Fax: +493046795841 Email: thongtinberlin@gmail.com Tel. +4917678132650

www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de

Mạn Đàm Với Yung Krall con gái của một Đại Sứ Việt Cộng
trỡ thành gián-điệp nhị trùng giúp CIA và FBI phá vỡ lưới TB CS tại Hoa Kỳ

 

Lâm Lễ Trinh


Giới chính trị và văn hóa nghệ thuật đă khai thác mạnh, dở nhiều hơn hay, đề tài chiến tranh Việt nam trong nhiều thập niên sau khi tiếng súng ngưng nổ tại Đông Dương. Về chính trị, nhiều sự thật chưa tiết lộ hết. Mong rằng các tài liệu xác thực sẽ được giải mật lần hồi để đưa ra trước ánh sáng lịch sử những bí ẩn và bài học bổ ích cho hậu thế.
Trong phạm vi điện ảnh, Hollywood và Pháp đă sản xuất một loạt phim thương mại nhằm vuốt ve thị hiếu đồi trụy và phản chiến của lớp khán giả hiểu biết hời hợt về VN.
Một số phim, đếm trên đầu ngón tay, ít nông cạn hơn nhưng không đưa ra được một thông điệp nghiêm chỉnh. Trên phương diện văn hóa, các tác giả Việt sản xuất hăng hái, lượng nhiều phẩm yếu, phần đông viết hồi kư và chuyện giả tưởng.
Một vài tác phẩm của Duyên Anh, Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài và Nguyễn Chí Thiện được chuyển ngữ. Đọc giả ngoại quốc đặc biệt tán thưởng hai bản dịch tiếng Pháp (Le Chagrin de la guerre) và tiếng Anh (The Sorrow of War) của quyển tiểu thuyết "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh. Rất tiếc, sách này chưa phổ biến sâu rộng ở nước ngoài, ngay cả trong cộng đồng người Việt. Tại Hoa kỳ, tác giả Việt sáng tác bằng tiếng Anh lại càng hiếm hoi.
Năm 1989, với sự trợ giúp của Day Wurts, Lê Lư Hayslip cho xuất bản tại Double Day Publishers, New York, quyển "
When Heaven And Earth Changed Places, A Vietnamese woman's journey from War to Peace " tiểu thuyết hóa cuộc đời gian truân của một thiếu nữ dân giả Việt kẹt giữa hai lằn đạn quốc gia và cộng sản. Chương chót của sách kêu gọi ḥa giải, ḥa hợp dân tộc. Olivier Stone, nhà đạo diễn danh tiếng của hai phim phản chiến Platoon và Born On the Fourth Of July, đă dùng cốt truyện vừa nói để h́nh thành cuồn phim "Heaven And Earth, Thiên Đường và Hạ Giới" với tài tử Lê Thị Hiệp, sinh tại Quảng Nam như Lê Lư Hayslip. Lần này, O. Stone tỏ ra già giặn hơn nhưng cái nh́n của y về cuộc chiến VN vẫn c̣n phiến diện v́ nhiều đoạn trong phim không thiết thực.
Cuối năm 1995, nhà xuất bản Longstreet Press, Atlanta, Georgia, cho phát hành ấn phẩm "Một Ngàn Giọt Lệ Rơi, A Thousand Tears Falling" của một phụ nữ Việt khác tên Yung Krall tự Đặng Mỹ Dung, với lời giới thiệu nồng nhiệt của Griffin B. Bell, nguyên Bộ trưởng Tư pháp thời Tổng thống Carter.

Quyển tự thuật này, dày 412 trang, khác với tác phẩm " When Heaven And Earth" về nhiều khía cạnh:

* Tác giả là một phụ nữ thuộc giới trung lưu gốc Cần Thơ, tŕnh độ trên trung học, sinh năm 1946, hoạt động trong ngành t́nh báo CIA, đồng thời là nhân viên của FBI.
Điểm đáng lưu ư:
*
Thân phụ của Yung Krall là Đặng Quang Minh, một thành viên cấp cao trong Đảng CSVN và Đại sứ của Chính phủ Giải Phóng Miền Nam tại Bắc Âu và Liên Sô.
Năm 1968, tác giả lập gia đ́nh với Trung úy phi công Hải quân Mỹ John J. Krall. Sau khi bất chấp hiểm nguy giúp chính quyền Hoa kỳ phá vỡ năm 1978, mạng lưới t́nh báo Việt cộng tại Mỹ gồm có Đinh Bá Thi, Trương Đ́nh Hùng và đồng bọn, tác giả từ nhiệm và về sinh sống tại Atlanta.
Đương sự đă phải viết thơ khiếu nại thẳng với Đề đốc Stansfield Turner, Giám Đốc CIA, và mặt khác, nhờ Văn pḥng Luật sư Quinlan J. Shea Jr, Columbia, Maryland, căn cứ vào Luật Thông tin Tự do, quyết liệt tranh đấu nhiều tháng mới được phép thực hiện quyển hồi kư MNGLR.
Cả hai, Griffin Bell và Quinlan Shea, nơi trang 8 và 142 trong sách, đều đề cao Yung Krall như " truly a great American, a genuine American hero ".
Phê b́nh về các tác phẩm tả thực bi kịch VN, Gs Douglas Pike, thuộc Đại học Berkeley , viết:

* " Yung Krall's A Thousand Tears Falling is one of the best of this genre, if not the best ".
Ngày 19. 4. 1996, tại buổi lễ ở Kennesaw State College, GA, Ủy ban Georgia Author of the Year Committee đă bầu Đặng Mỹ Dung một trong 45 tác giả đặc sắc nhứt trong năm.
Ngày 18 tháng 4 1998, Đại hội toàn quốc Society Daughters of The American Revolution, Hoa kỳ, tặng cho đương sự tại Hoa Thịnh Đốn huy chương danh dự về thành quả phục vụ cộng đồng và đất nước.
Giới Lập pháp và các hội đoàn cựu chiến binh Mỹ cũng thường mời Yung Krall tŕnh bày về vấn đề VN.
Để giúp đọc giả Việt nhận định về mối nguy nan do hoạt động t́nh báo của CS Hànội tạo ra tại Hoa kỳ , nhứt là đối với cộng đồng di cư chúng ta , tác giả bài này đă phỏng vấn Yung Krall về quyển sách của cô và nhiều chi tiết bên lề.
Xin tóm lược sau đây các điểm chính yếu .

