Cuộc cách mạng đẹp nhất
HOÀNG
NGỌC NGUYÊN
Bước vào năm 2009, ngựi ta nhớ đến
năm 1989, cách đây 20 năm. Kết thúc
năm 2009, người ta một lần nữa nh́n
lại năm 1989 và những chuyện xảy ra
cách đây đúng 20 năm. Đầu năm nhớ
đến những chuyện xảy ra cách đây
mười năm, hai mươi năm không có ǵ
là lạ, đó là một thói quen của những
người thích “ôn cố”. Nhất là v́ làm
sao nhân loại có thể quên được năm
1989 vĩ đại đó. Bây giờ là cuối năm,
và thế giới đang đứng trước một t́nh
h́nh rối rắm khắp nơi. Khi ta nh́n
lại năm 1989 đó, chính là môt cách
“tri tân” để dấy lên niềm hy vọng
cuối cùng có thể chẳng có ǵ là
ngoài sức của loài người cả.
CỔNG BRANDENBURG
Người không thể thiếu
Con người vẫn ưa so sánh, do đó
không khỏi tự hỏi trong hai biến cố
lớn nhất của thế giới vào thế kỷ thứ
20, biến cố nào vĩ đại hơn: sự kết
thúc Đệ nhị Thế chiến năm 1945 hay
sự sụp đổ của Cộng Sản châu Âu năm
1989. Chấm dứt được một cuộc chiến
có qui mô toàn thế giới với hơn 20
triệu người bỏ ḿnh và để lại cảnh
tang thương, đổ nát khắp nơi là một
sự kiện bi hùng chắc chắn không bao
giờ mất chỗ của nó trong lịch sử của
loài người. Nhưng những chế độ Đức
Quốc Xă, Phát xít Ư và Nhật Bản quá
non trẻ và cuồng dại, chắc chắn chỉ
có con đường tự hủy; chiến tranh xâm
lược, chiếm đóng thông thường cũng
dẫn đến sự sụp đổ ở ngay chính hậu
phương, nhất là khi người ta mở rộng
xâm lược trên phạm vi toàn cầu đương
nhiên chẳng có khả năng nào nuôi
được sự chiếm đóng của họ. Sự thất
trận của khối trục Đức-Ư-Nhật là
điều không tránh khỏi, thấy trước
được, bi tráng v́ những hy sinh,
chết chóc th́ có, kịch tính và ngoạn
mục th́ có lẽ không. Và sự kết thúc
Đệ nhị Thế chiến chẳng bao giờ được
xem là mỹ măn, bởi v́ nó mở đường
cho sự nhuộm đỏ một số nước châu Âu
để h́nh thành một khối Cộng Sản Đông
Âu đứng đầu là “Liên Xô vĩ đại”,
dựng lên bức tường Bá Linh và mở ra
một cuộc chiến tranh lạnh kéo dài cả
bốn thập niên.
Cái hậu quả này của Đệ nhị Thế chiến
phải chờ hơn 40 năm sau mới giải
quyết được. Giữa lúc người ta vẫn
yên chí Đông là Đông, Tây là Tây,
Đông Tây không bao giờ gặp gỡ nhau
được, để nói lên sự ngăn cách giữa
Đông Âu và Tây Âu v́ bức tường Bá
Linh, mùa thu năm 1989, bức tường
này “sụp đổ”. Cả một loạt chế độ
Cộng Sản ở các nước Đông Âu đua nhau
giải thể, bắt đầu từ nước Ba Lan từ
tháng Chín năm đó, tiếp theo là
Hungari vào tháng Mười, Đông Đức vào
tháng 11, Tiệp Khắc tháng 12,
Bulgaria và Romania tuy vào đầu năm
sau 1990 nhưng đều manh nha từ tháng
cuối của năm trước đó. Những biến
chuyển đó đều là bất ngờ, đều ngoạn
mục, v́ chúng xảy ra vào thời điểm
người ta chưa tưởng được, diễn tiến
nhanh, gọn chóng vánh ngoài khả năng
h́nh dung của ngay cả những ngựi
quan sát chặt chẽ nhất, và mặc dù
đây là những cuộc cách mạng đích
thực, tất cả đều không đổ máu – trừ
trường hợp ở Romania hai vợ chồng
người lănh dạo Nicolas Ceaucescu bị
xử tử trước sự căm hận dâng trào của
quần chúng.
