CHIẾN TRANH VIỆT NAM NH̀N TỪ HAI NGƯỜI LÍNH NAM, BẮC
Chiến tranh Việt Nam chấm dứt đă 34 năm. Có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu chính trị, nhà báo đă đặt nhiều tên cho cuộc chiến Việt Nam. Có người cho đó là cuộc chiến ư thức hệ; kẻ khác gọi là cuộc chiến ủy nhiệm; lại có dư luận đặt tên cuộc chiến Việt Nam là nội chiến, nồi da xáo thịt. Thật ra tất cả những tên gọi đều đúng. Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến ư thức hệ, ủy nhiệm, nội chiến. Gọi tên thế nào th́ gọi chứ thực chất cuộc chiến là người Việt hai miền đánh nhau, giết nhau bằng những vũ khí hiện đại nhất. Sự căm thù nhau là cũng do ư thức hệ gây ra, bên nào cũng cho ḿnh đang nắm lẽ phải, chính nghĩa. Bài viết này tŕnh bày 2 bài thơ của hai người lính thi sĩ của hai miền Nam, Bắc nói lên cảm nghĩ của họ khi phải ra trận giết người anh em cùng chung máu đỏ da vàng. Đó là thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn của miền Nam và thi sĩ Lưu quang Vũ của miền Bắc. Hơn xa tất cả những nhà chính trị lănh đạo của hai miền, hai người lính đă thấy được sự dă man và vô lư cùng cực của cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Máu người Việt đổ ra một cách oan uổng, đau dớn cho một trận banh giữa các cường quốc tư bản và Cộng sản trong đó người Việt Nam không nắm phần chủ động mà chỉ làm thân phận tay sai, chiến đấu hung hăn, tàn bạo cho phe phái của ḿnh. Chính nghĩa dân tộc được cả hai bên đề cao với hy vong mang lại lẽ phải cho phe ḿnh nhưng kết quả là cả triệu người Việt cả hai phe chết oan uổng cho bọn đầu nậu ngoại bang. Nước Việt Nam tan hoang, nhà Việt Nam tan đổ, người Việt nh́n nhau với sự hận thù tưởng như không bao giờ có thể nguôi ngoai.
Sau thế chiến thứ 2, Mỹ và thế giới các nước Cộng sản sống trong không khí chiến tranh lạnh. Mỹ không kư vào Hiệp định Geneve năm 1954 là muốn có tư thế danh chính ngôn thuận để nhảy vào miền Nam Việt Nam làm tiền đồn ngăn làn sóng đỏ. Chuyện đầu tiên Mỹ làm là xúi dục Thủ tướng Ngô đ́nh Diệm “phản chủ“ là vua Bảo Đại, qua cái tṛ hề “trưng cầu dân ư“ do Mỹ đạo diễn từ đầu đến cuối. Ai cũng biết Ngô đ́nh Diệm phải sang Pháp quỳ dưới chân vua Bảo Đại để nhận chức thủ tướng do vua Bảo Đại ban cho. Mỹ viện trợ và tô bồi cho chính quyền Ngô đ́nh Diệm thành một tiền đồn chống cộng theo ư Mỹ muốn,, Người ta chưa quên câu nói của Tổng thống Ngô đ́nh Diệm tỏ bày ư nguyện trung thành với Mỹ trên mặt trận chống làn sóng đỏ xâm lăng như sau “Biên giới của thế giới tự do kéo dài từ Alaska đến vĩ tuyến 17”.
Ngô đ́nh Diệm được Mỹ dựng lên và chống Cộng theo yêu cầu của Mỹ để giữ vững miền Nam trước sự xâm lăng của miền Bắc. Nhưng rồi Ngô đ́nh Diệm phạm nhiều khuyết điểm làm cho chuyện chống Cộng thiếu phần kết quả và những giây phút cuối tính chuyện bắt tay với miền Bắc để hóa giải áp lực của Mỹ nên cuối cùng bị các tướng lănh đứng lên lật đổ với sự nhúng tay của Mỹ vào năm 1963. Sau Ngô đ́nh Diệm, Mỹ đưa Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ lên lănh đạo miền Nam để tiếp tục công cuộc chống Cộng theo chủ trương của Mỹ cho đến ngày tan hàng 30 tháng 4 năm 1975.
