Khai bút Xuân Tân Măo: Hịch đánh chuột chù
Như thường lệ, vào ngày đầu năm mới, tại hạ đều
có bài “khai bút” đầu Xuân. Năm nay, nhân Tân
Măo lên ngôi, tại hạ “đổi tông” không viết
“thường văn,” bắt chước cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu
viết “hịch văn” đánh chuột.
1. Thường nghe: Tụ linh trời đất, một gốc Âu Cơ.
2. Giống Rồng Tiên nhân nghĩa làm đầu, gịng Lạc
Việt chẳng ưa cường bạo.
3. Kẻ dưới Yết Kiêu, Dă Tượng c̣n biết yêu nước
thương ṇi; Người trên Hưng Đạo, Nhân Tông minh
tâm quân thần vi phụ tử.
4. Ḱa Ngư đánh cá, Tiều đốn củi, đời cũng nhờ
no ấm quanh năm; Nọ Canh trồng trọt, Mục chăn
nuôi, người cậy trông an vui sớm tối.
5. Nền Đại Việt ngàn năm dựng nước, há buông tha
đứa bán nước buôn dân; Non Tảng Viên trăm trận
sấm rền, đâu dung dưỡng loài thuồng luồng thủy
quái.
6. Nay có loài chuột: Nh́n chẳng khác người, mạo
danh ở đợ.
7. Tính hay cướp bóc, ḷng tợ sói lang.
8. Chỗ ăn ở trên trước dân lành; Đường qua lại
mồ hôi quần chúng.
9. Nơi đông người vội vàng chạy mất, núp kẹt núp
hang; Chờ đêm khuya ào ạt chui ra, bầy đàn cướp
bóc.
10. Gọi danh hiệu: Chuột già, chuột trẻ, chuột
trắng, chuột đen, chuột mập, chuột ốm, chuột
đực, chuột cái, chuột hói đầu, chuột râu rậm,
chuột móm, chuột hô, chuột đầu bạc, chuột trán
dồ, chuột đầu đinh, chuột lùn tịt, chuột cao
nghều,… lũ lượt chường mặt cả ḍng cả họ; Tra
quán chỉ(1): ở nhà, ở ruộng, ở phố, ở chợ, ở
chung cư, ở nhà lầu, ở biệt thự, ở chỗ sang
trọng… là nơi đăng kư trên giấy tờ, thực chất ở
lỗ cống, hầm cầu, kẹt cửa, gầm giường, xó bếp,
thùng rác khách sạn, đáy quần đàn bà,… ôi thôi
lắm lối.
11. Lớn nhỏ đều quen nghề cướp bóc, gặp lương
dân hạch sách hung hăng; Trên dưới cả bầy đàn
gian manh, kiến chuột ngoại bưng bô, quỳ lạy.
12. Lẽ cũng một ḍng Âu Lạc, cần lấy thân báo
quốc an dân; Vốn là con cháu Tiên Rồng, nên dốc
sức tài bồi Tổ quốc.
13. Cớ sao lại ḷng đen như mực? Cớ sao tâm ác
tợ quỷ ma?
14. Đất ông cha bao thuở dâng Tàu; Mặt đít thớt
ôm chân chú Chệt.
15. Gạo thóc của dân nuôi béo mập, chúng ăn rồi
đánh chửi lại trả ơn; Tiền mồ hôi xương máu
chúng vung tay, ai hó hé chúng giam cầm, bịt
miệng.
16. Rừng núi xác xơ, tài nguyên cạn kiệt, gây
họa tai dân nô lệ xứ người;Tham tàn nhũng nhiễu,
bưng bít thông tin, gieo tang tóc làm của kho
trống rỗng.
17. Vậy cũng tự xưng ḿnh “trí tuệ”; Vậy cũng
khoe “chính nghĩa sáng ngời”.
18. Chẳng xét ḿnh chuyên núp dưới hầm cầu;
Chẳng tự biết quen ŕnh ṃ bên vách.