T́nh phụ tử sâu đậm không hàn gắn nổi những dị biệt chính trị giữa cha con .
17 chương đầu của hồi kư MNGLR dành để tŕnh bày cuộc sống của gia đ́nh tác giả từ 1945 đến 1954 trong chiến khu Nam bộ và từ 1954 đến 1975 trong vùng quốc gia.
Thân phụ của Yung Krall xuất thân là một giáo viên, tên thật Đặng Văn Quang, sau đổi thành Đặng Quang Minh, sinh năm 1909 tại Vĩnh Long, hoạt động cho CS từ lúc 18 tuổi, bị Pháp bắt giam năm 1930 và sau 1940, đày ra Côn đảo cho đến 1945.
Thân mẫu của Yung Krall là bà Trần Thị Phàm, có 7 người con, hai trai và năm gái. Yung Krall là người con thứ tư trong gia đ́nh.
Trước Hiệp định Genève, Đăng Quang Minh đắc cử Dân biểu Cần thơ trong Quốc hội CS và năm 1954, rút về Bắc để làm việc trong ngành ngoại giao.
Trong 10 năm chống Pháp và Chính phủ quốc gia, Đặng Quang Minh cùng gia đ́nh đổi vùng thường xuyên, từ Ông Giẹo, Ba Ngọn (Cần thơ ) qua Kim Quy, Cảng Chú Hàng ( Chương Thiện ) để tổ chức kháng chiến.
Yung Krall kể lại rằng cha cô lắm lúc vắng mặt nhiều tháng, có lẻ qua Thái lan mua vơ khí, và khi về nhà th́ thường phải cải trang ẩn núp để tránh Mật thám Pháp truy lùng.
Tại Ông Giẹo, Lê Đức Mai, sau này đổi tên thành Mai Chí Thọ, em ruột của Lê Đức Thọ, thường lui tới với gia đ́nh cô.
Cuối 1953, Lê Đức Thọ, từ Hà nội vào, có đến chủ tọa một phiên nhóm cán bộ tại Cảng Chú Hàng. Sau Hiệp ước Genève, Đặng Quang Minh tập kết ra Bắc với Khôi, đứa con trai đầu ḷng 18 tuổi.
Đặng Mỹ Dung - lúc đó vừa lên chín - cùng với mẹ và chị em về tá túc tại nhà ông ngoại ở Long Thành, Cần thơ. Trong gia đ́nh của Dung, các chú vài cô đều hoạt động cho CS nhưng mẹ và ông ngoại, thủ cựu, th́ lại không chấp nhận chủ nghĩa xă hội bất nhân. Sự dị biệt về lư tưởng, tuy nhiên, không làm sứt mẻ t́nh thương kính lẫn nhau.
V́ biết không thuyết phục nổi vợ con thay đổi lập trường, Đặng Quang Minh không t́m cách gây áp lực quá đáng. Trong suốt cuộc chiến VN, mỗi gia tộc là một thảm cảnh phân chia - h́nh ảnh chung của đất nước!
Với những thân nhân sanh Bắc tử Nam hay trái lại. Gia đ́nh của tác giả MNGLR không phải là một biệt lệ. Trước khi tập kết, Đặng Quang Minh thận trọng cho thủ tiêu tất cả h́nh ảnh chụp chung với y, lập khai sanh khác cho các con, ghi cha "vô danh" và sửa tờ khai gia đ́nh. Y hứa hai năm sẽ trở lại. Không ngờ hai mươi mốt năm sau, về nơi sinh quán th́ gia đ́nh đă bỏ "thiên đường CS" vĩnh viễn ra đi.
Từ 1954 cho đến ngày Miền Nam sụp đổ, Đặng Mỹ Dung và gia quyến sống lang bạt, hụp lặn trong mọi thử thách vất chất, an ninh và tinh thần. Dung lớn lên như cỏ dại ,với mặc cảm ray rứt của một người con không cha, "cha vô danh" mặc dù biết rơ cha c̣n đó, bên CIA vĩ tuyến.
Xong Trung học tại trường Phan Thanh Giản Cần thơ năm 1964, lúc 18 tuổi, Dung liền tim việc làm để giúp đỡ gia đ́nh. Nhờ xông xáo, xốc vác, kiên nhẫn - và cả may mắn - Dung được Pḥng 5 Tâm lư chiến Quân đội VNCH của Đại úy Nguyễn Đạt Thịnh, Vùng 4 Chiến thuật, tuyển vào chân phóng viên.
Nơi đây, Dung tập viết lách và thu thập kinh nghiệm về chiến tranh tâm lư. Có một lúc, Dung bị An ninh Quân đội điều tra nhưng mọi việc không đi đến đâu.
Thân mẫu của Dung phải dẹp tiệm may và dời về Sàig̣n sinh sống sau một cơn bịnh nặng, Dung t́m ra được một job kế toán - điện thoại viên tại Đông Nam Ấn Quán trả lương chết đói. Dung thất vọng, một ḿnh trở lại Cần thơ xin tái phục vụ tại Pḥng Tâm lư chiến củ.
Không đầy một năm sau, Dung nhớ gia đ́nh và thấy tương lai không có triển vọng nên trở lên Sàig̣n, nhờ hai người chị, sẵn làm cho Mỹ, giới thiệu vào giúp việc tại Trung tâm BOQ, Bachelor Officers' Quarter.
Tại đây, Dung gặp Trung úy Hải quân John James Krall và sau vụ tấn công Tết Mậu thân 1968, cả hai rời VN về Monterey , Californie để làm đám cưới. Lúc đó, hai người chị của Dung đang sống tại Mỹ vả ba chị em đă trở thành công giáo.
