ĐẠI NẠN TRUNG HOA THỜI NHÀ MINH
- Trần Gia Phụng
Bên Trung Hoa, năm
1368 (mậu thân), Chu Nguyên Chương (Zhu Yuan
Zhang) lật đổ nhà Nguyên, lên ngôi hoàng đế tức
Minh Thái Tổ (trị v́ 1368-1398), lập ra nhà Minh
(1368-1644). Đối với người Trung Hoa, nhà Nguyên
là ngoại tộc, v́ thuộc giống Mông Cổ; c̣n nhà
Minh mới là chính tông người Hán. Minh Thái Tổ
(Ming Tai Zu) từ trần năm 1398 (mậu dần), truyền
ngôi lại cho cháu đích tôn là Minh Huệ Đế (trị
v́ 1399-1403), v́ cha của Huệ Đế là hoàng thái
tử Tiêu đă qua đời.
Minh Huệ Đế (Ming
Hui Di) chủ trương tập trung quyền hành về trung
ương, mưu trừ và giết hại các phiên vương. Phiên
vương nước Yên tên là Lệ, ở phía bắc Trung Hoa,
con trai thứ của Minh Thái Tổ và là chú của Minh
Huệ Đế, tức giận nổi lên chống Huệ Đế. Yên Vương
Lệ là một người có tài cầm quân, đánh thẳng vào
kinh đô Kim Lăng (Jin Ling) (Nam Kinh ngày nay),
lật đổ Huệ Đế, rồi tự ḿnh lên làm vua tức Minh
Thành Tổ (trị v́ 1403-1424).
Minh Thành Tổ
(Ming Cheng Zu) là một người rất tham vọng, mạnh
mẽ chủ trương bành trướng thế lực ra nước ngoài.
Ông thành lập một hạm đội hùng hậu do Trịnh Ḥa
(Zheng He) điều khiển. Trịnh Ḥa (1371-1433) đă
dẫn hạm đội xuống Bắc Úc, qua bán đảo Ả Rập, đến
Đông Phi Châu, và có tài liệu cho rằng Trịnh Ḥa
qua tận Mỹ châu.
Chính Minh Thành
Tổ đă cử hai tướng Trương Phụ (Zhang Fu) và Mộc
Thạnh cầm quân sang đánh Đại Việt năm 1406. Quân
Minh bắt được gia đ́nh Hồ Quư Ly năm 1407. Con
cháu nhà Trần là Giản Định Đế (trị v́ 1407-1409)
và Trùng Quang Đế (trị v́ 1409-1413) nổi lên
tiếp tục chống quân Minh, cũng lần lượt bị quân
Minh dẹp yên. Nhà Minh đô hộ Đại Việt và cách
thức thực hiện cuộc đô hộ của nhà Minh rất thâm
độc, có thể sơ lược như sau.
I.- SÁP NHẬP ĐẠI
VIỆT VÀO TRUNG HOA
1. NHÀ MINH ĐỔI
ĐẠI VIỆT THÀNH QUẬN GIAO CHỈ
Trước khi bắt được
gia đ́nh Hồ Quư Ly, vua Minh Thành Tổ xuống
chiếu tháng 4 năm đinh hợi (1407) nói là t́m
kiếm con cháu nhà Trần để lập làm vua thay nhà
Hồ, v́ nhà Hồ đă cướp ngôi nhà Trần. Nói thế để
lừa phỉnh dân Việt, chứ khi Trần Thúc Dao, con
của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ḍng dơi Trần
Quang Khải, ra hợp tác với quân Minh, quân Minh
làm ngơ và không đưa lên ngôi. Vào tháng 6 năm
đinh hợi (1407), nhà Minh quyết định đổi Đại
Việt thành quận Giao Chỉ, sáp nhập vào Trung
Hoa.