Phải thấy rơ nguyên ủy sâu xa của lư do Mỹ nhảy vào Việt Nam chống cộng là tạo dựng cho miền Nam một con đê ngăn chặn làn sóng đỏ. Mỹ đổ viện trợ và xương máu của cả lính Mỹ v́ quyền lợi chiến lược của nước Mỹ chứ không v́ lo bảo vệ tư do cho nhân dân Miền Nam. Trong thời kỳ này Mỹ theo đuổi chủ thuyết Domino, t́m mọi cách để dùng miền Nam Việt Nam ngăn làn sóng đỏ Cộng sản, v́ nếu miền Nam sụp đổ th́ những nước lân cận như Lào, Kampuchia, Thái Lan sẽ đổ nhào theo như nhưng quân cờ Domino và như thế là làm tổn hại đến chiến lược toàn cầu của Mỹ. Nhưng rồi sau Hiệp Định Paris 1973, Mỹ không cần miền Nam nữa v́ đă bắt tay được với Trung Cọng nên quyết định bỏ rơi một cách tàn nhẫn thẳng tay. Trong những ngày miền Nam hấp hối trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Ford xin viện trợ quân sự khẩn cấp 300 triệu để cứu miền Nam khỏi sụp đổ. Quốc hội Mỹ thẳng tay bác bỏ v́ lúc ấy Mỹ không cần đến miền Nam Việt Nam nữa nên Mỹ quyết định phủi tay bỏ rơi miền Nam sau những năm đổ bao nhiêu nhân lực, vật lực và cả máu lính Mỹ chiến đấu chống Cộng sản miền Bắc.
Người dân miền Nam thất vọng v́ chuyện bị Mỹ bỏ rơi đă đành, thế mà ở miền Băéc có một thi sĩ tỏ bày sự chê trách chuyện Mỹ phủi tay bỏ chạy để cho Cộng sản miền Bắc nhuộm đỏ cả miền Nam. Người thi sĩ đó là Nguyễn chí Thiện, dù ở miền Bắc bị bưng bít mọi thông tin, ông vẫn nh́n ra chuyện cuốn cờ bỏ chạy ô nhục của người Mỹ
KHI MỸ CHẠY
Khi Mỹ chạy bỏ miền Nam cho Cộng sản
Sức mạnh toàn cầu nhục nhă kêu than
Giữa tù lao, bệnh hoạn cơ hàn
Thơ vẫn bắn và thừa dư sức đạn!
V́ thơ biết một ngày mai xa xôi nhưng sáng lạn
Không giành cho thế lực yêu gian
Tuyệt vọng dẫu lan tràn
Hy vọng dẫu tiêu tan
Dân nước dẫu đêm dài ai oán
Thơ vẫn đó, gông cùm trên ván
Âm thầm, thâm tím, kiên gan
Biến trái tim thành “chiếu yêu kính” giúp nhân gian
Nhận rơ nguyên h́nh Cộng sản
Tất cả suy tàn, sức thơ vô hạn
Thắng không gian và thắng cả thời gian
Sắt thép quân thù năm tháng rỉ han!
