ĐẠI NẠN TRUNG HOA THỜI NHÀ MINH
- Trần Gia Phụng
								
								Bên Trung Hoa, năm 
								1368 (mậu thân), Chu Nguyên Chương (Zhu Yuan 
								Zhang) lật đổ nhà Nguyên, lên ngôi hoàng đế tức 
								Minh Thái Tổ (trị v́ 1368-1398), lập ra nhà Minh 
								(1368-1644). Đối với người Trung Hoa, nhà Nguyên 
								là ngoại tộc, v́ thuộc giống Mông Cổ; c̣n nhà 
								Minh mới là chính tông người Hán. Minh Thái Tổ 
								(Ming Tai Zu) từ trần năm 1398 (mậu dần), truyền 
								ngôi lại cho cháu đích tôn là Minh Huệ Đế (trị 
								v́ 1399-1403), v́ cha của Huệ Đế là hoàng thái 
								tử Tiêu đă qua đời. 
								
								Minh Huệ Đế (Ming 
								Hui Di) chủ trương tập trung quyền hành về trung 
								ương, mưu trừ và giết hại các phiên vương. Phiên 
								vương nước Yên tên là Lệ, ở phía bắc Trung Hoa, 
								con trai thứ của Minh Thái Tổ và là chú của Minh 
								Huệ Đế, tức giận nổi lên chống Huệ Đế. Yên Vương 
								Lệ là một người có tài cầm quân, đánh thẳng vào 
								kinh đô Kim Lăng (Jin Ling) (Nam Kinh ngày nay), 
								lật đổ Huệ Đế, rồi tự ḿnh lên làm vua tức Minh 
								Thành Tổ (trị v́ 1403-1424).
								
								Minh Thành Tổ 
								(Ming Cheng Zu) là một người rất tham vọng, mạnh 
								mẽ chủ trương bành trướng thế lực ra nước ngoài. 
								Ông thành lập một hạm đội hùng hậu do Trịnh Ḥa 
								(Zheng He) điều khiển. Trịnh Ḥa (1371-1433) đă 
								dẫn hạm đội xuống Bắc Úc, qua bán đảo Ả Rập, đến 
								Đông Phi Châu, và có tài liệu cho rằng Trịnh Ḥa 
								qua tận Mỹ châu. 
								
								Chính Minh Thành 
								Tổ đă cử hai tướng Trương Phụ (Zhang Fu) và Mộc 
								Thạnh cầm quân sang đánh Đại Việt năm 1406. Quân 
								Minh bắt được gia đ́nh Hồ Quư Ly năm 1407. Con 
								cháu nhà Trần là Giản Định Đế (trị v́ 1407-1409) 
								và Trùng Quang Đế (trị v́ 1409-1413) nổi lên 
								tiếp tục chống quân Minh, cũng lần lượt bị quân 
								Minh dẹp yên. Nhà Minh đô hộ Đại Việt và cách 
								thức thực hiện cuộc đô hộ của nhà Minh rất thâm 
								độc, có thể sơ lược như sau. 
								
								I.- SÁP NHẬP ĐẠI 
								VIỆT VÀO TRUNG HOA  
								
								1. NHÀ MINH ĐỔI 
								ĐẠI VIỆT THÀNH QUẬN GIAO CHỈ
								
								Trước khi bắt được 
								gia đ́nh Hồ Quư Ly, vua Minh Thành Tổ xuống 
								chiếu tháng 4 năm đinh hợi (1407) nói là t́m 
								kiếm con cháu nhà Trần để lập làm vua thay nhà 
								Hồ, v́ nhà Hồ đă cướp ngôi nhà Trần. Nói thế để 
								lừa phỉnh dân Việt, chứ khi Trần Thúc Dao, con 
								của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ḍng dơi Trần 
								Quang Khải, ra hợp tác với quân Minh, quân Minh 
								làm ngơ và không đưa lên ngôi. Vào tháng 6 năm 
								đinh hợi (1407), nhà Minh quyết định đổi Đại 
								Việt thành quận Giao Chỉ, sáp nhập vào Trung 
								Hoa. 
								