Hăi Vân, người em trai của Dung, 21 tuổi, t́nh nguyện gia nhập Không quân và được Bộ Quốc pḥng VNCH gởi tu nghiệp tại Lacland, Texas.
Đầu tháng giêng 1971, Hải Vân tử nạn trong một chuyến bay tập dượt gần Savannah , Georgia . Năm 1973, Yung Krall về thăm gia đ́nh tại Sàig̣n và nhân dịp này, nhận góp phần bảo trợ Cô nhi viện Minh Trí tại G̣ vấp .
Đầu 1975, John Krall đổi qua Fleet Weather Central, Hawai. Bất thần một buổi sáng, Yung Krall nhận một cú điện thoại từ Paris của một người Pháp xưng tên Jean Sagan, bạn thân của Đặng Quang Minh, báo tin Miền Nam VN sắp sụp đổ và thúc Yung Krall di tản gấp mẹ và em ra khỏi xứ.
Yung Krall sực nhớ lại ba năm trước, có nhận được cũng của kẻ trung gian bí mật này một bao thơ (không ghi tên người gởi ), cũng từ Pháp, chuyển một số h́nh của Đại sứ Đặng Quang Minh chụp ở Hà nội chung với Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh và tại Mạc Tư Khoa và Mông cổ.
T́nh nguyện làm gián điệp để di tản gia đ́nh. Tái ngộ với cha để chia tay vĩnh viễn.
T́nh thế trở nên nguy kịch sau ngày Ban Mê Thuột và Quảng Trị thất thủ. Chị của Yung Krall, kết hôn với một sí quan Hoa kỳ tên Wray Allan Hall, không chịu tiết lộ cho chồng biết lai lịch của cha.
Thiếu tá John Krall xin nghỉ phép 30 hôm, liều bay cấp bách về Sàig̣n vận động đem nhạc mẫu và em vợ qua Hoa kỳ. Trên nguyên tắc, chuyến ra đi này bất hợp pháp v́ lúc đó, Ngũ Giác Đài cấm ngặt sĩ quan Mỹ vào VN nếu không có công vụ lệnh của cấp chỉ huy trực tiếp.
Yung Krall sốt ruột v́ không biết việc ǵ xảy ra cho chồng và gia đ́nh tại VN nên nghĩ ra giải pháp táo bạo:
* Điện thoại cầu cứu thẳng vói Đề đốc Gaylor, Tư lệnh Hạm đội Thái B́nh Dương.
Sau nhiều khó khăn, Dung được nói chuyện, xác nhận chức vụ của cha, tŕnh bày nguy cơ của mẹ và luôn cả cuộc điện đàm với Jean Sagan.
Đề đốc Gaylor liền cho Thiếu tá Hải quân Dave Smith tiếp Dung hỏi thêm chi tiết. Trong lần gặp gỡ này, để chắc ăn, Dung đánh lá bài chót:
*
Cô t́nh nguyện "cộng tác với chính phủ (HK) nếu và khi nào cần đến".
Đề nghị có hiệu quả mau chóng. Không đầy 24 giờ sau, một nhân viên CIA mặc thường phục, tên Bob Jantzen, đến tận nhà, sốt sắng ghi đầy đủ lư lịch của thân nhân của Yung Krall. Bob cũng hứa thông báo cho Ṭa Đại sứ HK tại Sàigon biết sự hiện diện của John Krall ở VN. Tham vụ ngoại giao Grant Ichikawa, nhờ thế, liên lạc được với John để sắp xếp mọi việc. Ngày 10.4.1975, John Krall yên tâm, trở về Mỹ trước. Vài hôm sau, mẹ và hai em vợ đến an toàn tại phi trường Honolulu.
Đầu tháng 6.1975, Bob Jantzen cho Yung Krall gặp sĩ quan đặc trách, case officer Robert Hall (hay Rob) là người có phận sự trong hệ thống CIA theo dơi công tác, ra chỉ thị và nhận báo cáo Rob lập một hồ sơ đầy đủ về Yung và đề nghị Yung theo học một khóa huấn luyện tại trung tâm Langley ở Washington.
Ngày 20.7.1975, tại Hickam, Yung vui mừng đọc trong báo Japan Times một tin ngắn cho biết ngày 5 tháng 8, hai phái đoàn Hà nội và Mặt trận giải phóng Miền Nam do Đổ Xuân Oánh và Đặng Quang Minh hướng dẫn sẽ tham dự Hội nghị quốc tế chống bom nguyên tử và khinh khí tại Tokyo. Yung, mừng tủi lẫn lộn, liền bay qua Nhựt với đứa con trai Lance, 5 tuổi, để gặp lại cha sau trên 20 năm xa cách.
Có 2 diễm đáng ghi trong cuộc tái ngộ này:
1. Đặng Quang Minh nghi quyết đế quốc Mỹ đă âm mưu sát hại con trai là phi công Hải Vân trong phi vụ tại Georgia để trả thù Minh theo CS. Minh không tin lời cải chính của Yung đây chỉ là tai nạn.
2. Trước mặt nhân viên CS, Đặng Quang Minh không dám công nhận con và cháu ngoại. Y giới thiệu họ là " người cùng làng ! " Yung buộc ḷng phải đóng tṛ xưng hô " Bác, Cháu "với cha. Trong những lần nói chuyện riêng với thân sinh về một số vấn đề chính trị, Yung khổ tâm nhận thấy một thế giới chia cách hai người và thỏ lộ sự thất vọng. Đ.Q. Minh an ủi khi chia tay:" Ba không t́m cách thay đổi con nhưng xin con đừng dày xéo những xác tín của Ba. Nếu con thoải mái với điều con tin tưởng th́ Ba cũng mừng thấy con hài ḷng !". (trang 247, 254, hồi kư).
