![]() ![]() ![]() ![]() ![]() Fax: +493046795841 ![]() ![]() www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Amartya Sen
Đỗ Kim Thêm dịch
Tác giả: Amartya Sen đoạt giải Nobel kinh tế năm 1998, giáo sư Kinh tế và Triết học tại Đại học Harvard, Hoa Kỳ, tác phẩm mới nhất là The Idea of Justice, Pengiun Books, 2010.
Tác phẩm: Bản Việt ngữ sau đây được dịch từ Anh ngữ “Passage to India” đăng trong The New York Review of Book, Volume 51, Nummer 19, December 2004.
Đại ư:
Không phải chỉ có Phật giáo mà thiên văn, toán học và y khoa tạo nên mối quan hệ
văn hóa lâu đời giữa Trung Hoa và Ấn Độ. Qua thời gian, sự hợp tác đa dạng này
bị ch́m vào lăng quên. Hiện nay, mối quan hệ này được xiết chặt trở lại, và hai
nước có nhiều cơ hội tốt đẹp để học hỏi lẫn nhau. Trung Hoa có thể học hỏi hệ
thống dân chủ đa đảng, phương tiện truyền thông đại chúng và các biện pháp cải
thiện y tế công cộng tại Ấn Độ. Ngược lại, Ấn Độ sẽ học hỏi được những thành
công vượt bực về các biện pháp cải cách kinh tế của Trung Hoa. Tinh thần vô úy
trước bạo lực, nhiệt t́nh thảo luận công khai trước những bất đồng, sẵn sàng
chấp nhận phê b́nh để sửa sai là một trong những truyền thống đặc sắc của Phật
giáo mà Trung Hoa có thể học hỏi và áp dụng vào những cải cách chánh trị trong
tương lai. (Người dịch)
1.
Mối quan hệ trí thức giữa Trung Hoa và Ấn Độ kéo dài từ hơn hai ngàn năm và đă
để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong lịch sử của hai nước, nhưng hiện nay điều
này hầu như bị lăng quên. Nếu có đề tài nào c̣n gây được chú ư, đó chỉ là do
những tác giả có quan tâm đến lịch sử tôn giáo, đặc biệt là lịch sử Phật giáo,
một tôn giáo từ Ấn Độ du nhập sang Trung Hoa từ thế kỷ thứ nhất. Khi đó, Phật
giáo đă trở thành một sức mạnh quan trọng, nhưng khoảng hơn ngàn năm sau, bị
Khổng giáo và Lăo giáo thay thế. Nhưng tôn giáo chỉ là một phần trong lịch sử
bao la của Trung Hoa và Ấn Độ trong thiên niên kỷ đầu tiên. Một sự hiểu biết
toàn diện hơn về mối quan hệ này là tối cần thiết, không những giúp chúng ta
hiểu rơ hơn về lịch sử một phần ba dân số thế giới, mà c̣n cần bởi v́ mối bang
giao của hai nước này rất quan trọng trong các vấn đề chính trị và xă hội hiện
nay.
Một điều chắc chắn tôn giáo là một nguồn gốc chủ yếu trong sự tiếp xúc giữa
Trung Hoa và Ấn Độ, và Phật giáo là trọng tâm cho những giao lưu giữa con người
và tư tưởng của hai nước. Nhưng Phật giáo không những giới hạn ảnh hưởng trong
phạm vi tôn giáo, mà c̣n gây tác động trên các lănh vực thế tục khác như khoa
học, toán học, văn chương, ngôn ngữ, kiến trúc, y khoa và âm nhạc. Qua các du kư
của người Trung Hoa tham quan Ấn Độ, thí dụ như Pháp Hiển vào thế kỷ thứ V,
Huyền Trang và Nghĩa Tịnh vào thế kỷ thứ VII, cho chúng ta thấy mối quan tâm của
họ không chỉ là lư thuyết hay thực hành Phật giáo.[1]
Cũng tương tự như vậy, những học giả người Ấn Độ du hành sang Trung Hoa, đặc
biệt vào thế kỷ thứ VII và thứ VIII, không chỉ thuần là bậc tu hành, mà trong số
nhóm người này c̣n có nhiều người với nghề nghiệp khác như các nhà thiên văn và
toán học. Vào thế kỷ thứ
VIII, một nhà thiên văn học người Ấn Độ tên là Cồ Đàm Sĩ Đạt Ta đă trở thành chủ
tịch Ủy ban Thiên văn tại Trung Hoa.
Những sự phong phú và đa dạng của các mối quan hệ trí thức này bị ch́m vào lăng
quên qua thời gian. Hiện nay, sự lơ là này c̣n ngày càng nhiều, bởi v́ người ta
có khuynh hướng phân loại dân chúng thế giới qua các nền văn minh khác nhau, mà
chủ yếu là định nghĩa theo tiêu chuẩn tôn giáo. Một thí dụ quen thuộc nhất là lí
thuyết của Samuel Huntington. Ông ta phân chia thế giới theo tiêu chuẩn văn minh
Tây phương, Hồi giáo và Ấn độ giáo. Do đó, người ta có khuynh hướng chỉ t́m hiểu
con người qua tín ngưỡng tôn giáo, mà phần lớn những yếu tố này không thể nắm
bắt được. Quan điểm chật hẹp này là một điều tác hại, đặc biệt nó không giúp
chúng ta t́m hiểu về những khía cạnh khác của lịch sử tư tưởng một cách toàn
diện hơn. Thí dụ như hiện nay có nhiều người c̣n thành kiến rằng lịch sử của
người Hồi phần chủ yếu là dựa vào lịch sử Hồi giáo. Quan điểm này coi nhẹ những
phát triển về khoa học tự nhiên, toán học và văn chương thu lượm đưọc qua những
thành quả của giới trí thức người Hồi, đặc biệt trong khoảng thời gian từ giữa
thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XIII. Hậu quả của cái nh́n hạn hẹp thuần tôn giáo này
giúp cho thành phần hoạt động cực đoan bất măn đi tới chỗ suy nghĩ cực kỳ kiêu
ngạo về sự thuần khiết của Hồi giáo, thay v́ hănh diện lịch sử Á Rập dựa trên sự
phong phú và đa dạng. Tại Ấn Độ cũng vậy, những người Hindu cực đoan cố t́nh
giản lược nền văn hoá Ấn Độ đa dạng chỉ là văn hóa Hindu, và chỉ thích sử dụng
khái niệm này, đó là một đặc điểm chung của lư thuyết gia Huntington và những
chính trị gia Hindu.
