. Những giới hạn hay cưỡng chế này đề ra những quy cách áp
dụng trong chiến tranh mà nó thường bắt nguồn từ những ư niệm về chủ quyền. Nó
duy tŕ lư tưởng sống động về một chiến tranh có chính nghĩa trong ḷng một hệ
thống Châu Âu, một lư tưởng không chỉ tự giới hạn trong sự kiểm chứng về sự
chính danh của kẻ thù.
Ư tưởng về chiến tranh có chính nghĩa
Nếu một nền hoà b́nh vĩnh cữu có thể được tạo lập, những suy lư về chiến tranh
có chính nghĩa trở nên vô ích. Các quốc gia thuộc Liên hiệp Châu Âu dường như
đang đi vào trong t́nh trạng quyết định cho hoà b́nh. Lí thuyết về chiến tranh
có chính nghĩa tại châu Âu có vẻ như được đặt ra nhằm quảng bá để trị liệu những
điều ác mà nó không c̣n có nữa. Tuy thế, một mô thức của Châu Âu áp đặt lên
những nơi khác trên thế giới là một điều khó có thể quan niệm được. Nhu cầu suy
lư về tính đạo đức của chiến tranh vẫn c̣n đó. Hơn nữa, hy vọng rằng chiến tranh
sẽ kết liễu tuyệt nhiên không loại trừ được khả năng chiến tranh không c̣n là
một phương tiện dẫn tới ḥa b́nh. Chiến tranh nuôi dưỡng hy vọng hoà b́nh và dần
dần trở thành cần thiết, cũng như Kant đă xác nhận điều này, nó giải quyết các
xung đột. Chính v́ lập luận này, những suy lư về đạo đức của chiến tranh có thể
đóng góp tạo nên những điều kiện mà chiến tranh sẽ trở thành vô ích.
Sự hiện diện của luật quốc tế nhằm giới hạn đến việc cầu viện bằng chiến tranh
và quy định trong trường hợp nào chiến tranh là hợp pháp tuyệt nhiên không hề
xoá đi vấn đề chiến tranh v́ chính nghĩa. Khi một ṭa án quốc tế tuyên bố chiến
tranh là hợp pháp hay phi pháp, sư kiện này không thể tránh khỏi việc tự hỏi về
tính cách hợp pháp hay bất hợp pháp trong sự sử dụng vũ lực. Trong mối quan hệ
với phê phán về mặt pháp lư th́ tôi đă nhấn mạnh đến tính cách độc lập cao hơn
của những phê phán về mặt đạo đức. Một cuộc chiến không được luật quốc tế cho
phép cũng như không hội đủ điều kiện của luật quốc tế, có thể là một cuộc chiến
có chính nghĩa, điều này có thể xảy ra, như trong trựng hợp can thiệp tại
Kosovo. Người ta không thể loại trừ được những trường hợp rất ít mà cuộc chiến
có khả năng xảy ra, nhưng không có nghĩa là không thể có được nữa, cũng như
trường hợp một cuộc chiến được quốc tế đồng t́nh, th́ cũng không được coi nó là
một cuộc chiến tranh có chính nghĩa.
Sự hiện hữu của bạo lực trên thế giới không là một đề tài mà ngựi ta sẽ tự do
bảo vệ hay phản bác. Trước hết, nó là đối tượng cần kiểm nghiệm: Bạo lực đă có
và sẽ c̣n măi. Khi cho rằng cần né tránh chiến tranh, chủ thuyết chủ hoà không
hề đưa tới sự xoá bỏ bạo lực, đúng hơn đây là nó chỉ nhắm vào một suy nghĩ bảo
thủ. C̣n về quan niệm chiến tranh theo phái tự nhiên tất nhiên cần đưa tới suy
tưởng về mặt đạo lư. Cả thuyết chủ hoà lẫn chủ chiến không là những quan điểm
dùng để suy luận về những giới hạn của bạo lực. Có như vậy sự suy lư về chiến
tranh, đặc biệt là cân nhắc phân biệt giữa những lập luận hợp pháp phải làm, là
điều không tránh được.