Trung tuần tháng 9.1975, Yung làm thủ tục đem mẹ qua Paris gặp thân phụ trong dịp ông công tác tại Pháp. Trước ngày khởi hành, xếp Xịa Jerry Parker tiếp Yung tại một nông trại Virginia và ngỏ ư muốn giúp sĩ quan VC Đặng Văn Khôi đào thoát khỏi Bắc Việt. Khôi là anh cả của Yung, chuyên về tên lửa, guided missiles, từng được huấn luyện tại Trung quốc và Liên Sô.
Rob được lịnh qua Paris theo dơi việc làm của Yung.
Phan Thanh Nam, xử lư thường vụ Ṭa Đại sứ GPMN đặt ở 44 Đại lộ Madrid, Neuilly -sur- Seine, chỉ định "sinh viên " Phạm Gia Thái lái xe đưa mẹ con Yung về ngụ tại một ngôi nhà ở Verrières-la- Buisson. Đồng thời, Thái có phận sự làm hướng đạo cho hai người khách. V́ không muốn Thái ḍ xét hành tung của ḿnh, Yung từ chối, viện lẽ đă thuê pḥng tại khách sạn. Nam được Bắc bộ phủ gài trong MTGPMN.
Không để mất thời giờ, vài hôm sau, Nam gặp riêng Yung để t́m hiểu về chức vụ và khả năng chuyên môn của John Krall trong Quân đội HK, đề nghị Krall giúp Hà nội, khuyến dụ Yung về Mỹ vận động dư luận quần chúng đ̣i Hoa Thịnh Đốn bồi thường 3,5 tỳ đô cho VN và yêu cầu mẹ Yung - nếu không về Việt Nam - th́ ít nữa cũng theo Đs Minh qua Moscou v́ Chính phủ Sô viết "hiến cho vé máy bay Aéroflot miễn phí".
Nam không thuyết phục được thân mẫu của Yung v́ bà dư biết nh
à cầm quyền CS không tha thứ vợ một cán bộ cao cấp từ chối tập kết, bỏ nước ra đi và hơn nửa, gă hai con gái cho " Mỹ ngụy". Vả chăng, Đs Minh không ngại cho vợ biết điểm này.
Những ngày vui mừng tái ngộ qua mau. Mẹ Yung quyết định cho Nam biết dứt khoát bà phải trở về Hoa kỳ để săn sóc gia đ́nh và thoái thác dự buổi cơm do Vơ Văn Sung, Đại sứ Bắc Việt, khoản đăi. Bà cảm thấy nhẹ nhơm khi lên máy bay về Hoa Kỳ v́ những hôm chót, nhiều kẻ lạ mặt lui tới nơi địa chỉ cư ngụ, làm bà lo sợ bị bắt cóc.
Vơ Văn Sung mời Yung đến sứ quán, tỏ ư muốn Thiếu tá John Krall " tiếp một tay với cha vợ, cho biết Việt cộng có một số " cảm t́nh viên " tại Honolulu và đề nghị Yung tiếp xúc làm việc với người cầm đầu Hội Việt Kiều Yêu Nước tại San Francisco.
Trở về Hawai, Yung Krall được CIA chỉ thị dời cùng chồng lên thủ đô Washington.
Hướng công tác không c̣n chú trọng đến nạn nhân của CSVN và từ nay, nhắm vào hệ thống chỉ huy CS ở nước ngoài. Yung được bố trí đóng vai tṛ "
gián điệp nhị trùng" để lấy tin. Một vai tṛ tế nhị và nguy hiểm mà Yung chấp nhận.
Yung trở qua Paris vài tháng sau để bắt liên lạc với Huỳnh Trung Đồng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Việt kiều. Trong nhiều tuần lễ, Đồng dẫn Yung viếng trụ sở và thư viện chứa đầy tài liệu tuyên truyền, tham dự những buổi học tập của cán bộ và gặp các phần tử thiên tả Việt - Pháp.
Đồng trao cho Yung nhiều ấn phẩm Anh - Việt để phổ biến tại Hoa kỳ. Đặc biệt, Đồng dặn Yung tiếp xúc với cán bộ Nguyễn Thị Ngọc Thoa, người cầm đầu một hệ thống t́nh báo CS tại Hoa Thịnh Đốn.
Sĩ quan đặc trách Rob Hall - khi được thông báo mọi việc - ngăn Yung gặp Thoa v́ cho rằng công tác phản gián là phần vụ cảnh sát của FBI, không liên hệ đến CIA chỉ chú trọng về chính trị. Y hăm sẽ băi nhiệm Yung nếu bất tuân lịnh:
* Không một ai được phép làm việc cùng một lúc với CIA và FBI.
Yung bướng bỉnh căi lại rằng cô làm việc không lương cho CIA từ 9 tháng nay, v́ thế không bị ràng buộc bởi hợp đồng nào và cô sẽ nhờ chồng tường tŕnh lên Đề đốc Bobby Inman, Giám đốc Cục T́nh báo Hải quân.
Lúc đó, John Krall là nhân viên Pḥng Liên lạc Quốc ngoại trong cơ quan này. Vài hôm sau. Đề đốc Inman tiếp Yung.
Cô tŕnh bày nhu cầu cấp thiết phá vỡ lưới t́nh báo VC tại HK. Inman hứa sẽ thảo luận với Clarence Kelly, Giám đốc FBI.
Tháng 6.1976, nhân viên FBI Bill Fleshman và sĩ quan đặc trách CIA Bill Reardon được chỉ định làm việc với Yung Krall, từ nay một gián điệp có hợp đồng.