C̣n một khuynh hướng thứ hai cho là có một sư tương phản lạ lùng và sai lầm
trong việc t́m hiểu và diễn đạt những tư tưởng của Tây phương và không phải Tây
phương. Khi giải thích những công tŕnh không phải Tây phương, các nhà b́nh luận
thựng có khuynh hướng xem tôn giáo đóng một vai tṛ quan trọng, và họ quên đi
những khía cạnh thế tục khác của các công tŕnh này.Thí dụ như có một số ít
người coi những công tŕnh khoa học của Issac Newton trước hết phải hiểu theo ư
nghĩa của Thiên Chúa giáo, dù hiển nhiên Newton là một tín đồ Thiên Chúa giáo.
Phần đông người khác lại không xác quyết rằng những đóng góp khoa học của Newton
cần được giải thích theo chiều hướng của ánh sáng thần bí học. Chính những suy
đoán nhuốm màu thần bí đă có một ư nghĩa quan trọng và đă thúc đẩy ông theo đuổi
những công tŕnh này.
Khi nói về những nền văn hóa không phải Tây phương, người ta có một cái nh́n
khác biệt. Ở đây chủ thuyết giản lược vào tôn giáo có ảnh hưởng sâu đậm. Nhiều
học giả thường cho rằng các công tŕnh nghiên cứu quy mô của các học giả Phật
giáo, hay của các môn đệ theo Mật tông, chỉ có thể hiểu được một cách đúng đắn,
khi người ta hiểu được giáo lư và các phương thức tu tập.
2.
Mối quan hệ giữa Trung Hoa và Ấn Độ được khởi đầu, không phải là Phật giáo mà là
thương mại. Từ hơn hai ngàn năm trước, thói quen tiêu thụ của người Ấn, đặc biệt
là giới nhà giàu, bị ảnh hưởng sâu xa từ những tân tiến của Trung Hoa. Trong một
tài liệu nghiên cứu về t́nh h́nh kinh tế và chính trị của Kautila, học giả về
tiếng Sanskrit, soạn thảo vào thế kỷ thứ IV trước Công nguyên, và được bổ sung
thêm vào vài thế kỷ sau đó, th́ tơ lụa của Trung Hoa là một trong những sản phẩm
hiếm quí. Ngay trong thiên hùng ca cổ Mahabharata và trong “bộ luật về
Manu” th́ tơ lụa của Trung Hoa được đề cập tới như là những quà tặng.
Theo nhiều danh tác bằng tiếng Sanskrit vào đầu thiên niên kỷ đầu tiên th́ phẩm
chất của các sản phẩm Trung Hoa được đề cao, ngay trong kịch bản “Sakuntala” do
Kaladasa soạn ra vào thế kỷ thứ V cũng có đề cập, ông có lẽ là một nhà thơ và
soạn kịch tài hoa nhất trong văn chương cổ điển tiếng Sanskrit. Qua kịch bản này
th́ vua Dusyanat, trong một chuyến đi săn, đă gặp một thiếu nữ đẹp tuyệt trần
tên là Sakuntala. Ông thú nhận yêu nàng say đắm bằng cách tự ví von với chiếc cờ
bằng lụa phất phơ trong gió:
Thân tôi tiến về phía trước,
ḷng tôi chùng lại và thoái lui
như dải lụa đào
đang phất phơ trong gió
Trong kịch bản “Harsacarita”, do Bana soạn ra từ thế kỷ thứ VII, nàng Rajyasri
xinh đẹp đă mang trang phục lộng lẫy của ḿnh bằng lụa Trung Hoa trong ngày hôn
lễ. Trong văn chương Sanskrit thời kỳ này, có vô số bằng chứng khác nói về những
sản phẩm của Trung Hoa du nhập vào Ấn Độ, thí dụ như long năo, son, hàng da quí,
táo và đào.
Trong khi Trung Hoa cung ứng cho Ấn Độ từ trên 2000 năm những sản phẩm vật chất
th́ Ấn Độ đă du nhập Phật giáo sang Trung Hoa, ít nhất là vào đầu thế kỷ thứ
nhất. Lúc đó, theo lời mời của hoàng đế Mingdi thời nhà Hán, hai vị sư người Ấn,
Dharmaraska và Kasyapa Matanga, đă du hành sang Trung Hoa. Sau đó cho đến thế kỷ
XI, có vô số học giả và sư tăng người Ấn đă tiếp tục đến Trung Hoa. Hằng trăm
dịch giả và học giả đă chuyển các kinh điển từ tiếng Sanskrit sang Hoa ngữ. Công
tŕnh phiên dịch tiến hành với một tốc độ đáng ngạc nhiên. Mặc dầu làn sóng dịch
thuật này chấm dứt vào cuối thế kỷ XI, khoảng giữa năm 982 đến năm 1011, có
chừng hơn 200 bộ kinh từ tiếng Sanskrit được dịch.
Học giả đầu tiên đă viết rất chi tiết về chuyến du hành Ấn Độ của ḿnh là Pháp
Hiển. Ông gốc ở miền Hoa Nam, sang Ấn thỉnh kinh Phật, để sau này về dịch lại.