2. TỔ CHỨC HÀNH
CHÁNH
Tổ chức hành chánh
trung ương quận Giao Chỉ giống như một quận bên
Trung Hoa, gồm ba ty là Giao Chỉ đô chỉ huy sứ
ty, Thừa tuyên bố chánh ty và Đề h́nh án sát sứ
ty. Nhà Minh đổi tên thủ đô Đông Đô (Thăng Long)
thành Đông Quan, chia quận Giao Chỉ (Đại Việt)
thành 15 phủ và 5 châu lớn như sau: phủ Giao
Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tam Giang, Kiến
B́nh, Tân Yên, Kiến Xương, Phụng Hóa, Thanh Hoa,
Trấn Man, Lạng Sơn, Tân B́nh, Diễn Châu, Nghệ
An, Thuận Hóa; châu Thái Nguyên, Tuyên Hóa, Gia
Hưng, Quy Hóa, Quảng Oai.(1)
Nhà Minh đưa người
Trung Hoa sang nắm giữ những chức vụ then chốt
quan trọng, và dùng một số người Việt chịu cộng
tác với họ trong các chức vụ địa phương, nhắm
chiêu dụ những người yêu nước đang tiếp tục
chiến đấu chống quân Minh.
3. SỰ BÓC LỘT CỦA
NHÀ MINH
Về thuế má, năm
1414 nhà cầm quyền đô hộ của Minh triều quy định
rằng mỗi mẫu ruộng chỉ có 3 sào. Đây là một điều
hết sức gian manh. Thông thường, mỗi mẫu ruộng
gồm 10 sào, nay chỉ c̣n 3 sào. Vậy một người có
3 sào ruộng phải chịu thuế một mẫu; hoặc ngược
lại, một người có một mẫu ruộng (tức 10 sào),
nay phải chịu thuế hơn 3 mẫu. Nói cách khác,
dưới nền đô hộ của nhà Minh, thuế nông nghiệp
tăng hơn gấp ba so với thuế cũ. Nông nghiệp là
ngành sinh hoạt kinh tế chính của người Việt lúc
bấy giờ. Đa số dân chúng nông thôn nghèo đói, mà
tăng thuế nông nghiệp sẽ làm dân chúng Việt càng
thêm bần cùng thiếu ăn..
Một năm, mỗi mẫu
ruộng (tức chỉ 3 sào), nhà đô hộ Minh triều thu
thuế 5 thăng lúa, đất băi dâu mỗi mẫu thu thuế 1
lạng tơ, mỗi cân tơ thu thuế 1 tấm lụa. Năm
1415, nhà Minh lập các trường (ruộng) muối ven
biển, kiểm soát việc sản xuất và đánh thuế muối.
Ai buôn lậu hay sản xuất lậu đều bị phạt như
nhau. Muối là thực phẩm căn bản quan trọng của
người Việt, nhất là dân nghèo, hoàn toàn nằm
trong quyền kiểm soát của quân Minh.
Về quân sự, vào
đầu năm bính thân (1416), Trương Phụ ra lệnh xét
duyệt danh số quân đội địa phương (thổ quân). Ba
đinh (đàn ông) th́ lấy một người làm lính. Số
lính địa phương được tuyển, dùng để chia đi canh
giữ các nơi.
Để kiểm soát chặt
chẻ dân chúng như bên Trung Hoa, năm 1419 (kỷ
hợi), Lư Bân cho thi hành biện pháp hoàng sách
và hộ thiếp. Theo biện pháp nầy, ở hạ tầng tại
thành phố gọi là phường, tại vùng chung quanh
thành phố gọi là tương (hay sương), tại nông
thôn gọi là lư. Mỗi lư có 110 hộ (gia đ́nh) do
một lư trưởng đứng đầu. Mười hộ là một giáp có
một giáp thủ đứng đầu.
Mỗi hộ giữ một hộ
thiếp ghi rơ tên tuổi, quê quán, số đinh trong
hộ đúng theo sổ hộ khẩu do nhà cầm quyền giữ.