								2. TỔ CHỨC HÀNH 
								CHÁNH
								
								Tổ chức hành chánh 
								trung ương quận Giao Chỉ giống như một quận bên 
								Trung Hoa, gồm ba ty là Giao Chỉ đô chỉ huy sứ 
								ty, Thừa tuyên bố chánh ty và Đề h́nh án sát sứ 
								ty. Nhà Minh đổi tên thủ đô Đông Đô (Thăng Long) 
								thành Đông Quan, chia quận Giao Chỉ (Đại Việt) 
								thành 15 phủ và 5 châu lớn như sau: phủ Giao 
								Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tam Giang, Kiến 
								B́nh, Tân Yên, Kiến Xương, Phụng Hóa, Thanh Hoa, 
								Trấn Man, Lạng Sơn, Tân B́nh, Diễn Châu, Nghệ 
								An, Thuận Hóa; châu Thái Nguyên, Tuyên Hóa, Gia 
								Hưng, Quy Hóa, Quảng Oai.(1) 
								
								Nhà Minh đưa người 
								Trung Hoa sang nắm giữ những chức vụ then chốt 
								quan trọng, và dùng một số người Việt chịu cộng 
								tác với họ trong các chức vụ địa phương, nhắm 
								chiêu dụ những người yêu nước đang tiếp tục 
								chiến đấu chống quân Minh. 
								
								3. SỰ BÓC LỘT CỦA 
								NHÀ MINH
								
								Về thuế má, năm 
								1414 nhà cầm quyền đô hộ của Minh triều quy định 
								rằng mỗi mẫu ruộng chỉ có 3 sào. Đây là một điều 
								hết sức gian manh. Thông thường, mỗi mẫu ruộng 
								gồm 10 sào, nay chỉ c̣n 3 sào. Vậy một người có 
								3 sào ruộng phải chịu thuế một mẫu; hoặc ngược 
								lại, một người có một mẫu ruộng (tức 10 sào), 
								nay phải chịu thuế hơn 3 mẫu. Nói cách khác, 
								dưới nền đô hộ của nhà Minh, thuế nông nghiệp 
								tăng hơn gấp ba so với thuế cũ. Nông nghiệp là 
								ngành sinh hoạt kinh tế chính của người Việt lúc 
								bấy giờ. Đa số dân chúng nông thôn nghèo đói, mà 
								tăng thuế nông nghiệp sẽ làm dân chúng Việt càng 
								thêm bần cùng thiếu ăn..
								
								Một năm, mỗi mẫu 
								ruộng (tức chỉ 3 sào), nhà đô hộ Minh triều thu 
								thuế 5 thăng lúa, đất băi dâu mỗi mẫu thu thuế 1 
								lạng tơ, mỗi cân tơ thu thuế 1 tấm lụa. Năm 
								1415, nhà Minh lập các trường (ruộng) muối ven 
								biển, kiểm soát việc sản xuất và đánh thuế muối. 
								Ai buôn lậu hay sản xuất lậu đều bị phạt như 
								nhau. Muối là thực phẩm căn bản quan trọng của 
								người Việt, nhất là dân nghèo, hoàn toàn nằm 
								trong quyền kiểm soát của quân Minh. 
								
								Về quân sự, vào 
								đầu năm bính thân (1416), Trương Phụ ra lệnh xét 
								duyệt danh số quân đội địa phương (thổ quân). Ba 
								đinh (đàn ông) th́ lấy một người làm lính. Số 
								lính địa phương được tuyển, dùng để chia đi canh 
								giữ các nơi.
								
								Để kiểm soát chặt 
								chẻ dân chúng như bên Trung Hoa, năm 1419 (kỷ 
								hợi), Lư Bân cho thi hành biện pháp hoàng sách 
								và hộ thiếp. Theo biện pháp nầy, ở hạ tầng tại 
								thành phố gọi là phường, tại vùng chung quanh 
								thành phố gọi là tương (hay sương), tại nông 
								thôn gọi là lư. Mỗi lư có 110 hộ (gia đ́nh) do 
								một lư trưởng đứng đầu. Mười hộ là một giáp có 
								một giáp thủ đứng đầu.
								