Vụ án Đinh Bá Thi, Trương đ́nh Hùng và đồng bọn.
Bức thơ giới thiệu của Huỳnh Trung Đồng giúp Yung Krall gặp Nguyễn Thị Ngọc Thoa dễ dàng tại một căn gác nhỏ ở 18th street N.W. thủ đô Washington. Địa chỉ này là trung tâm phát hành nhiều tài liệu tuyên truyền CS và nguyệt san Người Việt Đoàn Kết mỗi tháng in 5000 số, với sự giúp đỡ của Linh mục Trần Tam Tĩnh, Gia Nă Đại.
Thoa rất kín đáo, sống kham khổ và có một người chồng Mỹ thiên tả nhưng không ở tại đây. Hệ thống của đương sự gồm có Việt kiều thân Cộng, không đông, có căn bản học thức, phản chiến trong những thập niên 60 / 70 và hoạt động khá hăng hái. Sinh viên Trương Đ́nh Hùng, con của Luật sư Trương Đ́nh Dzu, nguyên ứng cử viên Tổng thống chống Thiệu năm 1967, là một trong các người này. Thoa và Hùng thường nhờ Yung chuyển nhiều bao thơ mật cho Huỳnh Trung Đồng và Nguyễn Ngọc Giao ở Paris .
Mỗi lần, FBI và CIA được Ṭa án cho phép chụp ảnh tài liệu để lưu trữ.
Tháng 4. 1976, nhờ Vơ Văn Sung giới thiệu,
Yung bắt liên lạc được với Nguyễn Văn Lũy, Chủ tịch Hội Việt kiều Yêu nước tại San Francisco và Lũy cho Yung gặp hai " đồng chí đắc lực" học tại Virginia Tech, Christianburg, VA. Sĩ quan đặc trách Rob Hall được tái chỉ định trở về cọng tác với Yung.
Cuối 1976,
Yung điện thoại xin đến thăm Đinh Bá Thi, Đại sứ CS tại Liên Hiệp Quốc ở New York với một bao thơ tài liệu của Trường Đ́nh Hùng. Thi vui vẻ nhận lời v́ quen thân với Đs Đặng Quang Minh. Chẳng những thế, Thi c̣n mời Yung Krall đến ở tại Sứ quán. V́ xông vào hang cọp, Yung thông báo trước cho CIA / FBI biết: nếu quá ba ngày, không nhận được tin, là có chuyện nguy. Nhân viên sứ quán vỏn vẹn gồm có Phạm Ngạc, Tham vụ phụ tá, Phạm Dương chuyên viên kinh tế, Hưng gác dan kiêm đầu bếp, và Vân tài xế kiêm vệ sĩ. Tất cả sống chung với nhau, nhịn ăn điểm tâm "để tiết kiệm", thường xuyên nghe ngóng thời sự trên 3 máy truyền h́nh và không được phép rời Nữu ước quá 25 dặm .
Theo Yung, Đinh Bá Thi tánh t́nh cởi mở và không quá khích. Y than vợ đang bịnh nặng ở VN và không được Chính phủ cho xuất ngoại.
Nhân viên ngoại giao không có quyền đem theo gia đ́nh để tránh nạn đào ngũ. Thi thông cảm nổi khó khăn thân mẫu của Yung gặp phải nếu trở về VN. Thi buồn rầu nhận định:
v "Một khi chế độ không đem lại hạnh phúc cho dân và không đưa đất nước tiến tới một tương lai hứa hẹn th́ phải thối lui và tự đặt câu hỏi : V́ sao?" (trang 312, hồi kư ).
Sau khi CIA trắc nghiệm bằng máy ḍ sự thật, polygraph test, theo thủ tục định kỳ, Yung Krall trở lại Paris , tổng hành dinh t́nh báo VC ở hải ngoại. Mỗi chuyến đều có Rob Hall đi kèm, để bảo vệ an ninh và v́ lư do nghề nghiệp .
Tuy đại diện cho MTGPMN, Phan Thanh Nam thiên hẳn về chủ trương của Hà nội xúc tiến thống nhứt gắp VN. Nam khuyên Yung không nên lộ diện với Việt kiều cánh tả để dễ làm việc mật với y.
Nam c̣n xúi Yung bề ngoài vung vít chống Cộng, để đánh lạc hướng. Yung cũng bị Pḥng Nh́ Pháp theo dơi. Pḥng thuê của cô tại khách sạn bị lục soát, điện thoại bị ghi âm. Yung phản đối, viên Giám đốc xin lỗi, nói rằng có sự hiểu lầm.
V́ tính cách hệ trọng của kỳ công tác này, Yung được gặp Dan Andrew, chỉ huy khu vực của CIA. Huỳnh Trung Đồng đề nghị Yung đứng ra thành lập một Hội Việt-Mỹ tại Hoa Kỳ v́ các nhóm Việt kiều Yêu nước ở Hoa Thịnh Đốn, San Francisco và nới khác chống đối lẫn nhau.
Chính Trương Đ́nh Hùng ( tự David Trương ) nhiều lần khuyên Yung không nên liên hệ với những nhóm " ăn hại " vừa kể.
Dù sao, theo Yung, những tổ chức này đă thu được vài kết quả:
* Móc nối với một số trí thức và khoa học gia HK hô hào giúp chính quyền Hà nội. Gs Edward Cooperman, thuộc Đại học Fullerton , Californie, sáng lập viên của Ủy ban US - VN Science & Technology Committee, là một thí dụ.
Yung xâm nhập vào hoạt động của Ủy ban. Một thời gian sau, xảy ra hai vụ:
1. Trần Văn Bé Tư mưu sát hụt KS Trần Khánh Vân, thành viên của Ủy ban nói trên và
2. Sinh viên Lâm Văn Minh hạ sát Cooperman.
Cộng đồng người Việt rất xao động về chuyện thanh toán này. Mặt khác, lúc ở Paris, Yung cũng đă lui tới với vài phần tử trước hợp tác với MTGP, nay bất măn:
* Kư giả Cao Minh Chiếm và Kỹ sư Huỳnh Ngọc Châu, rể và con của cố Huỳnh Ngọc Nhuận, một triệu phú ở Gia định từng chứa chấp tại nhà dược sĩ Hồ Thu và nhiều nhân vật kháng chiến. Sau 1975, bà Nhuận bị CS giam cầm và tịch thu tài sản .
Kể từ mùa xuân 1977, Yung bám sát hoạt động của Trương Đ́nh Hùng. Hùng nghịch với Nguyễn Văn Lũy và làm việc thẳng với Phan Thanh Nam (Paris) và Đinh Bá Thi (New York), đồng thời liên lạc trực tiếp với Hà nội.
Hùng tâm t́nh với Yung rằng, với khả năng sẵn có và giao thiệp rộng, y mơ ước ngày CIA, được "Trung Ương" giao cho
trách nhiệm điều khiển "hệ thống thông tin quốc ngoại CS" ở Hoa Kỳ, tương đương với vai tṛ giám đốc CIA Việt Nam (!).
Mộng xa vời, chưa đạt th́ xộ khám. Đúng vậy, Yung liền thông báo cho Clarence Kelley, Giám đốc FBI và Thứ trưởng Ngoại giao Warren Christopher hay khi
David Trương khoe với cô rằng y" có thể có làm những ǵ y muốn", nhờ nắm được một nhân vật (HK) "vô ra ở tầng thứ 7 của Bộ Ngoại giao" (trang 336, hồi kư ).
Cuối tháng 4.1977, Huỳnh Trung Đồng, vừa được thu nạp vào đảng CS sau một cuộc viếng thăm Hà nội, mời Yung Krall qua Paris " để chào " Thủ tướng Phạm Văn Đồng công du tại Pháp. David Trương nhờ Yung trao cho Phan Thanh Nam hai bao thơ " tối mật / tối khẩn ". Tất nhiên, FBI chụp ảnh tất cả tài liệu bên trong.
Huỳnh Trung Đồng niềm nở chào đón Yung ở Paris và giới thiệu với bốn cán bộ VC, trong đó có một phụ nữ tên Vân, nguyên phụ tá của Ngoại trưởng Nguyễn Thị B́nh tại Hội nghị Paris. Tất cả tỏ vẻ vui mừng nhận được tài liệu của T Đ Hùng để cho phái đoàn CS Việt nhóm hôm sau với đại diện của Washington về "vấn đề bồi thường chiến tranh".
Giờ chót, không rỏ lư do, Huỳnh Trung Đồng xin Yung đừng đến phi trường Orly đón Thủ tướng Đồng và dự buổi tiếp tân.
Tại HK, chiến dịch "Operation Magic Dragon" xúc tiến để tóm trọn gói tổ chức t́nh báo Việt Cộng. FBI ghi âm được đầy đủ điện đàm giữa Trương Đ́nh Hùng và Ronald Louis Humphrey, một nhân viên của USIA, US Information Agency.
Với sự đồng ư của Tổng thống Carter và giấy phép của Bộ trưởng Tư pháp Griffin Bell, FBI đặt máy thu h́nh bí mật trong văn pḥng của Humphrey và bắt quả tang đương sự trộm tài liệu bí mật quốc gia để chuyển cho Hùng.
Trong bức thơ riêng do Phan Thanh Nam nhờ Yung đưa cho Hùng , Nam viết:
*
"Hoan nghinh chương tŕnh làm việc của anh. Có những cố gắng lừa đảo và bịp lẫn nhau ".
Hùng sống thanh bạch trong một căn phố nhỏ, đầy sách và báo, ở đường F. Street và làm việc trong một tiệm gởi thư tín, đường M Street, Hoa Thịnh Đốn.
Khi Yung đến từ giă Hùng để đi Luân Đôn, nhiệm sở mới của chồng chuyển về Bộ Tư lịnh Hải quân HK tại Âu châu, Hùng đưa cho Yung một b́ thơ đựng tài liệu " lấy từ Quốc hội " để nhờ trao cho Huỳnh Trung Đồng . Hùng nói :