Mỗi lư phải làm một quyển sổ gọi là sách, ghi rơ
số đinh, số điền dựa trên căn bản hộ. Đầu sách
có vẽ bản đồ, cuối sách liệt kê những người tàn
tật cô quả. Sách viết làm bốn bản: một bản b́a
vàng gọi là hoàng sách nạp lên bộ hộ, ba bản kia
b́a xanh đặt ở ty bố chính sứ, phủ, huyện, mỗi
nơi một bản.(2)
II.- CHÍNH SÁCH
ĐỒNG HÓA
Khi gởi quân sang
đánh Đại Việt lần đầu năm 1406, Minh Thành Tổ
đưa ra ba chỉ dụ liên tiếp đề ngày 21-8-1406,
16-6-1407 và 24-6-1407 căn dặn các tướng lănh
nhà Minh thi hành chính sách đồng hóa và tiêu
diệt tận gốc nền văn hóa Đại Việt.
1. BẮT NHÂN TÀI
VIỆT NAM
Việc đầu tiên là
nhà Minh bắt hết nhân tài Đại Việt, đưa về Trung
Hoa sử dụng tùy theo khả năng. Khi bắt được gia
đ́nh Hồ Quư Ly, người Minh không giết mà chỉ gởi
về Trung Hoa. Lư do chính là v́ con của Hồ Quư
Ly là Hồ Nguyên Trừng có biệt tài về kỹ thuật.
Nhà Minh chỉ đày Hồ Quư Ly và Hồ Hán Thương đi
Quảng Châu, c̣n phong cho Hồ Nguyên Trừng làm
quan ở triều đ́nh để giúp nhà Minh chế tạo súng
ống.(3) Người Minh lùng t́m những người thông
minh, thông kinh, học rộng, quen thuộc việc
quan, chữ đẹp, tính giỏi, nói năng hoạt bát,
tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh, dũng cảm, quen
nghề đi biển, khéo nghề sản xuất gạch, làm
hương... đưa về Trung Hoa.
2. TỊCH THU VÀ
TIÊU HỦY TOÀN BỘ SÁCH VỞ ĐẠI VIỆT
Thi hành chỉ thị
của Minh Thành Tổ, quân Minh tịch thu hoặc tiêu
hủy toàn bộ tất cả các loại sách vở của nước
Nam, kể cả các bia đá ghi lại sự nghiệp của tiền
nhân. Sau đây là lệnh của Minh Thành Tổ gởi các
tướng Minh ngày 21-8-1406: "... Trừ các sách
kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lăo th́ không
tiêu hủy, ngoài ra hết thảy mọi sách vở, văn tự
cho đến cả những loại [sách ghi chép] ca
lư dân gian, hay sách dạy trẻ ... một mănh chữ
đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia
do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay th́ đều giữ
ǵn cẩn thận, c̣n các bia do An Nam dựng th́ phá
hủy tất cả, một chữ chớ để c̣n."(4)
Quân Minh c̣n chở
về Trung Hoa hầu như toàn bộ sách vở đă có từ
thời Hồ Quư Ly trở về trước. Đó là sách của các
tác giả sau đây: Lư Thái Tông (H́nh thư), Trần
Thái Tông (H́nh luật, Quốc triều thông lễ, Kiến
Trung thường lễ, Khóa hư tập, Ngự thi), Trần
Thánh Tông (Di hậu lục, Cờ cừu lục, Thi tập),
Trần Nhân Tông (Trung hưng thực lục, Thi tập),
Trần Anh Tông (Thủy vân tùy bút), Trần Minh Tông
(Thi tập), Trần Dụ Tông (Trần triều đại điển),
Trần Nghệ Tông (Bảo ḥa điện dư bút, Thi tập),
Trần Hưng Đạo (Binh gia yếu lược, Vạn Kiếp bí
truyền), Chu Văn Trinh tức Chu Văn An (Tứ thư
thuyết ước, Tiều ẩn thi), Trần Quốc Toại (Sầm
lâu tập), Trần Quang Khải (Lạc đạo tập), Trần
Nguyên Đán (Băng Hồ ngọc hác tập), Nguyễn Trung
Ngạn (Giới Hiên thi tập), Phạm Sư Mạnh (Giáp
thạch tập), Trần Nguyên Đào (Cúc Đường di thảo),
Hồ Tông Thốc tức Hồ Tông Vụ (Thảo nhàn hiệu tần,
Việt nam thế chí, Việt sử cương mục), Lê Văn Hưu
(Đại Việt sử kư), Nguyễn Phi Khanh (Nhị Khê thi
tập), Hàn Thuyên (Phi sa tập), Lư Tế Xuyên (Việt
điện u linh tập) ...(5)
3. ÁP ĐẶT VĂN HÓA
VÀ PHONG TỤC TRUNG HOA
Để đồng hóa người
Việt, tháng 9 năm 1414 (giáp ngọ), người Minh ra
lệnh lập Văn miếu (thờ Khổng Tử) , các đàn thờ
thần xă tắc, núi, sông, gió, mưa ở các phủ châu
huyện. Về phong tục, người Minh buộc thanh niên
nam nữ không được cắt tóc mà phải để tóc dài;(6)
phụ nữ phải bận áo ngắn quần dài như người Minh.