								Mỗi hộ giữ một hộ 
								thiếp ghi rơ tên tuổi, quê quán, số đinh trong 
								hộ đúng theo sổ hộ khẩu do nhà cầm quyền giữ. 
								Mỗi lư phải làm một quyển sổ gọi là sách, ghi rơ 
								số đinh, số điền dựa trên căn bản hộ. Đầu sách 
								có vẽ bản đồ, cuối sách liệt kê những người tàn 
								tật cô quả. Sách viết làm bốn bản: một bản b́a 
								vàng gọi là hoàng sách nạp lên bộ hộ, ba bản kia 
								b́a xanh đặt ở ty bố chính sứ, phủ, huyện, mỗi 
								nơi một bản.(2) 
								
								II.- CHÍNH SÁCH 
								ĐỒNG HÓA
								
								Khi gởi quân sang 
								đánh Đại Việt lần đầu năm 1406, Minh Thành Tổ 
								đưa ra ba chỉ dụ liên tiếp đề ngày 21-8-1406, 
								16-6-1407 và 24-6-1407 căn dặn các tướng lănh 
								nhà Minh thi hành chính sách đồng hóa và tiêu 
								diệt tận gốc nền văn hóa Đại Việt. 
								
								1. BẮT NHÂN TÀI 
								VIỆT NAM
								
								Việc đầu tiên là 
								nhà Minh bắt hết nhân tài Đại Việt, đưa về Trung 
								Hoa sử dụng tùy theo khả năng. Khi bắt được gia 
								đ́nh Hồ Quư Ly, người Minh không giết mà chỉ gởi 
								về Trung Hoa. Lư do chính là v́ con của Hồ Quư 
								Ly là Hồ Nguyên Trừng có biệt tài về kỹ thuật. 
								Nhà Minh chỉ đày Hồ Quư Ly và Hồ Hán Thương đi 
								Quảng Châu, c̣n phong cho Hồ Nguyên Trừng làm 
								quan ở triều đ́nh để giúp nhà Minh chế tạo súng 
								ống.(3) Người Minh lùng t́m những người thông 
								minh, thông kinh, học rộng, quen thuộc việc 
								quan, chữ đẹp, tính giỏi, nói năng hoạt bát, 
								tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh, dũng cảm, quen 
								nghề đi biển, khéo nghề sản xuất gạch, làm 
								hương... đưa về Trung Hoa. 
								
								2. TỊCH THU VÀ 
								TIÊU HỦY TOÀN BỘ SÁCH VỞ ĐẠI VIỆT
								
								Thi hành chỉ thị 
								của Minh Thành Tổ, quân Minh tịch thu hoặc tiêu 
								hủy toàn bộ tất cả các loại sách vở của nước 
								Nam, kể cả các bia đá ghi lại sự nghiệp của tiền 
								nhân. Sau đây là lệnh của Minh Thành Tổ gởi các 
								tướng Minh ngày 21-8-1406: "... Trừ các sách 
								kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lăo th́ không 
								tiêu hủy, ngoài ra hết thảy mọi sách vở, văn tự 
								cho đến cả những loại [sách ghi chép] ca 
								lư dân gian, hay sách dạy trẻ ... một mănh chữ 
								đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia 
								do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay th́ đều giữ 
								ǵn cẩn thận, c̣n các bia do An Nam dựng th́ phá 
								hủy tất cả, một chữ chớ để c̣n."(4) 
								
								Quân Minh c̣n chở 
								về Trung Hoa hầu như toàn bộ sách vở đă có từ 
								thời Hồ Quư Ly trở về trước. Đó là sách của các 
								tác giả sau đây: Lư Thái Tông (H́nh thư), Trần 
								Thái Tông (H́nh luật, Quốc triều thông lễ, Kiến 
								Trung thường lễ, Khóa hư tập, Ngự thi), Trần 
								Thánh Tông (Di hậu lục, Cờ cừu lục, Thi tập), 
								Trần Nhân Tông (Trung hưng thực lục, Thi tập), 
								Trần Anh Tông (Thủy vân tùy bút), Trần Minh Tông 
								(Thi tập), Trần Dụ Tông (Trần triều đại điển), 
								Trần Nghệ Tông (Bảo ḥa điện dư bút, Thi tập), 
								Trần Hưng Đạo (Binh gia yếu lược, Vạn Kiếp bí 
								truyền), Chu Văn Trinh tức Chu Văn An (Tứ thư 
								thuyết ước, Tiều ẩn thi), Trần Quốc Toại (Sầm 
								lâu tập), Trần Quang Khải (Lạc đạo tập), Trần 
								Nguyên Đán (Băng Hồ ngọc hác tập), Nguyễn Trung 
								Ngạn (Giới Hiên thi tập), Phạm Sư Mạnh (Giáp 
								thạch tập), Trần Nguyên Đào (Cúc Đường di thảo), 
								Hồ Tông Thốc tức Hồ Tông Vụ (Thảo nhàn hiệu tần, 
								Việt nam thế chí, Việt sử cương mục), Lê Văn Hưu 
								(Đại Việt sử kư), Nguyễn Phi Khanh (Nhị Khê thi 
								tập), Hàn Thuyên (Phi sa tập), Lư Tế Xuyên (Việt 
								điện u linh tập) ...(5) 
								