19. Như nước Việt “vốn xưng nền Văn hiến”, v́
chúng bay nên nhục nhă với người ngoài; Bến B́nh
Than hội nghị Diên Hồng, do lũ chuột tắt tiếng
gầm Sát Thát.
20. Bao phen ỷ bầy đàn cướp bóc, nào sợ chi mặt
thớt đít trâu; Lắm khi nanh nhọn, chuột bầy, đâu
hăi lũ bị miệng đời nguyền rủa.
21. “Nền xă tắc là nơi báo bổ”(2), cớ chi mi lợi
dụng tiêu hoang; Chốn phụng thờ là chỗ thanh
tâm, cớ chi mi ŕnh ṃ nghe lén.
22. Làm hỏng cả một thế hệ, trách chi câu đạo
đức suy đồi; Nổi danh “lưỡi gỗ” mặt trơ, làm
“hề” khắp năm châu bốn biển.
23. Đồng bọn nửa thế gian c̣n vài đứa, “khen cho
mi quỷ quái chẳng chừa”(3); Gậy Phi long Linh
Cát đập tưng bừng, vẫn dày mặt gặm cân cà rốt.
24. Thiên Can cho đứng đầu ngôi nhất, tưởng đâu
bay thay đổi tánh t́nh; Thập Địa Chi luân chuyển
tuần hoàn, phường gian ác tâm không biết hối.
25. Súc sanh bấy tập đoàn nghiệt thử, đẻ ra sau
đ̣i làm cha của toàn dân; Quư báu ǵ tư tưởng
tanh hôi, đem son phấn trét lên ung nhọt.
26. “Tuy là tướng hữu b́ hữu cốt, thật là loài
vô lễ vô ngh́” (4)
27. “Luận tội kia đă đáng phân thi, thứ tay nọ
cũng v́ kiêng vật”(5).
28. Giận là giận cái quân ăn cướp, mà c̣n mở
miệng nói Thánh hiền; Căm là căm cái lũ côn đồ,
dám vác mặt phô ra Thánh lễ.
29. Ngao ngán bấy tập đoàn chuột thúi, biết ngày
nào diều quạ phanh thây; Nực cười thay một lũ
chuột tham, rồi có lúc rắn rồng nuốt trửng.
30. Ví có ngăn ḍng Nam Hải, khôn bề rửa sạch
tội bọn mi; Dẫu đốt hết trúc Nam Sơn, tiếng bán
nước ngàn đời bất xá.
31. “Tội dường ấy đă nên ác quá; Ta tới đây há
dễ nhiêu dung”(6).
32. Ấn Tiên phong Tân Măo; Quân tập hậu Tỵ,
Th́n.
33. Sắm sửa mực thiêng bút sắt; Trau dồi trí lực
quyết tâm.
34. Gióng trống sấm Hưng Đạo xuất binh; Phất cờ
lau Tiên Hoàng tập trận.
35. Đuốc Công Lư sắm sẵn, để chờ khi đốt ổ chuột
chù; Đèn Sự Thật mang theo, nhằm chờ dịp phanh
phui hang tối.
36. Hàng hàng vạn vạn cánh tay, cùng vung lên
phá hồ lỗ(7) chuột.
37. “Phải nghe ta dặn, sắm sửa đủ đồ”: Đau xót,
oán hờn, căm thù, phẫn nộ.
38. Cáo trạng(8) mất đất mất nhà, thượng kỳ: xẻ
thịt phơi thây; Văn tế bán nước bịt miệng, hạ
dĩ: thỏa ḷng thiên hạ.
39. Chớ để con nào chạy thoát, gậy Linh Cát ra
tay lấp biển dời non; Đừng cho chúng toàn thây,
gươm Phao-lô giương oai sấm sét.
40. Nhà nhà hát chữ thanh b́nh; Muôn dân vui câu
thịnh vượng.
Tạ Phong Tần
Chú thích:
(1): Chỗ ở.
(2)
(3) (4) (5) (6)
(7): Chữ dùng trong bài Thảo thử hịch
của Nguyễn Đ́nh Chiểu.ểu.
(8): Sào huyệt bọn cướp.