*
"I ran over to the Congress to get a package of that stuff " .
Đây là bao thơ cuối cùng, trước ngày Hùng bị bắt.
Yung Krall thử thi hành một kế hoạch chót trước khi thôi việc với CIA - FBI :
* Thuyết phục thân sinh từ nhiệm và giúp người anh cả là sĩ quan VC Đặng Văn Khôi trốn khỏi. CIA tặng cho Khôi 10.000 đô để trang trải chi phí.
Yung qua Paris nhờ Đs Vơ Văn Sung can thiệp với Bộ Ngoại giao CS cho Đặng Quang Minh đến Pháp gặp vợ, khai đang đau nặng.
Sung cho biết đến nay, chính phủ Hà nội không cho cán bộ nào, dù cao cấp, xuất ngoại v́ vấn đề riêng tư.
Yung đánh liều gởi hai bức thơ thỉnh nguyện cho Tổng Bí thơ Lê Duẫn và Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh, kèm theo giấy chứng bịnh (giả) của mẹ.
Bất ngờ, một thời gian sau, Lai Xuân Chiêu, xử lư thường vụ Ṭa Đại sứ VC tại Anh quốc, cho Yung hay Đs Đặng Quang Minh, trong dịp công du tại Moscou, sẽ ghé Luân Đôn.
Được thông báo, Rob (CIA ) và Bill (FBI ) đề nghị Yung hăy khuyên cha xin về hưu và di cư qua Hoa kỳ. Nếu Đặng Quang Minh cương quyết từ chối, họ sẵn sàng giúp tay để tổ chức bắt cóc.
Ngày 13.12. 1977, Đs Minh đến phi trường Heathrow. Ban ngày, Đs Minh ở tại nhà Yung, chuyện tṛ và ăn uống với vợ con nhưng ban đêm lại nhứt quyết đ̣i về ngủ tại pḥng của sứ quán dành riêng cho khách. Nói là tuân hành quy tắc chung (của CS!).
Khi nghe Yung năn nỉ về vấn đề xin về hưu để đoàn tụ với gia đ́nh, Đs Minh lắc đầu, trả lời :
* "
Đảng c̣n cần, không thể trốn nhiệm vụ!".
Đs Minh có vẻ hoảng hốt khi Yung - quá thất vọng - nói đùa:
* "
Con sẽ bắt cóc Ba!".
Cuối cùng, Yung bỏ qua ư định bắt cóc v́ biết giải pháp này sẽ vĩnh viễn đốt cháy cuộc đời của cha, chỉ biết có Đảng.
Nơi trang 382, Yung Krall chán nản kết luận:
* "
Phải có ǵ hơn phép mầu mới thắng nổi sự mê tín lư tưởng và ḷng chung thủy vô biên của cha tôi đối với chủ trương của ông!".