Sau một chuyến đi gian khổ hướng về Bắc Ấn, xuyên qua vùng Khotan, nơi Phật giáo
có ảnh hưởng mạnh, ông đă đến Ấn Độ vào năn 401. Mười năm sau ông trở về bằng
đường biển. Khi vượt qua cửa khẩu sông Hằng, không xa với Calcuta ngày nay, ông
cũng đă thăm Sri Lanka theo Phật giáo và Java theo Hồi giáo. Trong mười năm ở Ấn
Độ, Pháp Hiển đă chiêm bái nhiều nơi, sưu tầm nhiều tài liệu, và sau đó dịch
sang Hoa ngữ. Trong cuốn Phật quốc kư lục, ông đă mô tả khá chi tiết về
Ấn Độ và Sri Lanka. Pháp Hiển cũng lưu lại nhiều năm ở Patalipura (Patna), nơi
ông không những nghiên cứu kinh điển Phật giáo mà c̣n mà c̣n học hỏi về ngôn ngữ
và văn chương. Như chúng ta sẽ thấy sau này, ông c̣n quan tâm đến hệ thống y tế
của Ấn Độ.
Nhưng Huyền Trang là tăng khách nổi tiếng nhất từ Trung Hoa thăm Ấn Độ vào thế
kỷ thứ VII. Học giả này đă đi trong 16 năm dài xuyên qua Ấn Độ để thỉnh kinh
Phật, và để sau đó lúc về Trung Hoa dịch lại. Ông cũng đă lưu lại nhiều năm ở Na
Lan Đà, một tu viện nổi tiếng, không xa Patna lắm. Lúc ở Na Lan Đà, ngoài việc
nghiên cứu Phật giáo ra, Huyền Trang c̣n tham khảo các lănh vực y khoa, triết
học, luận lư, toán học, thiên văn và ngữ pháp. Lúc về Trung Hoa, ông được hoàng
đế nghinh đón trọng thể[2]
Nghĩa Tịnh, một vị sư đến Ấn Độ sau Huyền Trang, cũng lưu lại Na Lan Đà, ngoài
nghiên cứu Phật giáo của ḿnh, ông c̣n t́m hiểu thêm y khoa và y tế công cộng.
3.
Công tŕnh dịch thuật kinh điển Phật giáo của Nghĩa Tịnh gồm có cả những bài
kinh của các tín đồ Mật tông mà truyền thống bí truyền giữ một vai tṛ quan
trọng trong thiền định. Mật tông đă có ảnh hưởng mạnh tại Trung Hoa vào thế kỷ
thứ VII và VIII. Các học giả theo Mật tông quan tâm đặc biệt đến toán học, có lẽ
thoạt đầu v́ có sự liên hệ trong sự màu nhiệm của Mật tông với các con số. Những
nhà toán học Mật tông cũng ảnh hưởng mạnh đến toán học Trung Hoa.
Theo Joseph Needam th́ Nghĩa Tịnh (672-717) là đồ đệ quan trọng nhất của Mật
tông và là một nhà thiên văn và toán học Trung Hoa tài hoa nhất vào thời ấy.[3]
Là một tu sĩ, ông thông thạo Sanskrit và am tường toán học Ấn Độ.
Nhưng nếu cho rằng những công
tŕnh toán học của ông bị ảnh hưởng từ Phật giáo, quả là một điều sai lầm. Là
một nhà toán học, và do sự t́nh cờ, trở thành một môn đệ của Mật tông, những
phân tích toán học của ông không liên hệ ǵ đến tông phái này. Ông giải những
bài toán cổ điển bằng cách tính ra tổng số những tính huống có thể xảy ra trong
một bàn cờ tướng. Ông quan tâm đặc biệt đến cách tính để làm lịch, và theo lịnh
của nhà vua, ông cũng triển khai một loại lịch mới cho Trung Hoa.
Những nhà thiên văn người Ấn Độ sống ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ VIII nghiên cứu
đặc biệt khoa học về làm lịch. Họ cũng biết sử dụng các phương pháp triển khai
của lượng giác, đă h́nh thành trước đó tại Ấn Độ. Thành tựu này vượt xa hơn cả
lượng giác tại Ấn Độ mà nó bắt nguồn từ nguồn Hy Lạp. Cũng chính trong thời kỳ
này, thiên văn và toán học Ấn Độ, kể cả lượng giác, đă ảnh hưỏng đến toán học và
khoa học của thế giới Á Rập, qua công tŕnh dịch thuật của Aryabhata,
Varahamihira, Brahmagupta và nhiều người khác nữa.
Tư liệu của Trung Hoa cho thấy, nhiều nhà thiên văn và toán học Ấn Độ đă giữ
nhiều chức vụ quan trọng trong thời kỳ này tại thủ đô Trung Hoa. Một trong số
người này là Cồ Đàm, ngài không những chỉ giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Thiên văn
Trung Hoa, mà c̣n trước tác nhiều bảng tổng kết nổi tiếng về thiên văn, Kayvan
Zahnjing, một danh tác cổ điển vào thế kỷ thứ VIII. Ngài đă phóng tác một vài
một công tŕnh thiên văn của Ấn Độ và phổ biến tại Trung Hoa. Một trong số những
tác phẩm này là Juizhi li, nói về cách soạn lịch thuộc về hành tinh ở Ấn Độ. Tài
liệu này căn cứ vào một kinh sách cổ điển Sanskrit, được nhà toán học Ấn Độ
Vaharamihira trước tác vào khoảng năm 55 sau Công nguyên. Đây là công tŕnh chủ
yếu nhắm vào việc hướng dẫn kỹ thuật toán học cho việc ước tính những khoảng
thời gian của nhật và nguyệt thực, dựa trên đường kính của mặt trăng, và những
thông số liên hệ khác. Những kỹ thuật liên hệ đề ra những phương pháp này do
Aryabhata lập ra vào cuối thế kỷ thứ V, sau này được các môn đệ triển khai, đặc
biệt là Varahamihira và Bramaguta.[4]
Yang Jingfen, một nhà thiên văn học Trung Hoa vào thế kỷ thứ VIII, đă mô tả
nguồn gốc Ấn Độ của ngành thiên văn Trung Hoa như sau:
“Ai muốn biết về vị trí của ngũ hành tinh, đều phải chấp nhận phương pháp soạn
lịch của Ấn Độ. …Chúng ta
có ba nhóm học giả về chuyên về lịch Ấn Độ, Chiayeh, Cồ Đàm và Chumoli, cả ba
đều làm việc tại ủy ban thiên văn... Nhưng phương pháp phổ biến nhất là của Cồ
Đàm, cùng kết hợp với công tŕnh ‘một nghệ thuật vĩ đại’, do chính quyền đề ra”.[5]
Những nhà thiên văn học Ấn Độ nêu trên đă không đến Trung Hoa nếu không có mối
quan hệ trước đó với Phật giáo.