( 1975)
Mỹ không chống Cộng cũng không thân Cộng, Mỹ lúc nào cũng theo chủ nghĩa “duy lợi“, có nghĩa theo cái lợi mà làm, bất chấp t́nh nghĩa, liêm sỉ. Trong chiến tranh với Việt Cộng, Mỹ luôn tŕnh bày Việt Cộng là hiện thân của những ǵ độc ác, xấu xa nhất. Ngày nay Mỹ giung giăng giung giẻ làm ăn buôn bán vui vẻ với Việt Cộng v́ chuyện này có lợi cho Mỹ. Cộng sản vẫn tiếp tục đàn áp bách hại tôn giáo và Mỹ vẫn không đưa Cộng sản vào danh sách CPC dành cho những quốc gia đàn áp tôn giáo là chuyện dễ hiểu thôi. Mỹ đang có những mối quan hệ kinh tế quân sự tốt đẹp với Cộng sản Việt Nam th́ những chuyện vi phạm nhân quyền của Cộng sản Việt Nam là chuyện nhỏ nhặt Mỹ không muốn để ư tới và có biện pháp chế tài trừng trị. Khi thương th́ quả ấu cũng tṛn mà!. Những người Việt quốc gia nên nhớ đến điều này để đừng bao giờ đặt quá nhiều hy vọng vào người bạn Mỹ trên con đường quang phục quê hương. Đừng bao giờ mơ tưởng đến chuyện Mỹ bật “đèn xanh, đèn đỏ“ khai thông đường về lại quê hương. Trong 21 năm tồn tại của miền Nam (1954- 1975) Mỹ hỗ trợ cho chế độ Việt Nam Cộng Ḥa chống cộng hung hăn, điên cuồng cũng chỉ để giải quyết nhu cầu chiến lược toàn cầu của Mỹ mà thôi. Người lính miền Nam được Mỹ huấn luyện căm thù sâu sắc để chiến đấu tiêu diệt bọn giặc Cộng miền Bắc xâm lăng miền Nam. Điều này cũng đúng với phe miền Bắc là người lính miền Bắc được Đảng tuyên truyền nhồi sọ phải coi Mỹ là kẻ thù xâm lược và người lính miền Nam là tay sai của Mỹ và là kẻ thù không đội trời chung phải tiêu diệt bằng mọi giá.
Hồ chí Minh khi t́m đến Quốc tế thứ bavà thế giới các nước vô sản để xin vũ khí và viện trợ phục vụ cho chuyện đánh Mỹ, đánh Pháp hầu mang lại độc lập cho dân tộc Việt Nam. Các nước đàn anh Cộng sản như Nga, Tàu viện trợ vũ khí cho Hồ chí Minh đánh Pháp và sau này là đánh Mỹ không với mục đích là mong muốn cho Hồ chí Minh giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam mà với mục đích là trang bị cho miền Bắc phương tiện để chống lại đế quốc theo phương hướng vô sản phải chống lại tư sản đế quốc để làm suy yếu phe tư bản đế quốc trên toàn cầu. Hồ chí Minh chỉ là một tên lính đánh thuê của chủ nghĩa Cộng sản không hơn không kém. Trong dịp xuân 1963, Hồ chí Minh có gửi hai cành đào tặng Tổng thống Ngô đ́nh Diệm kèm theo lá thư mong mỏi hai miền sẽ phát triển theo chiều hướng chính trị riêng của từng miền. Đó là ước mong chung sống ḥa b́nh với miền Nam của Hồ chí Minh. Khi chuyện này lộ ra, Quốc tế Cộng sản cho đàn em tước hết quyền lực của Hồ chí Minh ngay v́ chuyện làm này đi ngược với đường lối làm suy yếu và tiêu diệt đế quốc tư bản đứng đầu là Mỹ của Quốc tế Cộng sản. (Xin vào www.nsvietnam.com rồi bấm vào tên Trần Viết Đại Hưng để đọc bài “Một cách lư giải về chuyện Hồ chí Minh bị mất quyền lực trong nhưng năm cuối đời“ để hiểu rơ thêm về ước muốn bắt tay miền Nam của Hồ chí Minh). Ông Cao