Những nhà quan sát chính trị đều
hiểu rằng t́nh h́nh các nước Đông Âu
trong những năm 80 diễn biến phức
tạp trước hai sự kiện thách thức:
phong trào Công đoàn Đoàn kết của
ông Lech Walesa ở Ba Lan và sự xuất
hiện của Tổng bí thư Mikhail
Gorbachev với chủ trương glasnost và
perestroika của ông. Glasnost là sự
thừa nhận thất bại về chính trị của
chế độ cộng sản. Perestreoika là sự
thừa nhận thất bại về kinh tế. Và
công đoàn Đoàn kết là sự cảnh báo
của chế độ cộng sản đối với giai cấp
công nhân! Cho nên người ta vừa phải
đặt câu hỏi về raison d’être của
cộng sản có c̣n nữa không, nhưng
đồng thời nếu không có lư do tồn tại
th́ làm sao cho nó mất đi. Một chế
độ sụp đổ không chỉ là do ḷng dân
mà c̣n do sự “hợp tác” của những
người đại diện cho chế độ đó ở mức
độ nào. Cách mạng v́ thế trở nên một
cuộc bạo động đổ máu nếu người chủ
trương lật đổ bạo quyền sẵn sàng hy
sinh xương máu, trong khi người cầm
quyền dùng bạo lực để nghiền nát
quần chúng. Trong trường hợp các
nước Đông Âu, câu hỏi này phức tạp
là v́ cách mạng ở các nước Đông Âu
không phải là chuyện nội bộ. Ngay cả
trước khi có học thuyết Brezhnev,
những cố gắng khởi nghĩa của người
dân ở Ba Lan, ở Hungari đă bị đập
tan, không phải bởi người cầm quyền
mà bởi xe tăng từ bên ngoài, từ Liên
Xô, từ khối Warsaw (các nước chư hầu
Đông Âu của Liên Xô). Năm 1968, mùa
xuân Prague của Tiệp Khắc cũng chóng
tàn bởi học thuyết Brezhnev, “quyền
can thiệp của Liên Xô trước nội loạn
ở các nước trong khối”.
Những nhà chính trị học hay sử học
có khi cường điệu cho rằng ông
Ronald Reagan, tổng thống Mỹ từ
1980-1988 làm cho khối Đông Âu sụp
đổ. (Ông “có ngon” làm cho Trung Hoa
Cộng Sản giải thể đi!), nhưng công
đầu luôn luôn phải kể cho ngựi cô
đơn nhất hiện nay trên thế giới:
Mikhail Gorbachev. Chẳng những ông
đă đưa ra tư duy mới khiến cho những
nhà cầm quyền Cộng Sản thấy cái chế
độ của ḿnh chẳng đáng ǵ, mà c̣n
kích thích những người đối kháng tin
rằng công việc giải thể chế độ của
họ nay c̣n ít chướng ngại v́ ông
Gorbachev đă dẹp qua một bên học
thuyết Brezhnev, có nghĩa là Liên Xô
nh́n nhận quyền dân tộc tự quyết của
các nước chư hầu, vệ tinh của Liên
Xô.
Nói ngay t́nh, ông Gorbachev không
h́nh dung sự giải thể hay tan ră cũa
khối các nước Cộng Sản Đông Âu. Ông
thấy chế độ Cộng Sản có nhiều khuyết
tật, đưa đến sự tŕ trệ, chậm tiến
kinh tế và sự bóp nghẹt nhũng quyền
tự do tư tưởng và phát biểu của con
người. Nên ông chủ trương cải cách.
Cải cách không chỉ ở trong nước của
ông, mà cả ở những nước “đồng chí
anh em”. Nhưng những đồng chí ở Đông
Âu nh́n ông như một nhân vật quái
dị, Zhikov ở Bulgaria, Ceausescu ở
Romania, Honecker ở Đông Âu, Husak ở
Tiệp Khắc, Jaruzelski ở Ba Lan…nói
cải tổ như ông th́ làm sao kiểm soát
được nội an, th́ c̣n ǵ là công sản
nữa, cho nên họ lắc đầu với ông:
“Chẳng phải một nước láng giềng dựng
lên một bức tường giấy mới mà chúng
tôi cũng phải làm theo.” Tuy nhiên,
khi Gorbachev kiên tŕ thúc giục cải
cách một cách công khai, đó chẳng
khác ǵ một sự động viên, cổ vũ các
thành phần đối kháng cứ tiến tới.
Từ Ba Lan đến Đông Đức
Quá tŕnh giải thể các chế độ Cộng
Sản ở Đông Âu bắt đầu từ nước Ba
Lan, với sự h́nh thành phong trào
Công đoàn Đoàn kết, một tổ chức công
đoàn độc lập, thoát ly với công đoàn
quốc doanh của nhà nước Cộng Sản.
Mặc dù phải hoạt động bán công khai,
nhiều lănh tụ tổ chức bị bắt bớ,
giam cầm, công đoàn độc lập này
trong một nước với đại đa số là
người Thiên Chúa giáo được giáo hội
La Mă mà Giáo hoàng là người Ba Lan
tích cực ủng hộ đă ngày càng mạnh và
đến năm 1988 đă buộc chính quyền của
Jaruzelski phải đối thoại để đi t́m
một giải pháp chính trị, với kết quả
là vào tháng Tư năm 1989 Đoàn Kết
được hợp pháp hóa hoạt động và được
tham dự vào bầu cử Quốc Hội một cách
dân chủ lần đầu tiên từ gần 40 năm
qua. Trong cuộc bầu cử được tổ chức
vào tháng Sáu, những ứng cử viên của
công đoàn Đoàn kết giành hết ghế họ
được quyền tham dự ở Hạ Viện, và
trên Thượng Viện họ cũng chiếm đến
99 trong số 100 ghế. Tháng Chín năm
1989, lần đầu tiên ở Ba Lan, một
chính phủ tuyệt đối không có người
Cộng Sản tham dự đă được h́nh thành.
Tại Hungari, quá tŕnh “tự do hóa”
một cách chừng mực đă được bắt đầu
từ đầu những năm 80, nhưng đến khi
người ta lật đổ Tổng bí thư Janos
Kadar vào năm 1988, cuộc cách mạng
mới đi vào giai đoạn hành động. Năm
1988, Quốc Hội thông qua “đề cương
dân chủ”, một năm sau, đảng Cộng Sản
đổi tên vào tháng Mười năm 1989,
cùng tháng 10 năm đó, Quốc Hội thông
qua luật bầu cử đa nguyên, bầu tổng
thống theo thể thức trực tiếp đầu
phiếu, và đổi tên nước từ Công ḥa
Nhân dân thành Cộng ḥa Hungari.