Nhưng những đóng góp này không
thể chủ yếu gọi là công tŕnh cho Phật giáo.
4.
Trong các tài liệu về văn hóa và văn minh, đă có nhiều đề tài thảo luận đặc biệt
cáo giác về sự cô lập của văn hóa Trung Hoa và những nghi ngờ các tư tưởng ngoại
nhập. Quan điểm này được viện dẫn trong những năm gần đây để giải thích sự chống
đối của Trung Hoa trước những phong trào đ̣i hỏi dân chủ hóa. Tuy nhiên, sự giải
thích đơn giản này không nói lên được tại sao Trung Hoa sẵn sàng chấp nhận nền
kinh tế thị trường trong nước và tại hải ngoại tiếp theo những cải cách kinh tế
của năm 1979, trong khi đó, giới lănh đạo lại kiên quyết không đồng ư cải cách
dân chủ chánh trị. Trên b́nh diện trí thức, Trung Hoa thật ra không hề tự cô lập
như thường được người ngoài suy đoán. Sự thật ở đây khác hẳn.
Về điểm này, mối quan hệ của Trung Hoa và Ấn Độ đóng một vai tṛ quan trọng. Ấn
Độ là quốc gia duy nhất trong thế giới bên ngoài mà các học giả Trung Hoa đến để
học tập. Điều này đă xảy ra. Chúng ta ghi nhận được hơn hai trăm học giả lỗi lạc
Trung Hoa đă lưu trú một thời gian dài ở Ấn Độ. Trong nửa hậu bán của thiên niên
kỷ đầu, người Trung Hoa chủ yếu đi thỉnh kinh Phật và tư liệu bằng tiếng
Sanskrit, nhưng họ cũng quan tâm đến các lănh vực khác. Một vài ảnh hưởng của Ấn
Độ thể hiện rơ, thí dụ như sử dụng những thuật ngữ và khái niệm thiền bắt nguồn
từ dhyana, cũng như đề tài kịch nghệ Trung Hoa bắt nguồn từ các chuyện kể bằng
tiếng Sanskrit, như chuyện tiên nữ rải hoa.[6]
Học giả Hoa Kỳ John KIeschnick đă chứng minh rằng kiến trúc về chùa chiền và cầu
cống của Trung Hoa phần lớn đều chịu ảnh hưởng Phật giáo Ấn Độ.
[7]
Dĩ nhiên sự giao lưu kiến thức giữa Trung Hoa và Ấn Độ đi theo hai chiều. Joseph
Needham đă thử liệt kê một danh sách những ư niệm toán học từ Trung Hoa lan
truyền sang Ấn Độ. Ông lập luận rằng đă có nhiều ư niệm từ Trung Hoa đến Ấn Độ
hơn là ngược lại. Ấn Độ tiếp nhận nhiều hơn trong việc giao lưu hai nền văn hóa.[8]
V́ thiếu bằng chứng trực tiếp về sự giao lưu tư tưởng đặc thù, với chiều hướng
riêng biệt nào, giữa hai nước, nên Needham cho là tư tưởng di động từ một nước
khi người ta t́m ra những chứng tích đầu tiên cho sự sử dụng. Phương pháp này bị
các nhà sử học và khoa học khác mạnh bạo phê b́nh, như Jean Claude Martzloff.
[9] Điều hiển nhiên là tư liệu chứng minh tại Ấn Độ hầu như đă
mất đi rất nhiều so với Trung Hoa.[10]
Nhưng điều quan trọng nhất thật ra là đă có quá nhiều giao lưu tư tưởng về toán
học, khoa học, cũng như những đề tài không liên quan ǵ đến tôn giáo giữa hai
nước.
5.
Việc trao đổi tư tưởng và kỹ năng trong toán học và khoa học vẫn c̣n là trọng
điểm trong thế giới mậu dịch hiện nay, cho dù chỉ quan hệ đến sự phát triển công
nghệ thông tin, hay những phương thức công nghiệp hiện đại. Có lẽ, điều không
được sáng tỏ hiện nay, là cả hai nước đă học hỏi lẫn nhau như thế nào, trong
việc mở rộng phạm vi truyền thông công cộng và cải thiện các phương thức y tế
công cộng. Nhưng hai khía cạnh này đă rất quan trọng trong mối quan hệ trí thức
giữa Trung Hoa và Ấn Độ trong thiên niên kỷ đầu tiên mà đến nay vẫn c̣n đóng vai
tṛ chủ yếu.
Về phần tôn giáo, Phật giáo ngay từ khởi thủy đă có hai đặc điểm được xem là đặc
biệt: thuyết bất khả tri và nhiệt t́nh tham gia thảo luận các vấn đề công cộng.