Người Minh c̣n cấm người Việt không được ăn
trầu.(7) Ăn trầu là một tục lệ lâu đời của người
Việt.
Cũng trong năm
1414, nhà Minh mở trường học ở Thăng Long và các
phủ, châu, huyện. Để thay thế sách vở người Việt
đă bị quân Minh tịch thu và tiêu hủy, năm 1419
(kỷ hợi) nhà Minh cho phát hành rộng răi sách vở
Trung Hoa do vua Minh cho san định lại như Tứ
thư [Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh
tử], Ngũ kinh [Dịch, Thi, Thư, Lễ,
Xuân thu], Tính lư đại toàn... (8)
III.- CHÍNH SÁCH
KHAI THÁC TÀI NGUYÊN
1. NÔNG NGHIỆP
Sau khi nhà Hồ sụp
đổ, Trương Phụ ra lệnh đặt đồn điền năm 1410
(canh dần) ở các nơi gần thành Thăng Long, thu
mua lúa ở các phủ Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Tam
Giang, để cung ứng thực phẩm cho đoàn quân viễn
chinh,
Chiến thắng xong
nhà Hậu Trần, người Minh ra lệnh cho các phủ,
huyện, châu ở nước ta phải trồng hồ tiêu. Từ
tháng 4 năm mậu tuất (1418), họ bắt đầu trưng
thu hồ tiêu đem về Trung Hoa, nhắm cung cấp cho
ngành xuất cảng qua tây phương theo “con đường
hương liệu và gia vị”. Người Minh buộc các địa
phương (phủ, huyện) phải nạp đặc sản để chuyển
về Trung Hoa như: hương liệu, hươu trắng, chim
vẹt, vượn bạc má, trăn ...
Người Minh c̣n bắt
dân chúng vùng rừng núi t́m bắt voi, tê giác, và
dân chúng làm nghề chài lưới ven biển đi ṃ ngọc
trai. Tháng 7 năm mậu tuất (1418), người Minh
thiết lập trường sở thu ngọc trai tại hai địa
điểm có hải phận sinh sản nhiều ngọc trai. Đó là
Vĩnh An (Tiên Yên, Vạn Ninh, Quảng Yên) và Vân
Đồn (Vân Hải, Quảng Yên). Hằng ngày, hàng ngàn
dân bị đưa đi ṃ ngọc trai cho người Minh.
2. CÔNG NGHỆ
Người Minh thu mua
vàng bạc quư hiếm chở về Trung Hoa. Tháng 8 năm
ất mùi (1415), nhà Minh thiết lập các trường cục
cai quản các vùng mỏ vàng bạc, đốc thúc dân đinh
khai đào các kim loại quư, kiểm điểm sản lượng
và niêm phong nạp lên thượng cấp
3. GIAO THÔNG
THƯƠNG MẠI
Để dễ vận chuyển,
người Minh thiết lập một lộ tŕnh mới từ Quảng
Đông qua Đông Quan (Thăng Long), chia làm hai
đoạn: từ Khâm Châu (thuộc Quảng Đông ngày nay)
đi đường biển tới các cảng Vạn Ninh (thuộc Quảng
Yên), Đông Triều, Chí Linh (Hải Dương). Các nơi
nầy đều có đặt trạm liên lạc bằng thuyền. Từ Vạn
Ninh, Đông Triều, Chí Linh đến Đông Quan (Thăng
Long), người Minh đặt các trạm chạy bằng ngựa
theo đường bộ.
KẾT LUẬN
Chính sách tận lực
khai thác tài nguyên nước ta của quân Minh được
Nguyễn Trăi ghi lại hết sức rơ ràng trong bài
"B́nh Ngô đại cáo": "Quân cuồng Minh thừa cơ
tứ ngược,[9] bọn gian tà bán nước cầu
vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi
con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn
ngh́n khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân
nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm [10]
vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào
xuống bể ṃ châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới
ḍ chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, nheo
nhóc thay! quan quả điên liên.[11] Kẻ há
miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán.
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch
cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ
mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay! trúc rừng
không ghi hết tội; dơ bẩn thay! nước bể không
rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo
thần nhân nhịn được."(12)
Cuộc đô hộ của nhà
Minh tuy ngắn ngủi, chỉ trong ṿng hơn 20 năm
(1407-1428), nhưng ảnh hưởng lâu dài về nhiều
mặt, do chính sách khai thác thuộc địa rất tàn
nhẫn, và chính sách tận diệt nền văn hóa Đại
Việt, nhằm đồng hóa người Việt của nhà Minh.
Năm 1975, khi
cưỡng chiếm miền Nam, nhà cầm quyền Cộng sản
Việt Nam (CSVN) đă tập trung và đốt hết sách vở
miền Nam nhằm tiêu diệt văn hóa miền Nam, truyền
bá văn hóa Mác-xít, không khác ǵ nhà Minh đă
tiêu diệt văn hóa Đại Việt, truyền bá văn hóa
Trung Hoa. Nhà Minh không thực hiện được mưu đồ
thâm độc của nhà Minh. Cộng sản Việt Nam cũng
không thực hiện được mưu đồ thâm độc của CSVN.
Chẳng những thế, CSVN lại c̣n bị ảnh hưởng ngược
lại của nền văn hóa miền Nam, v́ căn bản nền văn
hóa miền Nam vốn là nền văn hóa dân tộc cổ
truyền, được bảo lưu ở miền Nam Việt Nam sau khi
đất nước bị chia hai năm 1954.
Về phía Trung Hoa,
từ cuối năm 1924, đảng CSTH đă bảo trợ cho tay
điệp viên Đệ tam Quốc tế Nguyễn Ái Quốc, giúp
huấn luyện cán bộ để cài người vào Việt Nam. Sau
đó, từ năm 1950, đảng CSTH đă đầu tư dài hạn vào
công cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh, thao túng
nhà cầm quyền CSVN. Từ đầu thế kỷ 21, CSTH đ̣i
lại vốn và lời đă đầu tư, thực hiện kế hoạch tằm
ăn dâu của nhà Minh, kiếm cách từ từ khai thác
tài nguyên trên biển cũng như trên đất liền của
Việt Nam, tiến hành từng bước âm thầm, chậm
chạp, và chắc chắn.
Với đà thâm nhập
nầy, rồi đây CSTH sẽ dùng CSVN để Hán hóa người
Việt và sẽ sáp nhập Việt Nam vào Trung Hoa, biến
Việt Nam thành một tỉnh hay một quận Trung Hoa,
không khác ǵ nhà Minh vào thế kỷ 15.
Trước t́nh h́nh
nầy, ngày nay người Việt Nam chỉ c̣n cách duy
nhất là phải tự ḿnh cứu lấy ḿnh thoát ra khỏi
đảng CSVN. Thoát ra khỏi đảng CSVN, người Việt
mới thoát ra khỏi sự đô hộ của CSTH. Tuy khó
khăn nhưng không c̣n con đường nào khác.