[1]W.
B Galllie, Philosophers of War and Peace, Cambridge, Cambridge University
Press, 1978; Jan Narveson, Pacifism: A Philosophical Analysis in. James Rachels,
Moral Problems, New York, Harper and Row, 1979 pp. 408-425
[2]Nói
chung, người ta liên tưởng niềm tin này với những dấn thân theo lư tưởng tôn
giáo. Một số người cảm thấy nghịch lư khi có tôn giáo cho rằng chiến tranh đôi
khi có thể biện minh đuợc. Quy chế pháp lư cho những người từ chối hành xử v́ lư
do lương tâm được lập ra tại Pháp vào năm 1963 và được chuẩn nhận vào năm 1983.
Quy chế này coi như không c̣n nữa với việc hủy bỏ nghĩa vụ quân sự
[3]Đă
có nhiều sách vở bàn luận đến đề tài sự tái lập hoà b́nh và một nền công lư
chuyển tiếp, xin xem Neil Fritz, Transitional Justice: How Emerging
Democracies Reckon with Former Regimes, 3. Vol. Washington DC. United
Startes Institute for Peace Press, 1995
[4]Hiển
nhiên đây không phải là trựng hợp khi mà ư muốn bất động nhằm kháng cự một cuộc
chiến tranh phục hận
[5]Hai
tác giả đưọc coi như là tiêu biểu cho chủ thuyết chủ hoà là Robert Holmes: On
War and Morality, Princeton, Princeton University Press 1989; Richard
Norman, Ethics, Killing and War, Cambridge, Cambridge University Press,
1995; Martin Ceadel, Thinking about Pearce and War, Oxford, Oxford
University Press, 1987
[6]Hegel,
Lecon sur la philosophie de l`histoire, Paris, Vrin 1945; Article sur
le droit naturel, Ed.
Lasson, V̀I, p.
355-371 ; Phénomenologie de l´esprit, Paris, Aubier Montaigne, t. ̀ 23 ;
A. Korvège, Introdruction a la lecture de Hegel, Paris, Gallimard 1979,
p. 52 ; André Gluckmann, le Discours de la guerre 1967, Paris,
Grasset, p. 82 et p. 131-132; Joseph de Maistzre, Du Pape, Les Secirets de
Saint Péterbourg, Paris, Pauvert, 1964, p. 71-83
[7]Thucydide,
Guerre de Péloponnèse, Livre I, CXX 3. Tác giả là sử gia và Tư lệnh Hạm Đội
Hải Quân Hy Lạp, sinh năm 460 truớc CN, mất năm 400 sau CN, năm 424 tham dự vào
cuộc chiến Peloponnèse, đă trước tác nhiều bộ sử quan trọng (CTCND)
[8]Thucydide,
Guerre de Péloponnèse, Livre V, CV 2 ; Livre I XXV 3 ; Michael Walzer,
Just and Unjust Wars, New York Basic B ook, 1977; Malham Walkin;
War, Morality and Military Profession, Boulder Westview Book 1979
[9]Nhiều
người chủ chiến không hề chấp nhận bất cứ một cuộc thảo luận đạo đức nào về
nguyên nhân gây chiến, họ tự giới hạn vào những giới hạn của quyền trong chiến
tranh (jus in bello)
[10]Thucydide,
Guerre du Péloponnèse, Livre ̀I,4 ; XLIV 4
[11]Carl
Schmitt, le Nomos de la terre 195, Paris PUF 201. Tác giả (1888-1985) là
giáo sư Luật quốc tế tại Đại học Bonn, Berlin và Münster, đă để lại nhiều danh
tác có ảnh hưởng trong học giới (CTCND).
[12]Carl
Schmitt, le Nomos de la terre, op. Cit p. 120
[13]P.
Haggenmacher, Grotius et la doctrine de la guerre juste, Paris 1983, p.
98-120 et p. 597-612
Nguồn: Monique Canto-Sperber, La guerre juste, une notion impertinente? Esprit, Février, 2005, pp. 204-212.