Theo sử liệu, những cuộc họp công khai đầu tiên nhằm giải quyết các vấn đề tranh
chấp về tự do tín ngưỡng và các vấn đề khác, đă xảy ra tại Ấn Độ, trong các đại
hội Phật tử được tổ chức chặt chẽ, nơi các tín đồ tranh luận những quan điểm dị
biệt nhau. Một đại hội kết tập được tổ chức lần đầu tiên tại Thành Vương Xá
(Rajagriha) sau ngày Phật nhập Niết bàn, cách đây vào khoảng 2500 năm. Đại hội
kết tập lần thứ ba, được tổ chức tại thủ đô Patna, dưới sự chủ tŕ của hoàng đế
A dục (Askosa), vào thế kỷ thứ II trước Công nguyên. Vua A Dục cũng đă điển chế
và cho lưu hành những quy luật đầu tiên liên quan đến những cuộc thảo luận công
cộng, đây là một bản văn loại xưa nhất về “Quy Luật Trật Tự của Robert.” Thí dụ
như ông đ̣i hỏi rằng cần giới hạn sự phát biểu để tránh tự ca ngợi tông phái của
ḿnh và tránh nhục mạ đến tông phái khác trong một thời điểm không thích hợp.
Những nhiệt t́nh phát biểu nên thận trọng, ngay cả trong những thời điểm phù hợp
nhất.
Những cuộc thảo luận công khai và có lập luận hợp lư là trọng tâm của nền dân
chủ (như John Stuart Mill, John Rawls và Jürgen Habermas, ba người chính trong
số nhiều người khác, đă từng lập luận). Thực ra, nguồn gốc của dân chủ bắt nguồn
một phần từ trong truyền thống thảo luận công cộng, mà tại Ấn Độ, Trung Hoa,
Nhật Bản, Đại Hàn và nhiều nơi khác ở Á châu đă hấp thụ được tinh thần đối thoại
trong Phật giáo. Đây là một điều giải thích tại sao những thử nghiệm về ngành in
sách tại Trung Hoa, Đại Hàn và Nhật Bản thoạt đầu do những Phật tử đảm nhận.[11]
Cuốn sách in đầu tiên trên thế giới, đúng hơn là cuốn sách in đầu tiên mà đến
ngày nay đưọc ghi nhận, là bản dịch kinh Kim Cang từ Sanskrit sang Hoa Ngữ, được
in vào năm 868 sau Công nguyên. Mặc dù kinh Kim Cang là một kinh điển thuần túy
tôn giáo, nhưng đây là một cống hiến đáng ca ngợi vào thế kỷ thứ IX. Theo lời
tựa, đây là một tác phẩm phân phối miễn phí cho đại chúng, trong một chương
tŕnh giáo dục dân chúng.
John Kieschninich ghi nhận rằng một trong những lư do về tầm quan trọng của kinh
điển trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa dựa trên niềm tin cho là người ta sẽ
tạo phúc đức trong việc phổ biến kinh sách. Ông cũng lập luận rằng niềm tin này
bắt nguồn từ Ấn Độ.
[12] Có nhiều cơ sở cho quan điểm này, chắc một điều là có một
mối quan hệ thông cảm sâu xa giữa vua A dục, cũng là một Phật tử, và đại chúng.
Vị vua này cũng đă dựng nên những bia đá lớn, ghi các luật đạo đức công cộng, có
cả luật về lập luận
Sự phát triển ngành in đă có những kết quả đáng kể trong việc phát triển dân
chủ. Nhưng trong ngắn hạn nó mở ra những khả năng mới cho những cuộc thảo luận
công khai và gây những tác động sâu xa trong sinh hoạt xă hội và chính trị tại
Trung Hoa. Trong số những yếu tố khác, phải kể đến ảnh hưởng của nền giáo dục
Khổng giáo tân thời. Như Theodore de Bary ghi nhận: “Giáo dục phụ nữ đạt được
một tầm quan trọng mới nhờ vào sự khai thông giáo dục trong thời nhà Tống, và mở
rộng giáo dục Khổng giáo thời nhà Minh, được ghi nhận bằng sự phát triển của
ngành in, xóa nạn mù chữ và giáo dục học đường.”
[13]
6.
Mối quan hệ giữa Trung Hoa và Ấn Độ trong lănh vực y tế công cộng rất quan
trọng, nhưng ít được biết tới. Sau khi Pháp Hiển tới Ấn Độ vào năm 401 sau Công
nguyên, ông quan tâm tới các công tác về chăm sóc y tế công cộng. Những cơ sở y
tế phục vụ công cộng tại thành phố Patna vào thế kỷ thứ V đă gây cho ông những
ấn tượng tốt đẹp:
“Những người nghèo và bất hạnh… và tất cả những người bệnh tật, đều đi đến các
cơ quan này, họ được giúp đỡ đủ thứ, và các thầy thuốc chữa trị cho họ. Họ nhận
được thực phẩm và thuốc men trong trường hợp cần thiết và họ cảm thấy thoải mái.
Khi họ hết bịnh th́ họ tự động ra về.”
[14]
Dù những lời mô tả về những y viện tại Patna vào thế kỷ thứ V có vẻ tâng bốc quá
lố hay không (mà h́nh như vậy), điều đáng nói là ḷng mong muốn học hỏi của Pháp
Hiển về những phương thức cung ứng các dịch vụ y tế của các nơi mà ông tới thăm
trong một thập niên.