TRẦN GIA PHỤNG
(phungtrangia@yahoo.com)
CHÚ THÍCH
Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, in lần thứ hai, Huế:Nxb. Thuận Hóa, 1997, tr. tr. 163. [Đào Duy Anh căn cứ trên tài liệu Thiên hạ quận quốc của Trung Hoa.] Ngoài 15 phủ trên đây, năm 1414, quân Minh đặt thêm phủ thứ 16 là phủ Thăng Hoa, nhưng chưa tổ chức đưọc nền cai trị tại phủ nầy th́ bị quân Chiêm Thành chiếm.
Chính sách nầy do nhà Minh áp dụng ở Trung Hoa từ năm 1381. (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chữ Nho), Hà Nội: bản dịch của Nxb. Giáo Dục, 1998, tập 1, tt. 767-768.)
Theo Lê Quí Đôn trong Vân đài loại ngữ, mục "Vựng điển loại", trích dẫn sách Cô thụ biều đàm, Lê Trừng tức Hồ Nguyên Trừng được nhà Minh phong làm hộ bộ thượng thư. Lê Quí Đôn cũng trích dẫn Minh sử nói rằng "trong niên biểu của thất khanh (bảy vị quan to), có nói đến Lê Trừng làm binh bộ thượng thư". Minh sử c̣n chép rằng: "Năm Vĩnh Lạc [1403-1424], vua Minh thân chinh Mạc bắc. Khi giặc kéo ào đến, bèn đem thần sang của nước An-Nam ra đánh..." (Vân đài loại ngữ, bản dịch của Phạm Vũ và Lê Hiền, Tự Lực tái bản, Hoa Kỳ, tt. 238-239). Thần sang An Nam ở đây là súng thần công do Hồ Nguyên Trừng chế tạo. Hồ Nguyên Trừng có soạn sách Nam ông mộng lục, viết về 31 nhân vật nổi tiếng trong lịch sử nước nhà. Có lẽ nhờ Hồ Nguyên Trừng mà Hồ Quư Ly và Hồ Hán Thương không bị giết, mà chỉ bị đày đi Quảng Châu.
Phạm Cao Dương "Từ nạn trộm cắp các cổ vật tại Việt Nam đến tham vọng bá quyền về văn hóa của Trung Quốc", nguyệt san Thế Kỷ 21, số 130-131, tháng 2 & 3-2000, tr. 54.
Cương mục, sđd. tr. 765, "Lời chua". Khi chua như trên, các soạn giả bộ Cương mục dựa vào "Văn tịch chí" trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú. Tuy Phan Huy Chú đề tên tác giả các sách về h́nh luật, điển lễ trên đây là các vua, thật ra là do các quan soạn dưới triều các vua đó. Ngoài ra, vài tác phẩm hiện đă t́m thấy lại được như Khóa hư tập của vua Trần Thái Tông, Việt điện u linh tập của Lư Tế Xuyên, hoặc c̣n sót lại vài bài thơ như của Trần Thái Tông, Trần Quang Khải...
Đời nhà Trần trở về trước, dân Việt theo tục xâm ḿnh và cắt tóc.
Stanley Karnov, Viet Nam a History, New York:The Viking Press, 1983, tr. 103.
Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kư toàn thư [chữ Nho], Hà Nội: Nxb. Khoa học Xă hội, bản dịch tập 2, 1998, tt. 236, 242. Tính lư đại toàn: Bộ sách do Hồ Quảng vâng lệnh vua Minh soạn ra, nội dung dựa vào học thuyết của các Nho sĩ đời Tống.
Tứ ngược: hết sức tàn ngược. [Chú thích 10, 11 và 12 theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược.]
Khoa liễm: thuế má.
Quan quả điên liên: Quan: người không vợ; quả: người góa chồng; điên liên: những kẻ không có nhà ở, không trông cậy vào đâu được.
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sài G̣n: Nxb. Tân Việt tái bản, 1964, tr. 229.