								3. ÁP ĐẶT VĂN HÓA 
								VÀ PHONG TỤC TRUNG HOA
								
								Để đồng hóa người 
								Việt, tháng 9 năm 1414 (giáp ngọ), người Minh ra 
								lệnh lập Văn miếu (thờ Khổng Tử) , các đàn thờ 
								thần xă tắc, núi, sông, gió, mưa ở các phủ châu 
								huyện. Về phong tục, người Minh buộc thanh niên 
								nam nữ không được cắt tóc mà phải để tóc dài;(6) 
								phụ nữ phải bận áo ngắn quần dài như người Minh. 
								Người Minh c̣n cấm người Việt không được ăn 
								trầu.(7) Ăn trầu là một tục lệ lâu đời của người 
								Việt.
								
								Cũng trong năm 
								1414, nhà Minh mở trường học ở Thăng Long và các 
								phủ, châu, huyện. Để thay thế sách vở người Việt 
								đă bị quân Minh tịch thu và tiêu hủy, năm 1419 
								(kỷ hợi) nhà Minh cho phát hành rộng răi sách vở 
								Trung Hoa do vua Minh cho san định lại như Tứ 
								thư [Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh 
								tử], Ngũ kinh [Dịch, Thi, Thư, Lễ, 
								Xuân thu], Tính lư đại toàn... (8)
								
								
								III.- CHÍNH SÁCH 
								KHAI THÁC TÀI NGUYÊN 
								
								1. NÔNG NGHIỆP
								
								Sau khi nhà Hồ sụp 
								đổ, Trương Phụ ra lệnh đặt đồn điền năm 1410 
								(canh dần) ở các nơi gần thành Thăng Long, thu 
								mua lúa ở các phủ Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Tam 
								Giang, để cung ứng thực phẩm cho đoàn quân viễn 
								chinh, 
								
								Chiến thắng xong 
								nhà Hậu Trần, người Minh ra lệnh cho các phủ, 
								huyện, châu ở nước ta phải trồng hồ tiêu. Từ 
								tháng 4 năm mậu tuất (1418), họ bắt đầu trưng 
								thu hồ tiêu đem về Trung Hoa, nhắm cung cấp cho 
								ngành xuất cảng qua tây phương theo “con đường 
								hương liệu và gia vị”. Người Minh buộc các địa 
								phương (phủ, huyện) phải nạp đặc sản để chuyển 
								về Trung Hoa như: hương liệu, hươu trắng, chim 
								vẹt, vượn bạc má, trăn ...
								
								Người Minh c̣n bắt 
								dân chúng vùng rừng núi t́m bắt voi, tê giác, và 
								dân chúng làm nghề chài lưới ven biển đi ṃ ngọc 
								trai. Tháng 7 năm mậu tuất (1418), người Minh 
								thiết lập trường sở thu ngọc trai tại hai địa 
								điểm có hải phận sinh sản nhiều ngọc trai. Đó là 
								Vĩnh An (Tiên Yên, Vạn Ninh, Quảng Yên) và Vân 
								Đồn (Vân Hải, Quảng Yên). Hằng ngày, hàng ngàn 
								dân bị đưa đi ṃ ngọc trai cho người Minh.
								