Hai thế kỷ rưỡi sau, Nghĩa Tịnh cũng quan tâm đến vấn đề y tế công cộng. Ông đă
dành riêng ba chương sách để nói về đề tài này trong một tác phẩm của ông về Ấn
Độ. Những phương thức trị liệu của Ấn Độ đă gây cho ông những ấn tượng mạnh mẽ
hơn các kiến thức về y học. Ông tin vào những phương thức trị liệu của Ấn Độ
nhằm giảm đau nhức và khó chịu, thí dụ như bơ loăng, mật ong, nước đường trị cảm
lạnh. Ông kết luận rằng: “Trong nghệ thuật trị liệu bằng châm cứu và bắt mạch
th́ Trung Hoa không hề qua mặt được Ấn Độ, nhưng những phương thuốc làm tăng
tuổi thọ chỉ do Trung Hoa t́m ra”. Mặt khác, ông viết thêm, có nhiều điều cần
phải học hỏi ở Ấn Độ về phương diện y tế công cộng. Người Ấn Độ biết dùng vải
trắng sạch để lọc nước, trong khi đó, tại Trung Hoa người ta dùng vải lụa. Ở
Trung Hoa, người ta ăn cá và dùng rau quả hầu hết không nấu chín, mà không một
người Ấn Độ nào làm như vậy”. Khi Nghĩa Tịnh vui mừng khi về lại nước của ḿnh,
ông cũng tự đặt ra một câu hỏi rất tế nhị: “Có người nào dù ở đâu trên đất Ấn Độ
mà không khâm phục Trung Hoa?” Ông cũng đề ra phương cách đánh giá những ǵ mà
Trung Quốc có thể học hỏi được ở Ấn Độ.
7.
Y tế công cộng là đề tài mà một nước này có thể học được ở một nước khác. Điều
rơ ràng là hiện nay Ấn Độ đă phải học hỏi nhiều ở Trung Hoa. Thật ra tuổi thọ
trung b́nh tại Trung Hoa đă tăng cao hơn tại Ấn Độ trong nhiều thập niên qua.
Tuy nhiên, lịch sử về việc gia tăng tuổi thọ trung b́nh của hai nước đem lại
nhiều chuyện thú vị. Ngay sau thời kỳ cách mạng Mao, Trung Hoa đă phát động sớm
việc cung ứng y tế công cộng lan rộng, và Ấn Độ không có ǵ để so sánh được với
Trung Hoa trong thời kỳ này. Vào năm 1979, khi Đặng Tiểu B́nh du nhập các cải
cách kinh tế, th́ một người Trung Hoa trung b́nh sống 14 lâu năm hơn người Ấn
Độ.
Sau cải cách kinh tế 1979, nền kinh tế Trung Hoa tăng trưởng mạnh và nhanh hơn
Ấn Độ. Mặc dù kinh tế Trung Hoa phát triển vượt bực, nhưng từ năm 1979, tỷ lệ
tuổi thọ trung b́nh tại Ấn Độ đă tăng gấp ba lần nhanh hơn Trung Hoa. Tuổi thọ
trung b́nh hiện nay tại Trung Hoa vào khoảng 71, tại Ấn Độ là 64. Khoảng cách về
tuổi thọ trung b́nh là 14 năm nghiêng hẳn về phía Trung Hoa vào năm 1979. Đến
nay đă giảm xuống 7 năm.
Thực ra th́ tuổi thọ trung b́nh là 71 tuổi tại Trung Hoa c̣n thấp hơn một vài
nơi ở Ấn Độ, đặc biệt là tại tiểu bang Kerala. Kerala là một tiểu bang với 30
triệu dân, rộng hơn một vài nước khác. Kerala đă thành công trong việc kết hợp
nền dân chủ đa đảng kiểu Ấn Độ (gồm có những thảo luận công khai và sự tham dự
của dân chúng vào sinh hoạt công cộng), với sự cải thiện về hệ thống y tế, qua
sáng kiến của nhà nước, theo mô thức mà Trung Hoa đă áp dụng sau thời kỳ cách
mạng.
[15] Ưu điểm của sự kết hợp này cho thấy, không phải chỉ đạt kết
quả ở phạm vi tuổi thọ trung b́nh mà c̣n ở nhiều lănh vực khác. Thí dụ như tỷ lệ
phụ nữ so với nam giới trong toàn thể dân chúng tại Trung Hoa chỉ là 0,94, toàn
thể Ấn Độ là 0,93, trong khi tỷ lệ tại Kerala là 1,6, giống như tỷ lệ tại Bắc Mỹ
và Tây Âu.
[16] Tỷ suất cao này phản ảnh sự sống lâu của nữ giới khi mà họ
không phải chịu sự trị liệu khác nam giới. Việc giảm tỷ lệ sinh sản tại Karala
cũng nhanh hơn tại Trung Hoa một cách đáng kể, đặc biệt là chính sách cưỡng bách
kiểm soát sinh sản.
[17]
Cùng lúc với cải cách tại Trung Hoa vào năm 1979, th́ tuổi thọ trung b́nh tại
Kerala không thấp hơn Trung Hoa là bao. Tuy nhiên, giữa năm 1995 và năm 2000
(thời điểm cuối mà số liệu thống kê về tuổi thọ trung b́nh ở Ấn Độ có thể cập
nhật đưọc), tuổi thọ của Kerala là 74, cao hơn số liệu cuối cùng của Trung Hoa
là 71 vào năm 2000.[18]
Hơn nữa, từ sau cải cách kinh tế 1979, tỷ lệ tử vong của trẻ em ở Trung Hoa giảm
một cách chậm chạp, trong khi đó, ở Kerala, tốc độ giảm cực kỳ nhanh chóng. Vào
thời kỳ cải cách 1979, tỷ lệ tử vong trẻ em ở Kerala hầu như tương đương với ở
Trung Hoa, 37 phần ngàn. Tỷ lệ đạt được hiện nay là 10 phần ngàn, chỉ c̣n một
phần ba so với Trung Hoa. Trung Hoa đă không có những tiến bộ nào đáng kể trong
thập niên vừa qua.