xuân Vỹ, vốn là thủ lănh Thanh niên Cộng Ḥa dưới chế độ Ngô đ́nh Diệm mới đây (năm 2009) đă lên đài truyền h́nh SET (57.4) để xác nhận chuyện Hồ chí Minh gửi cành đào cho Ngô đ́nh Diệm xuân năm 1963 trong chương tŕnh t́m hiểu lịch sử của cô Kim Nhung. Hai miền Nam Bắc phải đánh nhau theo sự điều động của hai thế lực Tư bản và Cộng sản đứng đằng sau hổ trợ. Hai miền Nam Bắc không có quyền nói chuyện sống chung ḥa b́nh, thân ái với nhau. Ngô đ́nh Diệm bị giết và Hồ chí Minh bị thất sủng khi tính chuyện ḥa hợp ḥa giải với nhau đă cho thấy cái gọng kềm của hai thế lực quốc tế đứng đằng sau hai ông cương quyết và tàn nhẫn như thế nào. Những tên cai thầu chính trị quốc tế gian ác này muôán người dân, người lính hai miền phải căm thù nhau, phải giết nhau bằng những phương tiện dă man nhất để thỏa măn cho nhu cầu chính trị quốc tế của chúng. Cho nên không có chuyện chính nghĩa thuộc về phe nào trong chuyện người Việt giết nhau cả mà anh em cùng ḍng máu đỏ da vàng hăng say giết nhau theo sự thúc dục bắt buộc của ngoại bang v́ ván cờ chính trị chiến lược của chúng. Thật đau ḷng và chua xót cho dân tộc Việt Nam, một dân tộc chưa bao giờ có đủ điều kiện để làm chủ lấy đất nước ḿnh mà luôn chịu sự lệ thuộc và chi phối của nhưng thế lực quốc tế gian ác và xấu xa nhất trên đời.
Không phải tới thời kỳ 1954- 1975 nước Việt Nam mới có nội chiến. Trước đó hàng trăm năm đă có tranh chấp Trịnh – Nguyễn và sau đó là cuộc nội chiến của Nguyễn Ánh và phe Tây Sơn (1771- 1802). Ngay trong phe Tây Sơn th́ hai anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ cũng ḱnh chống nhau rồi. Nếu trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước, máu của người Việt Nam đổ ra khi chống ngoại xâm là một sự hy sinh đẹp đẽ và cao quư bao nhiêu th́ trong những thời kỳ nội chiến, máu người Việt đổ ra là một sự hoang phí và đáng nguyền rủa bấy nhiêu. Máu người Việt đổ ra trong cuộc nội chiến dĩ nhiên không phải để giữ ǵn, bảo vệ giang sơn gấm vóc mà để tranh giành ngôi báu cho ḍng họ cá nhân. Những ḍng họ cá nhân này không bao giờ biết đặt quyền lợi của dân tộc tổ quốc lên trên ḍng họ của ḿnh. Riêng về giai đoạn nội chiến 1954- 1975 th́ cuộc nội chiến này đă nhuốm màu ư thức hệ chứ không c̣n chuyện tranh giành ngôi báu cho gia đ́nh riêng tư như những cuộc nội chiến trong quá khứ. Dù sao, máu người Việt đổ ra trong cuộc nội chiến đấu thế kỷ 20 này cũng phung phí và đau ḷng v́ chuyện “gà nhà bôi mặt” đá nhau, giết nhau một cách tận t́nh không thương tiếc. Lănh tụ của cả hai miền đều không đủ sự tỉnh thức để nh́n thấy thân phận tay sai cho các thế lực quốc tế của ḿnh, mà chỉ hăng say, ngu xuẩn, mù quáng theo đuổi con đường thúc đẩy người Việt hai miền chém giết lẫn nhau. Dĩ nhiên chuyện anh em chém giết được hai chế độ đối nghịch của hai miền tô vẽ đẹp đẽ như một chuyện làm cao cả, cúu nước cứu dân, giải phóng, độc lập, tự do.