								
								2. CÔNG NGHỆ
								
								Người Minh thu mua 
								vàng bạc quư hiếm chở về Trung Hoa. Tháng 8 năm 
								ất mùi (1415), nhà Minh thiết lập các trường cục 
								cai quản các vùng mỏ vàng bạc, đốc thúc dân đinh 
								khai đào các kim loại quư, kiểm điểm sản lượng 
								và niêm phong nạp lên thượng cấp 
								
								3. GIAO THÔNG 
								THƯƠNG MẠI
								
								Để dễ vận chuyển, 
								người Minh thiết lập một lộ tŕnh mới từ Quảng 
								Đông qua Đông Quan (Thăng Long), chia làm hai 
								đoạn: từ Khâm Châu (thuộc Quảng Đông ngày nay) 
								đi đường biển tới các cảng Vạn Ninh (thuộc Quảng 
								Yên), Đông Triều, Chí Linh (Hải Dương). Các nơi 
								nầy đều có đặt trạm liên lạc bằng thuyền. Từ Vạn 
								Ninh, Đông Triều, Chí Linh đến Đông Quan (Thăng 
								Long), người Minh đặt các trạm chạy bằng ngựa 
								theo đường bộ. 
								
								KẾT LUẬN
								
								Chính sách tận lực 
								khai thác tài nguyên nước ta của quân Minh được 
								Nguyễn Trăi ghi lại hết sức rơ ràng trong bài 
								"B́nh Ngô đại cáo": "Quân cuồng Minh thừa cơ 
								tứ ngược,[9] bọn gian tà bán nước cầu 
								vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi 
								con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn 
								ngh́n khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân 
								nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm [10]
								vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào 
								xuống bể ṃ châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới 
								ḍ chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo 
								nhóc thay! quan quả điên liên.[11] Kẻ há 
								miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. 
								Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch 
								cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ 
								mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay! trúc rừng 
								không ghi hết tội; dơ bẩn thay! nước bể không 
								rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo 
								thần nhân nhịn được."(12)
								
								Cuộc đô hộ của nhà 
								Minh tuy ngắn ngủi, chỉ trong ṿng hơn 20 năm 
								(1407-1428), nhưng ảnh hưởng lâu dài về nhiều 
								mặt, do chính sách khai thác thuộc địa rất tàn 
								nhẫn, và chính sách tận diệt nền văn hóa Đại 
								Việt, nhằm đồng hóa người Việt của nhà Minh.
								
								Năm 1975, khi 
								cưỡng chiếm miền Nam, nhà cầm quyền Cộng sản 
								Việt Nam (CSVN) đă tập trung và đốt hết sách vở 
								miền Nam nhằm tiêu diệt văn hóa miền Nam, truyền 
								bá văn hóa Mác-xít, không khác ǵ nhà Minh đă 
								tiêu diệt văn hóa Đại Việt, truyền bá văn hóa 
								Trung Hoa. Nhà Minh không thực hiện được mưu đồ 
								thâm độc của nhà Minh. Cộng sản Việt Nam cũng 
								không thực hiện được mưu đồ thâm độc của CSVN. 
								Chẳng những thế, CSVN lại c̣n bị ảnh hưởng ngược 
								lại của nền văn hóa miền Nam, v́ căn bản nền văn 
								hóa miền Nam vốn là nền văn hóa dân tộc cổ 
								truyền, được bảo lưu ở miền Nam Việt Nam sau khi 
								đất nước bị chia hai năm 1954. 
								
								Về phía Trung Hoa, 
								từ cuối năm 1924, đảng CSTH đă bảo trợ cho tay 
								điệp viên Đệ tam Quốc tế Nguyễn Ái Quốc, giúp 
								huấn luyện cán bộ để cài người vào Việt Nam. Sau 
								đó, từ năm 1950, đảng CSTH đă đầu tư dài hạn vào 
								công cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh, thao túng 
								nhà cầm quyền CSVN. Từ đầu thế kỷ 21, CSTH đ̣i 
								lại vốn và lời đă đầu tư, thực hiện kế hoạch tằm 
								ăn dâu của nhà Minh, kiếm cách từ từ khai thác 
								tài nguyên trên biển cũng như trên đất liền của 
								Việt Nam, tiến hành từng bước âm thầm, chậm 
								chạp, và chắc chắn. 
								
								Với đà thâm nhập 
								nầy, rồi đây CSTH sẽ dùng CSVN để Hán hóa người 
								Việt và sẽ sáp nhập Việt Nam vào Trung Hoa, biến 
								Việt Nam thành một tỉnh hay một quận Trung Hoa, 
								không khác ǵ nhà Minh vào thế kỷ 15. 
								