Có hai yếu tố liên hệ đến vấn đề dân chủ có thể giải thích được tại sao có sự
tiến triển chậm chạp trong vấn đề gia tăng tuổi thọ trung b́nh, mặc dầu những
thành quả phát triển kinh tế rất tốt đẹp. Trước hết, cải cách kinh tế 1979 đă
loại bỏ mọi bảo hiểm sức khỏe công cộng miễn phí, hầu hết dân chúng phải tự bỏ
tiền mua bảo hiểm sức khỏe tư nhân, ngoại trừ trường hợp chủ nhân đóng bảo hiểm,
nhưng đây là trường hợp rất ít xảy ra. Việc loại bỏ phục vụ y tế công cộng quí
giá này đă tạo nên một sự chống đối chánh trị không đáng kể, hiển nhiên điều này
sẽ gây chấn động nếu nó xảy ra ở một nền dân chủ đa đảng.
Thứ hai, dân chủ và tự do chánh trị không những tự nó có giá trị, nhưng nó c̣n
đóng góp trực tiếp vào việc thiết lập chính sách công, kể cả y tế công cộng, khi
những khuyết điểm của chính sách xă hội được thảo luận và đầu phiếu công khai.
[19] Ấn Độ đă cung ứng những cơ sở tiện nghi y khoa với phẩm
chất cao cho những người tương đối giàu có và người ngoại quốc đến Ấn Độ để trị
bịnh, nhưng dịch vụ y tế cơ bản tại Ấn Độ vẫn c̣n nghèo nàn, điều này chúng ta
đă biết qua những lời chỉ trích mạnh mẽ từ báo chí Ấn Độ. Nhưng những lời phê
b́nh nghiêm khắc tạo cơ hội cho chúng ta có dịp sửa đổi. Thực ra, những phúc
tŕnh thường xuyên về sự thiếu sót trong dịch vụ y tế tại Ấn Độ, và những nỗ lực
thu lượm được để cải thiện, là nguồn gốc về một thế mạnh tại Ấn Độ. Điều này
phản ánh sự cách biệt trong mức giảm thiểu đáng kể về tuổi thọ trung b́nh tại Ấn
Độ và Trung Hoa. Thế mạnh này cũng phản ảnh được những thành tựu khi Kerala biết
kết hợp sự tham gia dân chủ cùng với sự quan tâm cao đến các vấn đề xă hội. Sư
nối kết giữa truyền thông công cộng và chăm sóc sức khỏe được thể hiện rơ, qua
những hậu quả tai hại khủng khiếp trong việc bưng bít chung quanh bịnh dịch SARS
tại Trung Hoa. Bệnh dịch này từ lúc khởi đầu từ tháng 11 năm 2002 bị dấu nhẹm
đến mùa xuân năm sau.
[20] Trong khi Ấn Độ đă phải học hỏi rất nhiều từ chính sách kinh
tế và xă hội của Trung Hoa, th́ những kinh nghiệm về thông tin công cộng và dân
chủ của Ấn Độ cũng đáng cho Trung Hoa học hỏi. Cũng cần nên nhắc lại là tinh
thần vô úy và chống đối quyền lực thâm nhập vào Trung Hoa qua Phật giáo đến từ
Ấn Độ. Điều này đă bị người Trung Hoa phê phán kịch liệt qua những đợt đầu tiên
đấu tố về Phật giáo.
Fu Yi một nhà lănh đạo Khổng giáo vào thế kỷ thứ VII đă dâng sớ với vua Tống để
tố giác Phật giáo. Thật ra điều này có một vài sự tương đồng với sự tấn công vào
môn phái Luân Công gần đây:
“Phật giáo đă thâm nhập vào Trung Hoa bằng một h́nh thái quái dị và man rợ. Điều
này ít nguy hiểm hơn khi từ thời nhà Hán, kinh điển Phật giáo được dịch sang Hoa
ngữ. Sự phổ biến kinh sách này đưa đến một ảnh hưởng thù nghịch là làm thay đổi
ḷng trung thành đối với quân vương, ḷng tôn kính cũng giảm đi. Dân chúng bắt
đầu có thói quen bắt tay và không chịu cúi đầu trước quân vương và tổ tiên.”
[21]
Fu Yi đề nghị không những cấm chỉ truyền bá đạo Phật mà c̣n đưa ra phương cách
mới nhằm đối phó với hàng mười ngàn người hoạt động tại Trung Hoa. “Tôi xin yêu
cầu Ngài bắt hết họ phải lập gia đ́nh và dạy cho con cái họ sau này gia nhập
quân đội”. Như chúng ta đă biết, nhà vua không làm theo cách ấy để loại trừ sự
bất khuất của Phật giáo.
Với thành công đáng kể, Trung Hoa đă trở thành một nhà lănh đạo kinh tế thế
giới, và Ấn Độ, cũng như nhiều nước khác trên thế giới đă học hỏi rất nhiều ở
quan điểm này, đặc biệt là trong thời gian gần đây. Nhưng những thành tựu về sự
tham gia dân chủ tại Ấn Độ, kể cả tại Kerala, cho thấy rằng Trung Hoa, về phần
ḿnh, cũng có thể học hỏi một cái ǵ đó ở Ấn Độ. Thực vậy, lịch sử của các cuộc
thử nghiệm nhằm vượt qua sự cô lập của Trung Hoa - đặc biệt trong suốt hậu bán
thiên niên kỷ đầu tiên- vẫn luôn luôn c̣n thú vị và bổ ích cho thế giới ngày
nay.
[22]
Nguồn: The New York Review of Book, Volume 51, Nummer 19, December
2004.
[1]Có
nhiều cách phiên âm khác nhau các nhân danh này: Pháp Hiển (Faxian, Fa Shien,
Fa-hien), Huyền Trang (Xuanzang, Hiuan-tsang và Yuang Chwang) và Nghĩa Tịnh (Yi
Jing, I Tsing và I- Ching).
