Cuộc Chiến 1979 và Hoàng Sa
-Huy Đức
Ngày 7-2-1979, tại Tokyo,
khi ngầm thông báo với báo
chí một chiến dịch “trừng
phạt” Việt Nam, Đặng Tiểu
B́nh giải thích: “Hiệp ước
mà Việt Nam và Liên Xô kư
kết có tính chất đồng minh
quân sự. Việt Nam đă mở cuộc
xâm nhập vũ trang vào
Campuchia và đang khiêu
khích ở biên giới Trung Quốc”.
Tuy nhiên, nguyên nhân thực
sự của cuộc chiến tranh mà
Đặng Tiểu B́nh thực hiện 10
ngày sau không đơn giản chỉ
là những ǵ được nói ra
trong lời tuyên bố ấy.
Hiệp ước mà ông Đặng đề cập
là Hiệp ước hợp tác toàn
diện giữa Việt Nam và Liên
Xô, kư ngày 3-11-1978. Hiệp
ước này được kư kết sau khi
mối quan hệ giữa Việt Nam và
Trung Quốc đă rất trầm trọng:
Trung Quốc yêu cầu Việt Nam
đóng cửa 3 tổng lănh sự quán
(6-6-1978) và cắt toàn bộ
viện trợ (7-1978). Ngày
29-1-1979, khi hội đàm ở Mỹ,
Đặng Tiểu B́nh nhắc tới
Campuchia, Afganistan với
Tổng thống Jimmy Carter và
cảnh báo “nguy cơ phản ứng
dây chuyền”. J. Carter “đồng
ư với Đặng cách nh́n nhận”
ấy. Tuyên bố chung, hai ngày
sau đó (1-3), nhấn mạnh,
“Trung-Mỹ chống lại bất kỳ
quốc gia hoặc tập đoàn quốc
gia nào mưu kế bá quyền”.
Đặng đă thành công khi sử
dụng liên minh Việt-Xô để
gieo rắc hoài nghi, khiến Mỹ
làm ngơ cho Trung Quốc đánh
Việt Nam, bên trong, Đặng
không hề đánh giá cao “liên
minh” ấy.
Trong hội nghị do Quân ủy
Trung ương Trung Quốc triệu
tập, bàn “chủ trương” đánh
Việt Nam, không ít tướng
lĩnh đă cảnh báo nguy cơ bị
Liên Xô tấn công. Khi ấy,
trên biên giới Trung- Xô,
Liên Xô bố trí tới 50 sư
đoàn chủ lực. Đặng Tiểu B́nh
nhận định: “Liên Xô không
thể không xét tới nhiều nhân
tố quốc tế nên khả năng (v́
Việt Nam mà) can thiệp vào
Trung Quốc là rất ít”. Trên
thực tế, một tuần sau khi
Trung Quốc đánh Việt Nam,
không thấy Liên Xô “ra tay”,
Trung Quốc đă đánh tiếp sang
thị xă Lạng Sơn, và chỉ rút
khi trên hướng này Quân Đoàn
II xuất hiện.
Tại thời điểm Đặng tuyên bố
với báo chí, 7-2-1979, quân
đội Việt Nam có mặt ở
Phnompênh vừa tṛn một tháng,
nên “yếu tố Campuchia” có vẻ
như rất dễ thuyết phục.
Nhưng, theo cuốn sách “10
Năm Chiến Tranh Trung Việt”
của NXB Đại học Tứ Xuyên,
công bố năm 1993, ngay trong
Hội Nghị Quân ủy Trung ương,
từ 7 đến ngày 9 tháng 12 năm
1978, Trung Quốc đă quyết
định đánh Việt Nam. Trong
ngày 9-12-1978, Quyết định
này đă được “tuyệt mật”
chuyển tới tay tướng Hứa Thế
Hữu (Tướng Hữu cùng với
Dương Đắc Chí là hai tướng
chỉ huy cuộc chiến tranh
17-2). Trong khi măi tới
ngày 25-12-1978, quân đội
Việt Nam mới bắt đầu mở
chiến dịch đánh sang
Phnompênh.