								Trước t́nh h́nh 
								nầy, ngày nay người Việt Nam chỉ c̣n cách duy 
								nhất là phải tự ḿnh cứu lấy ḿnh thoát ra khỏi 
								đảng CSVN. Thoát ra khỏi đảng CSVN, người Việt 
								mới thoát ra khỏi sự đô hộ của CSTH. Tuy khó 
								khăn nhưng không c̣n con đường nào khác. 
								
								
								TRẦN GIA PHỤNG
								(phungtrangia@yahoo.com)
								
								
								CHÚ THÍCH  
Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, in lần thứ hai, Huế:Nxb. Thuận Hóa, 1997, tr. tr. 163. [Đào Duy Anh căn cứ trên tài liệu Thiên hạ quận quốc của Trung Hoa.] Ngoài 15 phủ trên đây, năm 1414, quân Minh đặt thêm phủ thứ 16 là phủ Thăng Hoa, nhưng chưa tổ chức đưọc nền cai trị tại phủ nầy th́ bị quân Chiêm Thành chiếm.
Chính sách nầy do nhà Minh áp dụng ở Trung Hoa từ năm 1381. (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chữ Nho), Hà Nội: bản dịch của Nxb. Giáo Dục, 1998, tập 1, tt. 767-768.)
Theo Lê Quí Đôn trong Vân đài loại ngữ, mục "Vựng điển loại", trích dẫn sách Cô thụ biều đàm, Lê Trừng tức Hồ Nguyên Trừng được nhà Minh phong làm hộ bộ thượng thư. Lê Quí Đôn cũng trích dẫn Minh sử nói rằng "trong niên biểu của thất khanh (bảy vị quan to), có nói đến Lê Trừng làm binh bộ thượng thư". Minh sử c̣n chép rằng: "Năm Vĩnh Lạc [1403-1424], vua Minh thân chinh Mạc bắc. Khi giặc kéo ào đến, bèn đem thần sang của nước An-Nam ra đánh..." (Vân đài loại ngữ, bản dịch của Phạm Vũ và Lê Hiền, Tự Lực tái bản, Hoa Kỳ, tt. 238-239). Thần sang An Nam ở đây là súng thần công do Hồ Nguyên Trừng chế tạo. Hồ Nguyên Trừng có soạn sách Nam ông mộng lục, viết về 31 nhân vật nổi tiếng trong lịch sử nước nhà. Có lẽ nhờ Hồ Nguyên Trừng mà Hồ Quư Ly và Hồ Hán Thương không bị giết, mà chỉ bị đày đi Quảng Châu.
Phạm Cao Dương "Từ nạn trộm cắp các cổ vật tại Việt Nam đến tham vọng bá quyền về văn hóa của Trung Quốc", nguyệt san Thế Kỷ 21, số 130-131, tháng 2 & 3-2000, tr. 54.
Cương mục, sđd. tr. 765, "Lời chua". Khi chua như trên, các soạn giả bộ Cương mục dựa vào "Văn tịch chí" trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú. Tuy Phan Huy Chú đề tên tác giả các sách về h́nh luật, điển lễ trên đây là các vua, thật ra là do các quan soạn dưới triều các vua đó. Ngoài ra, vài tác phẩm hiện đă t́m thấy lại được như Khóa hư tập của vua Trần Thái Tông, Việt điện u linh tập của Lư Tế Xuyên, hoặc c̣n sót lại vài bài thơ như của Trần Thái Tông, Trần Quang Khải...
Đời nhà Trần trở về trước, dân Việt theo tục xâm ḿnh và cắt tóc.
Stanley Karnov, Viet Nam a History, New York:The Viking Press, 1983, tr. 103.
Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kư toàn thư [chữ Nho], Hà Nội: Nxb. Khoa học Xă hội, bản dịch tập 2, 1998, tt. 236, 242. Tính lư đại toàn: Bộ sách do Hồ Quảng vâng lệnh vua Minh soạn ra, nội dung dựa vào học thuyết của các Nho sĩ đời Tống.
Tứ ngược: hết sức tàn ngược. [Chú thích 10, 11 và 12 theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược.]
Khoa liễm: thuế má.
Quan quả điên liên: Quan: người không vợ; quả: người góa chồng; điên liên: những kẻ không có nhà ở, không trông cậy vào đâu được.
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sài G̣n: Nxb. Tân Việt tái bản, 1964, tr. 229.