[2]Hai
cuốn sách hay viết rất hay về chuyến du hành của Huyền Trang: Richard Berstein,
Ultimate Journey: Retracing the Path of an Ancient Buddhist Monk Who Crossed
Asia in Search of Enlightement, Kopft, 2001; Sun Shunyn, Ten Thousand
Miles Without a Cloud, Harper Collins, 2003
[3]Joseph
Needham, Science and Civilization in China, Vol. 2, Cambridge University
Press 1956, p. 427.
[4]Một
thí dụ thú vị về sự truyền đạt về tư tưởng và thuật ngữ có thể t́m thấy qua khái
niệm sinus trong lượng giác học. Theo một tài liệu toán học, do Arybhata viết
bằng tiếng Sanskrit vào năm 499 sau Công nguyên, jya-ardha, sau này được dùng
ngắn gọn là jya, mà sau này chúng ta dùng là sinus. Các nhà toán học Á Rập cũng
chuyển âm jya này sang jiba và sau này đổi thành jaib, có nghĩa là vinh. Ư niệm
này sau đó được Gherardo of Crenoma (khoảng 1150) dịch sang tiếng La tinh, có
nghĩa là Sinus hiện nay.
Xin đọc thêm Howard Eves, An Introduction to the History of Mathematics,
Sauder, 6th ed. 1990; Jean Claude Martzloff, A History of Chinese Mathematics,
Springer 1997.
[5]Needham,
Science and Civilization, Vol. 3, p. 22, 12, 37; Amartya Sen, “India
through Its Calendars”, The Little Magazines, No. 1 Delhi 2000.
[6]Mandari
xuất phát từ tiếng Sanskrit là mantri, có nghĩa là tư vấn đặc biệt, du nhập sang
Trung Hoa, sau này qua Malaya.
[7]John
Kieschnick, The Impact of Buddhism on Chinese Material Culture, Princeton
University Press 2003.
[8]Needham,
Science and Civilization in China, Vol. 3, p. 146-148.
[9]Martzloff,
A History of Chinese Mathematics, p. 90.
[10]John
Kieschnick, The Impact of Buddhism on Chinese Material Culture, Princeton
University Press 2003, p. 166.
[11]Dường
như cũng đă có những thử nghiệm đầu tiên trong việc in của Phật tử Ấn Độ. Nghĩa
Tịnh cho rằng đă có những h́nh Phật in trên lụa hoặc giấy ở Ấn Độ, nhưng chỉ là
bước sơ khai trong việc in h́nh.
Xem thêm Needham, p. 148-149.
[12]Kieschnik,
p. 164.
[13]W.
M. Theodore de Bary, Neo Confucian Education, Source of Chineses Tradition,
2nd. ed. 1999 Vol. 1 p. 820.
[14]James
Lages, The Travels of Fa-Hien or Record of Buddhist Kingdom, Patna,
Eastern Book House 1993, p. 79.
[15]Tuy
nhiên Kerala ít thành công hơn trong việc đạt đưọc mức độ tăng trưởng cao về
tổng sản lượng quốc dân, chỉ bằng với Ấn Độ, nhưng lại thấp hơn so với các tiểu
bang khác của Ấn Độ. Theo ước lượng của Ngân hàng Thế giới, ngoài những thành
tựu trong hai lănh vực giáo dục và y tế công cộng, Kerala đạt được tốc độ tăng
trưỏng nhanh nhất. Drexe,
India:
Development and Participation,
Oxford University Press, 2002, section 3.8, p. 97-101.
[16]Amartya
Sen, “More Than 100 Million Women Are Missing”, The New York Review
December 2, 1999; “Missing Women”, British Medical Journal , Vol. 33,
March 7, 1992; “Missing Wonen Revisited”, British Medical Journal, Vol.
327, December 6, 203.
[17]Amartya
Sen,“Population, Delusion and Reality”, The New York Review, September
22, 1994; “Fertility and Coercion”, University Chicago Law Review, Vol.
63 Summer 1996.
[18]National
Bureau of Statistics of China, China Statistical Yearbook 2003, Table
4-17 p. 118. Về tuổi thọ trung b́nh th́ ở các thành phố lớn của Trung Hoa,thí dụ
như Thượng Hải và Bắc Kinh, cao hơn so với Kerala, nhưng hầu hết những tỉnh khác
của Trung Hoa th́ thấp hơn Kerala.
[19]Về
mối quan hệ này giống như so sánh những nạn đói đă không xảy ra ở những nước dân
chủ, dù rằng rất nghèo, xem: Amartya Sen, “How is India Doing”, The New York
Review, December 16, 1982; Amartya Sen & Jean Dreze, Hunger and Public
Action, Oxford Claredon Press 1989. Những năm đói lớn đă xảy ra vào cuối
thời kỳ thuộc địa Anh tại Ấn (nạn đói tại Bengal 1943 chỉ xảy ra 4 năm trước khi
Ấn Độ dành độc lập) và biến mất khi Ấn thiết lập được nền dân chủ đa đảng. Ngược
lại Trung Hoa đă bị những trận đói dữ dội, chết trên 3 triệu người, từ 1958-61.
[20]Có thể là những sự phát triển kinh tế bất quân b́nh trong
thời gian gần đây làm giảm đi những tiến bộ trong vấn đề tuổi thọ trung b́nh.
Thật ra ở Ấn Độ cũng có vấn đề bất công kinh tế, nhưng không phổ biến như tại
Trung Hoa. Chính v́ sự bất công kinh tế càng gia tăng là một lư do thất bại của
chính quyền trong cuộc bầu cử tháng 5. Yếu tố khác cho sự thất bại này là vi
phạm quyền thiểu số của người Hồi trong cuộc nổi loạn tại Gurajat.
[21]Prabodh
C. Bagch, India and China: A Thousand Years of Cultural Relations,
Calcutta Sarawat, Library revisited edition, 1981, p. 134.
[22]Một
tiểu luận dài hơn về tất cả các đề tài này sẽ được đăng trong The
Argumentative India, Penguin Book. 2005.
Chú thích của người dịch: