![]() ![]()
Fax: +493046795841 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Ở Cuối Hai Con Đường
Phạm Tín An Ninh.
(Một câu chuyện hoàn toàn có
thật)
Những năm "cải tạo" ở miền Bắc, tôi
được chuyển đi khá nhiều trại. Từ
Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi
Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên
Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi,
nằm sâu trong núi. Đây là một vùng
sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần
hai năm mà tôi đă có hơn 20 người
bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn
đồi.
Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/
Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ
huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi
giam giữ gần 30 tướng lănh miền Nam,
chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi
cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao
động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy
cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện
vui buồn.
Ngày nhập trại, sau khi "biên chế"
xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50
thằng chúng tôi vào một cái láng lợp
bằng nứa, nền đất, ngồi chờ "đồng
chí cán bộ quản giáo" đến tiếp nhận.
Vài phút sau, một sĩ quan mang quân
hàm thượng úy đi vào láng. Điều
trước tiên chúng tôi nh́n thấy là
anh ta chỉ c̣n một cánh tay. Môt nửa
cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki
Nam Định, buông thỏng xuống và phất
phơ qua lại theo nhịp đi của anh.
Không khí trở nên ngột ngạt. Không
nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù
chúng tôi ai cũng có cùng một suy
nghĩ : - Đây mới đích thực là nợ máu
đây, biết trả như thế nào cho đủ ?.
Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản
giáo đến trước chúng tôi , miệng nở
nụ cười. Nh́n khuôn mặt hiền lành,
và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng
bớt lo âu.
Bằng một giọng đặt sệt Nghệ Tỉnh,
anh quản giáo giới thiệu tên ḿnh:
Nguyễn văn Thà, rồi "báo cáo" môt số
nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa
cho anh đội trưởng một tập vở học
tṛ, phát cho anh em mỗi người một
tờ giấy để làm bản "lư lịch trích
ngang".
Tôi đang ngồi hư hoáy viết cái bản
kê khai lư lịch ba đời với bao nhiêu
thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi
đă thuộc ḷng từ lâu lắm - bởi đă
phải viết đến cả trăm lần, ngay cả
những lần bị đánh thức lúc nửa đêm -
bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:
- Trong này có anh nào thuộc Sư 23 ?
Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng :
- Thưa cán bộ, có tôi ạ,.
- Anh ở trung đoàn mấy
- Trung Đoàn 44
- Vậy anh có tham dự trận đánh Trung
Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?
- Vâng, có ạ.
Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất
một nửa, chỉ c̣n cái tay áo đong
đưa, lên ;
- Tôi bị mất cánh tay này trong trận
đó.
Nh́n qua anh em, thấy tất cả mọi con
mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại
b́nh tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:
- Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào ?
- Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư
320.
Anh quản giáo rảo mắt nh́n quanh,
rồi hạ giọng tiếp tục:
- Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả
một tiểu đoàn tăng của tôi c̣n có 2
chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn
cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng
bị các anh bắt làm tù binh.
- Sau đó cán bộ được trao trả ? tôi
hỏi .
- Tôi bị thương nặng lắm, do chính
đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được
các anh đưa về quân y viện Pleiku
chữa trị . Nhờ vậy mà tôi c̣n sống
và được trao trả tù binh đợt cuối
cùng năm 1973, sau khi có hiệp định
Ba Lê.
Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng
Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi
láng được đào một cái hầm giữa nhà,
đốt những gốc cây được anh em nhặt
ngoài rừng, sau giờ lao động, mang
về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo
cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi
là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ
tâm t́nh những chuyện vui buồn đời
lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em
tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ
ǵn sức khỏe, đừng làm điều ǵ sai
phạm để không phải nghe mấy ông cán
bộ nặng lời. Anh thường nói :
- Tôi rất đau ḷng, khi thấy các anh
phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết
các anh đều là những người có tŕnh
độ văn hóa và ai cũng đă từng chỉ
huy.
Mùa đông, không trồng trọt được, nên
khẩu phần ăn của một ngụi tù chỉ có
một miếng bánh ḿ đen bằng hai ngón
tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần
thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ
sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh
kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không
có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều
người đứng không vững.
Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn
rả rích, sương mù giăng kín cả thung
lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi
ngồi co ro trong láng, cố nhai từng
hạt bắp cứng như viên sỏi, nh́n ra
cánh đồng phía trước, thấp thoáng
một người mang áo tơi (loại áo mưa
kết bắng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ
này đến chỗ khác, cho đến khi trời
tối.
Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống
sinh hoạt với anh em bên bếp lửa.
Anh bảo nhỏ anh đội trưởng :
- Tôi để một giỏ cá đàng sau láng.
Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia
cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất
sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ
kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà
chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng
ruộng chính là quản giáo Thà. Ai
cũng cảm động.
Biết là anh em tù bị đói triền miên,
nhất là sau mùa đông dài, một buổi
sáng đầu mùa xuân , quản giáo Thà
đưa cả đội 50 người tù lên một đồi
trồng toàn sắn của một hợp tác xă
nào đó. Sắn đầu mùa, củ c̣n nhỏ. Anh
chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà
thân sắn vẫn c̣n nguyên; đào mấy cái
bếp "Hoàng Cầm" để luột sắn mà không
ai phát hiện có khói. Anh dắt hai
anh tù xuống đồi xách hai thùng nước
mang lên, căn dặn anh em thay phiên
nhau luột sắn ăn cho no. Anh đích
thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào,
anh vờ ra lệnh "chuẩn bị đi về", anh
em tức khắc dấu hết "tang vật" xuống
một cái hố đă đào sẵn.
Dường như đó là cái ngày duy nhất mà
50 người tù chúng tôi được no -dù
chỉ là no sắn-
Không biết tối hôm ấy, trong giờ
"giao ban" , quản giáo Thà đă báo
cáo với ban chỉ huy trại là đội tù
của chúng tôi đă phát được bao nhiêu
hecta rừng ?
Mỗi lần ra băi thấy anh em lao động
nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ :
- Anh em làm việc vừa phải, khi nào
mệt th́ ta nghỉ. Nhớ giữ ǵn sức
khỏe, v́ thời gian cải tạo c̣n dài
lắm.
Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép
trong tay, nhưng anh không về nhà,
mà ở lại với anh em. Số tiền lương
vừa lănh được, anh mua mấy bánh
thuốc lào, vài kư kẹo lạc, biếu anh
em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật
nhiều với anh em :
- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum,
tôi nghĩ là tôi đă chết. Vết thương
quá nặng, lại phải nằm trong rừng
rậm một ḿnh, không có thức ăn, nước
uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi
bất ngờ được một đơn vị của Sư 23
các anh phát giác. Các anh băng bó
vết thương, cho tôi ăn uống, tận
t́nh săn sóc tôi như một người đồng
ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi
ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay
tản thương đến đưa tôi về bệnh viện.
Trời tối, máy bay chưa xuống được,
đảo mấy ṿng, th́ vị trí bị lộ. Các
anh bị pháo kích, may mà không có ai
bị thương. Các anh lại phải vội vàng
di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng
chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an
toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi
phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá
săn sóc suốt cả đêm . Người chỉ huy
hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân
hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi
thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để
được đưa về quân y viện chữa trị.
Anh c̣n cho tôi nửa bao thuốc lá c̣n
lại của anh, bảo tôi hút thuốc để
quên bớt cơn đau của vết thương.
Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay
tản thương đưa tôi về quân y viện
Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm
riêng, nhưng được bác sĩ các anh
chăm sóc tận t́nh. Tất cả đă đối xử
với tôi như người đồng đội. Có lần,
một phái đoàn đến ủy lạo thương binh
các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi
quà, và an ủi tôi thật chân t́nh.
Vết thương vừa lành, th́ tôi được
lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay,
bệnh viện c̣n cho tôi nhiều thuốc
men và một số đồ dùng. Ḷng tôi tràn
ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước
t́nh con người, t́nh dân tộc mà các
anh đă dành cho tôi. T́nh cảm ấy tôi
chôn chặt tận đáy ḷng, không dám
tâm sự cùng ai, v́ ḷng tôi lúc nào
cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là
người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày
đêm mong chờ tôi trở về.
Anh cố gắng giữ b́nh tĩnh, nhưng rơ
ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn
ngào.
- Khi về lại ngoài Bắc, người ta có
c̣n tin cậy anh không? - một anh tù
hỏi.
- Ngay sau khi được trao trả, tôi
phải vất hết thuốc men và những thứ
các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên
thuốc trụ sinh pḥng nhiễm trùng,
nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải
t́m cách vất đi. Trước khi đưa về
Bắc, chúng tôi được học tập hơn một
tháng, làm kiểm điểm và lên án sự
đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy
xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại,
nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm
khác hơn. Chính v́ vậy mà ḷng tôi
cứ dằng vặt măi cho đến hôm nay.
Thời gian vàng son của năm mươi
người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ,
Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá
sáu tháng.
Một buổi sáng sớm, khi sương mù c̣n
vương trên thung lũng trại tù, một
người đạp chiếc xe đạp vội vă rời
ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo
một cái rương bằng gỗ và một túi đeo
lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra
anh Thà và báo cho anh em. Cả một
đội năm mươi người tù vừa mới thức
dậy, c̣n ngái ngủ, chạy ùa ra sân,
vẫy tay gọi. Anh Thà không nh́n lại,
đưa cánh tay chỉ c̣n một nửa lên vẫy
vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.
Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30
người vượt biển, trong đó có tôi và
ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày
trước, ra đến hải phận quốc tế hai
ngày th́ gặp băo. Chúng tôi may mắn
được một chiếc tàu chuyên chở dầu
hỏa của vương quốc Nauy, trên đường
từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai
ngày đêm trên tàu là cả một thiên
đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh
thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết
ḷng săn sóc lo lắng cho chúng tôi.
Hôm rời tàu để được chuyển đến trại
tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc
động không ai cầm được nước mắt. Tất
cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành
hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy
đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người
chúng tôi mà chia tay. Rồi những
ngày sống trong trại, chúng tôi được
thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy,
thường xuyên có mặt lo lắng cho
chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc
động vừa đau đớn. Nỗi đau của một
người vừa mới bị anh em một nhà hành
hạ, đuổi xô đến bước đường cùng,
phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân
trong cái chết, bây giờ lại được
những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ,
màu da, màu tóc, lại hết ḷng đùm
bọc yêu thương. Mang cái ân t́nh đó,
chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi
phần đời c̣n lại của ḿnh.
Bốn anh em, những người cùng tù
Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần
nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại
những năm tháng khốn khổ trong tù.
Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà,
ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi,
nghĩ đến một người không cùng chiến
tuyến mà c̣n có được tấm ḷng. Sau
lần bị "hạ tầng công tác" ở trại tù
Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu,
nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất
vả lắm.
Sau hai năm theo học, tôi được nhận
vào làm trong ngân hàng bưu điện
trung ương. Tại đây, tôi quen với
Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp
c̣n trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau
này trở nên thân t́nh. Anh ta là
sinh viên đang theo học về kinh tế,
chỉ làm việc thêm ngoài giờ hoc. Làm
chung gần một năm, th́ anh bạn Nauy
này lại được nhận vào một công ty
lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên
Ấn Độ.
Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh
gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm
tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ.
Và đúng là bất ngờ thật, v́ cùng đến
với anh là một người con gái Việt
nam. Anh giới thiệu với vợ chồng
tôi, đó là vị hôn thê của anh.
Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội
chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi
xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi
nh́n thấy tấm ảnh của tôi treo trên
tường, mang quân phục và cấp bậc của
quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại.
Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ ,
đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho
biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái
Vân từ lúc hai người c̣n đi học ở Hà
Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức,
rồi Liên Xô, cô được sang thực tập
tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp
gặp và quen với chàng trai Nauy này.
Khi ấy cô đă có chồng và một đứa con
trai. Người chồng trước cùng du học
ở Liên Xô, sau này trở thành một cán
bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại
Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn
Độ trở về, cô được bạn bè và người
thân cho biết là anh chồng đă cặp
một cô gái khác chỉ một vài tuần sau
ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải
trái với chồng, lại bị anh ta hành
hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa
buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang
học tiếp chương tŕnh Tiến sĩ tại
một đại học ở Đông Đức.
Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị
nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức
(Đông Đức) bỗng chốc không c̣n nữa.
Cô không về nước mà t́m cách trốn
sang Tây Đức. Qua một thời gian hết
sức khó khăn, cô may mắn liên lạc
được với anh Kenneth Hansen, để được
bảo lănh sang Nauy. Biết cô thuộc
gia đ́nh một đảng viên cộng sản cao
cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước
thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng
tôi không hỏi v́ sợ cô ngại. Sau này
chính Kenneth Hansen, cho biết, bố
của cô trước kia là đại sứ Việt Nam
tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp
đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối
cộng sản Đông Âu, ông xót xa nh́n ra
được một điều ǵ đó. Trở về Việt
Nam, ông không c̣n được nhà nước
Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ
bất măn, cả ngày nằm nhà không tiếp
xúc một ai.
Sau một thời gian, được cấp quốc
tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam
thăm gia đ́nh, đặc biệt là người cha
già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang
đứa con trai sang Nauy với cô.
Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi
nghĩ dến anh quản giáo Nguyễn văn
Thà thưở trước. Tôi cùng với mấy
người bạn tù cũ, góp một số tiền
khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ
Tĩnh t́m và trao lại cho anh, như để
tỏ chút ḷng biết ơn một người bao
nhiêu năm sống trong đám bùn lầy
nước đọng mà vẫn c̣n giữ sạch được
tấm ḷng. Việc t́m anh không phải dễ
dàng, v́ chúng tôi không biết nhiều
về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin,
chỉ vỏn vẹn vài chữ : "ông Nguyễn
văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm
1979 là thượng úy, làm quản giáo
trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ,
Hoàng Liên Sơn ". Cô Đoan vui vẻ
nhận lời và hứa sẽ t́m đủ mọi cách
để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô
cũng cho biết là cô có ông chú họ
hiện làm việc tại bộ quốc pḥng. Cô
sẽ nhờ ông ta t́m hộ.
Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy,
báo cho chúng tôi biết là ông chú
của cô không t́m thấy tên Nguyễn văn
Thà trong danh sách sĩ quan. Ông
đoán là anh ta đă bị phục viên từ
lâu lắm rồi. Cô đă đích thân vào
Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan,
nhưng không ai biết. Cuối cùng cô
phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng
lời nhắn tin, trong đó có ghi số
điện thoại của tôi. Cô c̣n cho biết
là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh th́
cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều
hy vọng ǵ, v́ chỉ một ít người ở
thành phố có báo đọc.
Thời gian trôi qua, bận bịu bao
nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái,
để kịp hội nhập vào đời sống trên
quê hương mới, chúng tôi không c̣n
ai nhắc đến chuyện anh Thà.
Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe
tiếng điện thoại reo, tôi giật ḿnh
tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ
sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên
ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái
ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại
th́ phải có điều ǵ khẩn cấp lắm.
Tôi bốc ống nghe, Đầu giây bên kia
là giọng một cô gái, nói tiếng Việt
rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất
lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn
thận nhắc lại tên tôi hai lần, với
đầy đủ họ và tên.
- Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ
? tôi hỏi.
- Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà,
cháu đang ở Ba Lan ạ.
Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong
trí nhưng tôi không nhớ là ḿnh đă
quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô
gái lên tiếng:
- Bác có c̣n nhớ ông Thà, làm quản
giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
- Ông Thà, Nguyễn văn Thà, Bác nhớ,
nhưng cô là ǵ của ông Thà, và sao
lại ở Ba-Lan ?
- Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở
Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu
khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.
- Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại
ngay, để cháu khỏi tốn tiền.
Tôi gọi lại, và nghe tâm sự năo nề
của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh,
được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán
hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe
đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu
như là một thứ gia bảo, vay mượn
thêm, lo cho hai chị em cô sang lao
động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền
cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn
sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô
cùng hầu hết những người được chính
quyền Việt Nam gởi sang lao động, đă
không về nước, trốn ở lại. V́ sống
bất hợp pháp, nên không t́m được
việc làm chính thức. Hầu hết làm
chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số
trở thành ăn cắp, băng đảng, quay
lại cướp bóc hoặc tống tiền chính
những ngụi đồng hương, đồng cảnh.
Số người Việt này trở thành mối bận
tâm không nhỏ cho những chính quyền
mới ở các nước Đông Âu.
Hai chị em cô Hà thuê một căn gác
nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận
thuốc lá của một người khác, mang đi
bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một
ít, chưa kịp gởi về giúp gia đ́nh
th́ bị cướp sạch. Một hôm, cậu em
trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị
cảnh sát bắt và phát hiện là số
thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một
cửa hàng Ba-Lan. V́ vậy cậu em trai
bị nhốt vào tù, c̣n cô Hà th́ đang
bị truy nă. Việc xảy ra một ngày
trước khi cô Hà gọi điện thoại cho
tôi .
- Bây giờ cháu đang ở đâu ? Tôi hỏi.
- Cháu đang trốn ở nhà một ngụi
bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu
lâu. Cháu không biết phải làm sao,
th́ bất ngờ nhớ đến lá thư của ba
cháu gởi cho cháu cách nay vài
tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường
hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.
- Ba cháu bây giờ làm ǵ ?
- Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm
bị tai biến mạch máu năo, liệt nửa
người, nên chỉ nằm một chỗ. V́ vậy
nên chị em cháu trốn ở lại đây để
kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều
trị và sống qua ngày bác ạ.
Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người
bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em
trai của Hà đang bị giam giữ, trấn
an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày
rất gần ở Ba-Lan.
Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan,
anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen
khá thân lúc cả hai vừa mới đến
Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi.
Trước kia là một đại tá không quân,
chỉ huy môt không đoàn chiến đấu
thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về
sau. anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn
Đoàn Kết do ông Walesa lănh đạo.
Hành tung bại lộ, trong khi bị truy
bắt, anh đă lấy một chiếc trực
thăng, chở gia đ́nh, gồm người vợ và
hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo
sự thỉnh cầu của anh, gia đ́nh anh
được chính phủ Nauy đặc biệt nhận
cho tị nạn chính trị.
Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một
lớp, và sau đó có một thời gian
chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở
Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau,
th́ t́nh h́nh chính trị ở Ba-Lan
thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết
của ông Walesa lănh đạo đă thắng lợi
vẻ vang . Ông được bầu làm Tổng
Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân
chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của
tôi, được mời về nước để giữ môt
chức vụ khá lớn trong ngành cảnh
sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ
đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng
sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ
chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui
và hy vọng của người dân Ba-Lan bây
giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên
lúc nào anh cũng viết kèm theo vài
trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có
dịp thu xếp sang chơi với gia đ́nh
anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan
của anh đang hồi sinh trong dân chủ.
Sáng hôm sau, tôi t́m lại số phôn và
gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi
nghe tôi báo tin sang thăm . V́ đi
vội, nên tôi chỉ đi một ḿnh. Vợ
chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi
dành cho VIP (thượng khách). Anh chị
c̣n cho biết là rất thú vị khi có
dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để
nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc
động trước sự tiếp đón nồng hậu mà
gia đ́nh anh đă dành cho tôi. Tôi
ngại ngùng không dám nói với anh
những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng
rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm
t́nh cùng anh về chuyện anh quản
giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm
nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai
đứa con hiện đang ở tại đây, ngay
trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe
tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi
đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết ḷng
giúp tôi về việc này.
Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu
Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đ́nh
anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo
lănh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.
Trước khi về lại Nauy, tôi đă thức
trọn một đêm để tâm t́nh khuyên lơn
hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một
số tiền để tạm sinh sống và chuyển
về Việt nam biếu anh Thà, bố hai
cháu. Trên đường đưa tôi ra phi
trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên
tâm, anh chị xem hai chị em Hà như
là cháu trong nhà và sẽ tận t́nh lo
lắng cho hai cháu.
Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn
báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà
đă được Piwko bảo trợ, được cấp giấy
tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai
cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan.
Hà, v́ lớn tuổi, nên sẽ xin việc
làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục
theo học tại một trường trung học.
><><><><><><><><
"Các Anh thân quí,
Khi ngồi viết nhừng ḍng này cho các
anh, thực t́nh tôi không c̣n nhớ mặt
các anh, nhưng tôi c̣n nhớ rất rơ
thời gian tôi làm quản giáo ở trại
Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay
các anh c̣n nhớ đến tôi. Đọc thư của
cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với
số tiền của các anh gởi cho, ḷng
tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và
gia đ́nh xin muôn vàn cảm tạ. Các
anh làm tôi nhớ tới một câu nói của
Các-Mác: Chỉ có loài súc vật mới
quay lưng trước cảnh khốn khổ của
đồng loại". Ngày nay, cả thế giới
đều lên án Mác, những nước một thời
lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi
đường, bây giờ cũng đă từ bỏ Mác,
chỉ c̣n một vài nơi lấy Mác làm bức
b́nh phong để che đậy những mục nát
ở phía bên trong, nhưng câu nói trên
kia của Mác, với tôi, vẫn măi măi là
một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là
những kẻ một thời theo Mác đă luôn
luôn làm ngược lại lời nói này của
Mác.
Chúng tôi mừng cho các anh đă đưa
được gia đ́nh ra khỏi nước. Mặc dù
tôi biết một người phải bỏ quê hương
mà đi, c̣n đau đớn nào hơn. Ngay cả
con cái chúng tôi, vất vả biết chừng
nào, mà tôi cũng đành khuyên các
cháu phải ra đi để may ra c̣n t́m
được một chút tương lai, giá trị nào
đó của kiếp con người
Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng
nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra
mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ
giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua
biên giới . Nhờ thương tật, tôi được
bố trí một công tác lặt vặt ở hậu
cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục
viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ
nuôi chính bản thân. Tôi chỉ c̣n một
cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau
để phụ giúp gia đ́nh.
Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm
liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi
tiền về nuôi tôi và cả gia đ́nh, tôi
mới c̣n sống được đến hôm nay. Biết
trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ,
hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng
vẫn c̣n hơn là về lại bên này. Có
làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May
mà nhờ các anh hết ḷng giúp hai
cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng
tôi mới trả được cho các anh đây.
Tôi biết ḿnh không c̣n sống bao
lâu. Cuối đời một con người, tôi
nghiệm rơ được một điều: Chỉ có cái
t́nh con người với nhau mới thực sự
quí giá và tồn tại măi với thời
gian. Những chế độ này, chủ nghĩa
nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám
mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta
được chút nắng, nhưng nhiều lúc đă
trút bao cơn mưa lũ xuống để làm
khốn khổ cả nhân gian..."
><><><><><><><><
Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng
là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận
được từ anh Thà. Anh đă qua đời sau
đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại.
Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy
cái huy chương, anh được cấp trong
thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống
phía sau nhà. Anh thầm th́: xin hăy
chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau
thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đă
gây biết bao chia ĺa, tang tóc, và
sự thù hận giữa những người anh em
cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài
cho đến bao giờ?
Phạm Tín An Ninh,
Vương Quốc Nauy