Tổng bí thư Eric Honecker của Đông
Đức mê ngủ hơn. Trong khi hàng chục
ngàn người Đông Đức đang lợi dụng sự
đổi thay chính trị ở Hungari để t́m
cách thoát qua Tây Đức bằng con
đường biên giới với Hungari, ông
Honecker tổ chức một cuộc diễn binh
rầm rộ nhân dịp 40 năm ngày thành
lập Cộng ḥa Dân chủ Đức vào ngày
7-10. Tham dự buổi lễ này, ông
Gorbachev chỉ nói với Honecker một
điều: “Người nào chậm trễ sẽ mang
hận suốt đời.” Honecker vẫn chống
cải cách nội t́nh, và c̣n ra lệnh
ngăn cấm phổ biến báo chí từ Liên xô
đến. Khoảng 10 ngày sau, với những
cuộc biểu t́nh có cả hàng trăm ngàn
người tham dự trên nhiều thành phố
lớn của Đông Đức, nhà cầm quyền thấy
nguy và hạ bệ Honecker, đồng thời mở
cửa biên giới với Tiệp Khắc cho
ngựi dân Đông Đức đi Tây Đức thoải
mái qua đường Đông Đức. Kết quả của
lệnh này là người ta đổ qua Tiệp
Khắc như vỡ đê, và Tiệp Khắc cũng
chẳng màng, cứ để cho người dân Đông
Đức từ đó đi thẳng qua Tây Đức. Ngày
9-11-1989, mà người Đức sẽ kỷ niệm
vào ngày thứ Hai tới như ngày “Sụp
đổ Bức tường Bá Linh”, chính quyền
Đông Đức buộc ḷng cho phép người
dân của ḿnh thả dàn, ai muốn đi
thẳng qua Tây Đức th́ qua, trực
tiếp, qua con đường bức tường Bá
Linh, bằng cách mở ra nhiều trạm
chuyển tiếp dọc theo bức tường này
cũng như dọc theo biên giới với Tây
Đức. Đến tháng 12, đảng Thống nhất
Xă hội Đức, tức đảng Cộng Sản của
Đông Đức, đă mở ra chính quyền liên
hiệp, chấm dứt nền “chuyên chính vô
sản”, và mở đường cho sự thống nhất
đất nước một năm sau, sau khi Cộng
Ḥa Liên bang Đức đạt được thỏa
thuận với Liên xô về việc này.
Những chế độ Cộng Sản khác ở Tiệp
Khắc, ở Bulgaria và cả ở Romania
đương nhiên không c̣n lư do tồn tại.
Ở Tiệp Khắc, phong trào đối kháng đă
có sẵn. Ở Bulgaria, Zhikov đă để cho
chế độ tham nhũng tồn tại quá lâu. Ở
Romania, chế độ công an trị theo
kiểu Stalin của Ceausescu đă trở
thành lố bịch trong cao trào nhận
thức dân chủ đang lan rộng ở những
nước Cộng Sản Đông Âu. Những người
như Husak ở Tiệp Khắc, Honecker ở
Đông Đức, Zhikov ở Bulgaria, Kadar ở
Hungari, Ceausescu ở Romania đứng
vững được lâu nay là nhờ sự hậu
thuẫn mạnh mẽ của Điện Cẩm Linh và
do đó có thể áp dụng một cách cai
trị khủng bố Stalinist với ngựi
dân. Nay th́ Mạc Tư Khoa đă không
ủng hộ những người lạnh đạo này và
chủ trương đàn áp, khủng bố người
đối kháng của họ. Cái sức mạnh của
những người cầm quyền v́ thế lung
lay.
Tại sao người dân những nước này sẵn
sàng xuống đường để lật đổ chế độ
của họ? Có hai lư do liên quan chặt
chẽ với nhau: giới dân thành thị, từ
công nhân đến viên chúc nhà nước, từ
sinh viên đến trí thức đă từ lâu
thấy chế độ của họ chẳng ra ǵ, và
chính bản thân của họ, xă hội của họ
chẳng thể nào khá hơn nếu không có
thay đổi; chẳng có thời điểm nào tốt
đẹp hơn hiện nay, khi có những biến
chuyển đang diễn ra ở Liên Xô và
người ta đang hiểu có những nứt rạn
không thể hàn gắn được của chế độ.
Chót hết, đó là sự thức thời của
những người lănh đạo độc tài, chuyên
chính, bảo thủ ở những nước Đông Âu
này. Họ có thể huy động bộ máy đàn
áp sự để dẹp đối kháng bằng những
phương tiện quân đội, cảnh sát, công
an. Nhưng may thay, họ đă mỏi mệt.
Họ đă nh́n thấy quả thực chế độ Cộng
Sản chẳng phục vụ ai, chẳng làm cho
ai tốt đẹp hơn. Họ hiểu rằng nói thế
nào đi nữa, th́ chủ nghĩa công sản
là một thất bại.
Đó chính là cái may lịch sử của nhân
loại, cửa Đông Âu, của thế giới
khiến cho “sự sụp đổ bức tường Bá
Linh” cho người ta niềm tin rồi cái
ǵ phải đến cũng sẽ đến. [HNN]