Mẹ Yung thấy con khổ sở bèn vỗ về:
* "
Không thể thay đổi đất nước và dân Việt bằng cách tố khổ suông CS trước mặt Ba. Đừng hành hạ Ba v́ kinh nghiệm đau đớn của con. Không phải chỉ Ba con mà là cả chế độ đă không làm được ǵ tốt cho dân tộc. Mẹ biết con khổ, Con c̣n trẻ, rồi mọi vết thương sẽ hàn gắn. Ba con không c̣n thời gian như con".

Khi tiễn cha lên máy bay, Yung cảm động bắt tay từ giă, với lời thú:
* "
Con chống Chính phủ CS. Con không chống Ba!".
Đặng Quang Minh trả lời, lạnh lùng: "
Con là con, Ba là Ba. Ba không chịu trách nhiệm về những ǵ con làm ! ". (trang 385. 395. Hồi kư
Đây là cuộc hội ngộ chót. Yung Krall quyết định giải nghệ mặc dù về thành quả công tác,
Yung được thượng cấp đánh giá như một spy catcher, super spook, superstar spy và CIA tăng nguyệt phí lên 1. 200 đô, một giá rẻ mạt, sánh với bao nhiêu công sức và hy sinh!.
Tiền không phải là mục tiêu. Yung không thiết tha ǵ nữa. Cô trả ḷi với Tony Lapham, Cố vấn CIA, và John Martin, Luật sư của Bộ Tư pháp, rằng cô sẵn sàng làm chứng (nhân chứng chính, key witness) khi Ṭa xử vụ án gián điệp VC.
Quyết định này gây nguy hiểm cho cô và gia đ́nh. Mặt khác, sẽ chấm dứt liên hệ từ nay với CIA và FBI v́ cô lộ diện. Nhưng không sao!
Ngày 31.1.1978, FBI bủa lưới bắt
Ronald Humphrey, Trương Đ́nh Hùng và đồng bọn.
Một số can phạm khác bị truy tố nhưng không bị bắt:
* Huỳnh Trung Đồng, Phan Thanh Nam , Nguyễn Ngọc Giao và Đinh Bá Thi .
Trong hồ sơ, Yung cung khai dưới bí danh Keyseat, ngụ tại 8 Regal Lane , Regent Park , London .
Giới truyền thông HK ầm ĩ tung tin về vụ án này.
Huỳnh Trung Đồng gởi cho Yung Krall một tấm thiệp căn dặn " hăy đề pḥng " v́ tới giờ chót, y vẫn không ngờ Yung là gián điệp nhị trùng.
Măi đến ngày 17.3.1978, công chúng mới biết được lư lịch thiệt của Keyseat. Yung liền nhận được nhiều thơ nặc danh hăm dọa và sỉ vả là " kẻ phản bội ".
CIA cũng không hài ḷng v́ mất một cộng tác viên đắc lực. Nỗi khổ tâm của Yung là không biết hậu quả ǵ xảy ra tại VN cho cha và anh?.
Tuy nhiên, cô không hối tiếc đă giúp lật tẩy CS phá hoại tại Hoa kỳ, đất dung thân của gia đ́nh cô.
Những tâm tư này được gởi gấm trong một hồi kư đầy kỷ niệm và nước mắt:

* "
Một Ngàn Giọt Lệ Rơi " .
Yung Krall đă biến các dày xéo của bản thân và đất nước thành mốt hành động tích cực để đấu tranh cho dân chủ. Trong những lần tiếp xúc riêng, Yung Krall đă trả lời như sau vài câu hỏi của chúng tôi :

1) Ngày 8.7.1978,
Humphrey và Trương Đ́nh Hùng bị Ṭa phạt mỗi người 15 năm tù ở về tội làm gián điệp. Humphrey có vợ Việt khi y phục vụ tại VN. Hùng có vợ Mỹ và định cư tại Âu châu sau ngày thụ án xong. Đs Đinh Bá Thi bị trục xuất khỏi HK, chết trong một tai nạn xe hơi (h́nh như do CS bố trí v́ nghi Thi " chệch hướng ").

2)
Đs Đặng Quang Minh là người của Trung ương đảng bộ gài trong MTGPMN nên vẩn tại chức đến ngày qua đời tại Sàig̣n năm 1986, v́ bịnh đau tim. Chức vụ chót của đương sự là Cố vấn Bộ Ngoại Giao CS. Có liên lạc với gia đ́nh nhưng tuyệt nhiên không hề đề cập đến vụ án.

3) Sau khi Ṭa HK tuyên xử, để đánh lạc hướng dư luận, báo chí CS viết rằng "
con của một đảng viên cao cấp CS bị CIA buộc gài bẫy Đs Đinh Bá Thi và con trai của một luật sư trong vụ gián điệp" .

4) Tháng 6. 1986, hai tháng trước khi cha qua đời, Đặng Văn Khôi, sau nhiều lần vượt biên thất bại, đến định cư tại HK. Khôi hiện sinh sống tại New York bằng nghề dạy guitar.

5) Tháng 4. 1986, thôi việc với CIA, tác giả Yung Krall, với tư cách riêng, qua Bắc Kinh 2 tuần để viếng Hoàng Văn Hoan, bạn nối khố của Hồ Chí Minh, tị nạn tại Trung Hoa và bị Lê Duẫn xử tử h́nh khiếm diện. Đặng Quang Minh và Hoàng Văn Hoan là hai con cờ được tín nhiệm của Điện Cẩm Linh và Bắc Kinh bên cạnh Hồ Chí Minh. Đặng Quang Minh trung thành với Hà nội đến cùng, c̣n Hoan th́ đào thoát qua Trung quốc v́ chống cánh Duẫn - Thọ. Yung Krall sẽ viết bài tường thuật vụ tiếp xúc hi hữu này.

6) Một sô tài liệu về vụ án Đinh Bá Thi - Trương Đ́nh Hùng đến nay chưa được giải mật nên không thể ghi vào hồi kư MNGLR.
Hoa kỳ lập bang giao và giao thương với Việt Nam là tạo cơ hội cho Hà nội mở rộng lưới gián điệp t́nh báo tại Mỹ trong mọi lănh vực:

• Văn hóa, kinh tế và chính trị.

Cách đây không lâu, thêm một lần nữa, cơ quan FBI đă phải lên tiếng báo động và kêu gọi cộng đồng Việt giúp tay chận đứng sự xâm nhập của cộng Sản Việt Nam .

Trên ba thập niên chiến tranh, chủ nghĩa xă hội tại VN là chất bạch phiến đă ru ngủ và mê hoặc dân chúng nhẹ dạ. Ḷng yêu nước thiết tha và mù quáng của họ bị lợi dụng bỉ ổi . Đối với nhiều lớp người, chủ thuyết Mác Lê là một tôn giáo trên mọi tín ngưỡng, luôn luôn chủ trương ”tử v́ đạo“, chà đạp lư trí và lô gíc. Chỉ thắc mắc mà thôi, đủ xem như phản bội. Con người CS quy hóa không khác đứa trẻ con bị đóng hộp, lớn lên và chết ṃn giữa bốn bức tường thành khóa chặt. Lần hồi, trong tim phổi và linh hồn của lớp cán bộ đỏ, Mác Lê đă thay thế tổ tiên và đất nước.

Ngày nay, chủ nghĩa xă hội chỉ c̣n là một lư thuyết rỗng tuếch, mất hết hấp lực, hào khí và linh nghiệm.

Nhóm cầm quyền tại Bắc bộ phủ xuưt xoa t́m cách bôi đỏ, dậm vá một món đồ cổ đă phai màu và tróc sơn.

Tái xích hóa không phải là lối thoát khôn ngoan.

Lối thoát là mở mắt nhận thức Dân chủ, Nhân quyền và Kinh tế thị trường đang tiến trong thế giới đổi khác hằng ngày.

Sự thực – thật vậy, chỉ có sự thực – mới giải thoát. V́ ù ĺ lẩn tránh sự thực, CS không bao giờ canh tân nổi cho đến ngày cuồng phong cách mạng đào thải chúng .

Đọc qua ba bài chỉ trích chủ nghĩa xă hội của Phan Đ́nh Diệu, Trần Độ và Hoàng Hữu Nhơn sẽ thấy ngay những khác biệt giữa một chiến sĩ dân chủ, một thành viên CS phản tỉnh và một cán bộ chưa gột sạch chất nhựa mạc xít.

Điều đáng tiếc là trong cả ba, không một ai đặt thẳng vấn đề với Trung ương đảng bộ:

Tẩy khỏi Hiến pháp điều 4 đề cao độc quyền đàng trị.

Chừng nào họ mới dám bước thêm bước quyết định này?

-----------------------------

 

Yeltsin , một cựu thành viên CS biết quá nhiều, đă khẳng định:
"CS không bao giờ thay đổi Chúng chỉ có thể bị thay thế".
Học giả Jean Francois Revel quả quyết dứt khoát hơn:
"
Cách duy nhứt để cải lương chủ nghĩa xă hội là xóa bỏ nó đi


<<trở về đầu trang>>
free counters