Khi Khmer Đỏ chưa nắm được
chính quyền, đang “ăn nhờ, ở
đậu” gần Trung ương Cục (Việt
Nam), Pol Pot, Yeng Sary đă
“đi lại” với Bắc Kinh. Năm
1970, Lon Non lật đổ
Sihanouk, Pol Pot đă rất cay
cú khi Sihanouk được đưa về
Hà Nội. Pol Pot nhận ra, họ
không phải là lực lượng duy
nhất mà Việt Nam ủng hộ ở
đất nước nhỏ bé này. Cho dù
sau đó “lá bài” Sihanouk
cũng được “nuôi” ở Bắc Kinh
như một ông hoàng, người
Trung Quốc đă khéo léo nhen
nhúm hiềm khích Việt Nam cho
Pol Pot. Chính v́ thế mà
ngay trong năm 1975, Khmer
Đỏ đă phản bội Việt Nam, bắn
giết ở Phú Quốc, ở Thổ Chu
và từ năm 1977 đánh sang An
Giang, Tây Ninh, có khi vào
sâu hơn 10 km. Tuy nhiên,
cho dù có bị “mất mặt” khi
chế độ diệt chủng Khmer Đỏ
do Trung Quốc hậu thuẫn bị
Việt Nam đánh đổ ở Phnompênh.
Liệu, Trung Quốc có phải là
một “đàn anh” trung thành
với lân bang đến mức hy sinh
ḿnh như vậy?
Người Hoa và vấn đề “nạn
kiều” cũng đóng một vai tṛ
nhất định. Thật khó lư giải
v́ sao cuộc “cải tạo tư sản
công thương nghiệp”, đụng
tới hàng trăm ngh́n người
Hoa, lại được Việt Nam tiến
hành năm 1978, khi mà mối
quan hệ với Trung Quốc đang
hết sức căng, nếu như không
đề cập đến câu chuyện sau
đây, câu chuyện mà sách vở
chưa bao giờ nói đến. Bí thư
Thành ủy TP HCM vào thời
điểm 1975, ông Vơ Văn Kiệt,
kể: “Sau ngày 30-4, ở khu
vực Chợ Lớn có một chi bộ có
vũ trang thuộc bộ phận hải
ngoại của đảng Cộng Sản
Trung Quốc. Chi bộ này xuất
hiện bí mật từ trước 30-4 và
khi đó họ đ̣i được công khai
hoạt động”. Để một lực lượng
Trung Quốc có vũ trang ở Chợ
Lớn th́ cũng không khác chi
“đặt mồi lửa dưới đống củi”,
Việt Nam buộc phải “giải
giáp” họ. Bắc Kinh rất khó
chịu về vụ “giải giáp” này.
Nhưng, cho dù có bao nhiêu
người Hoa đă phải ra đi
trong năm 1978 th́ “nạn kiều”
vẫn là một “lá bài” mà Trung
Quốc cũng chủ động “chơi”
chứ không hẳn là nguyên nhân
khiến cho Đặng Tiểu B́nh đưa
quân sang Việt Nam xâm lược.
Tác giả của “10 Năm Chiến
Tranh Trung Việt” c̣n chỉ ra
một vấn đề rất có thể cũng
là nguyên nhân: Năm 1978,
Đặng Tiểu B́nh vừa khôi phục
lại quyền lănh đạo quân đội,
“Ông có ư thức nhạy bén…
thông qua cuộc chiến tranh,
vừa thăm ḍ được sự trung
thành (của quân đội), vừa
làm cho các nhà lănh đạo (Trung
Quốc) khác nhận rơ những mặt
phải cải cách quân đội”. Đại
tá Hà Tám, chỉ huy trung
đoàn 12 anh hùng đánh Trung
Quốc tháng 2-1979, cho biết:
“Mặc dù pháo theo cùng của
Trung Quốc bắn khá chính xác,
nhưng, bộ binh th́ chủ yếu
dùng ‘biển người’; chỉ huy
của Trung Quốc lúc ấy ra
trận mà vẫn có người che ô,
quân th́ chờ kèn kêu mới
xông trận”. Sau ngày 17-2,
Trung Quốc đă gấp rút cải
cách quân đội, và họ đă “thử
nghiệm” lại trên Biên giới
Việt Nam vào ngày 28-4-1984
bằng một chiến dịch với
phương thức chiến tranh hoàn
toàn mới.
Đặng Tiểu Bính nói: “Người
Trung Quốc làm ǵ cũng có
tính toán”. Cuộc chiến tranh
được huy động khi mà Trung
Quốc đang vô cùng lạc hậu
sau các cuộc cách mạng “da
thịt tàn nhau” không chỉ
nhắm đến một mục tiêu. Bằng
cách kể lể kiểu chương hồi,
cuốn sách mà Trung Quốc cho
công bố, “10 Năm Chiến Tranh
Trung Việt”, đă để lộ một ư
đồ thâm sâu của Đặng, đó là
vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa.
Ngay sau khi kết thúc chiến
tranh ở miền Nam, các nhà
lănh đạo Việt Nam đă bày tỏ
thái độ khá kiên định về chủ
quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa, Trường Sa, quần
đảo mà từ lâu Trung Quốc đă
rắp tâm thôn tính.
Tháng 6-1975, Bộ Ngoại Giao
Việt Nam gửi công hàm cho
Trung Quốc về vấn đề Hoàng
Sa. Ngày 24-9-1975, khi gặp
Đặng Tiểu B́nh ở Bắc Kinh,
Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đă
“yêu cầu phó thủ tướng Đặng
Tiểu B́nh đàm phán về vấn đề
Hoàng Sa và Trường Sa”.
Tháng 4-1977, trên đường đi
Liên Xô ghé qua Bắc Kinh,
Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng
đă gửi đến Trung Quốc thông
điệp của Việt Nam về hai
quần đảo ấy. Tuy nhiên,
trước sau Trung Quốc đều một
mực “yêu cầu Việt Nam trở
lại lập trường trước năm
1974”. “Lập trường trước năm
1974”, theo cuốn sách “10
Năm Chiến Tranh Trung Việt”
là “Tuyên bố của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng năm 1958”.
Cuốn sách nói là Đặng Tiểu
B́nh đă rất “khó chịu” với
Bí thư thứ nhất Lê Duẩn,
Đặng nói: “Vấn đề này không
cần thiết phải đàm phán… (đó)
là lănh thổ Trung Quốc”.
Có lẽ, năm 1979, Đặng Tiểu
B́nh nghĩ là có thể đè bẹp ư
chí của người Việt Nam trong
vấn đề đ̣i lại Hoàng Sa và
Trường Sa nên đă phát động
chiến tranh. Và, các yếu tố
như Liên Xô, Campuchia được
Đặng vận dụng tối đa để cô
lập Việt Nam trên trường
quốc tế. Điều cay đắng là,
lẽ ra Đặng đă không thể cô
lập Việt Nam để gây đổ máu
của dân ta như thế nếu như
sau 1975, Việt Nam thiết lập
quan hệ ngoại giao với các
nước trong khối ASEAN ngay
và đặc biệt, b́nh thường
ngoại giao với Mỹ. Năm 1977,
khi Mỹ ch́a tay ra cho Việt
Nam, theo Tổng thống Jimmy
Carter, “vấn đề bồi thường
chiến tranh đă gây khó khăn”.
Rồi, trong khi Việt Nam đang
loay hoay th́ Đặng Tiểu B́nh
đă khai thác yếu tố này ngay,
để thiết lập được quan hệ
ngoại giao với Mỹ và đặt
Việt Nam vào t́nh huống bị
bao vây, cấm vận. Tất nhiên,
“ư thức hệ” đóng một vài tṛ
quan trọng trong quyết định
“nhất biên đảo” với Liên Xô;
năm ấy, báo Nhân Dân vẫn chỉ
trích Đặng về chủ thuyết
“mèo trắng, mèo đen” và ngày
nay, chúng ta vẫn cần phải
quan tâm tới bài học ấy.
Tôi công bố bài viết này
không chỉ v́ sắp đến ngày
17-2 mà c̣n v́, muốn lưu ư,
“người Trung Quốc làm ǵ
cũng có tính toán”, không
nên đặt cuộc chiến tranh
17-2 ra ngoài âm mưu Biển
Đông. Bản Giốc, Tục Lăm… giờ
đă xong; nhưng, Hoàng Sa,
Trường Sa th́ vẫn đó.
Huy Đức