Và khi bàn cờ chiến tranh đă sắp xếp xong th́ người lính miền Bắc Lưu quang Vũ theo lệnh Đảng vào chiến trường miền Nam để bắn giết người lính miền Nam mà chế độ miền Bắc nhục mạ gọi là “lính ngụy”. Và người lính miền Nam Nguyễn bắc Sơn cũng được lệnh ra chiến trường để nả đạn vào người lính miền Bắc bị miền Nam gọi là “quân Cộng sản xâm lăng Bắc việt.”. Giống như nhà văn Phan nhật Nam, nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn có người cha phục vụ cho phía bên kia. Đây là chuyện oan trái xảy ra trong một số gia đ́nh người Việt bị cuộc chiến phân chia thành hai phe đối nghịch nhau. Nhà văn Vơ Phiến và Nhật Tiến ở miền Nam đều có em là người cầm bút trong chế độ Cộng sản. Thơ Nguyễn bắc Sơn thường có giọng điệu ngang tàng, bất cần đời, khinh bạc. Trong bài thơ “Chiến tranh Việt Nam và tôi” được trích dẫn dưới đây, ông đă nói lên nếp sống ăn chơi không nề nếp của ông dù ông đang ở trong quân đội. Đặc biệt là ông nói lên cái tâm trạng khi ra trận phải bắn đối phương v́ đứng trong tư thế bất khả kháng “không bắn người th́ người bắn ḿnh”. Ông biết người lính đối phương từ miền Bắc cũng là người Việt máu đỏ da vàng như ông. Ông bắn mà ḷng không thù hận, oán thù. Có lẽ trong tâm tư ông dâng lên niềm chua xót khi ông là người Việt mà phải bắn một người Việt v́ cuộc chiến oan nghiệt đă phân chia hai miền thành kẻ thù không đội trời chung của nhau. Ông đánh giá chiến tranh này cũng chỉ là một tṛ chơi chứ không phải là một cuộc chiến bảo vệ chính nghĩa hay giải phóng dân tộc như guồng máy chiến tranh chính trị của hai miền thường rêu rao, tuyên truyền. Cái nh́n của ông về cuộc chiến Việt Nam được đánh giá là tỉnh táo và trung thực. Những nhận xét của ông về chuyện chém giết nói chung là nhân bản và hiểu biết. Một người lính như ông cũng đă nh́n thấy bản chất phi lư và chết chóc lăng nhách của cuộc chiến Việt Nam mà những kẻ lănh đạo hai miền chưa chắc đă có được. Ông thực sự là một người có trí tuệ và ḷng thương bao la đến đồng bào ruột thịt của ḿnh.
CHIẾN TRANH VIỆT NAM VÀ TÔI
Ḷng suối cạn phơi một bầy đá cuội
Rừng giáp rừng gió thổi cỏ lông măng
Đoàn quân anh đi những bóng cọp vằn
Gân mắt đỏ lạnh như tiền sắc mặt
Bốn chuyến di hành một ngày mệt ngất
Dừng chân nơi đây nói chuyện tiếu lâm chơi
Hăy tựa gốc cây hăy ngắm mây trời
Hăy tưởng tượng ḿnh đang đi picnic
Kẻ thù ta ơi các ngài du kích
Hăy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo
Hăy tránh xa ra ta xin xí điều
Lúc này đây ta không thèm đánh giặc
Thèm uống chai bia thèm châm điếu thuốc
Thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh
Kẻ thù ta ơi những đứa xăm ḿnh
Ăn muối đá mà hăng say chiến đấu
Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ư nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi v́ ngươi bạc phước
V́ căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Chiến tranh này cũng chỉ một tṛ chơi
Suy nghĩ làm ǵ lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu
Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc
Mang bom đạn chơi tṛ pháo tết
Và máu xương làm phân bón rừng hoang.
NGUYỄN BẮC SƠN ( 1972)
Từ đầu những năm của thập niên 1960, Miền Bắc phát động cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam, được mệnh danh là cuộc chiến “chống đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai.” Đảng và nhà nước đă tô vẽ cuộc chiến tranh xâm lăng bằng những lời lẽ tuyên truyền hào hùng, đẹp dẽ với mục đích làm phấn chấn tinh thần bộ đội trẻ lên đường
Cộng sản Việt Nam viện dẫn đến lịch sử chống ngoại xâm dài 4000 năm (40 thế kỷ) để khêu gợi tinh thần yêu nước vốn lúc nào cũng tiềm tàng trong con người Việt Nam. Những câu thơ sau có tác dụng khuyến khích mạnh mẽ tinh thần thanh niên thiếu nữ lên đường ra trận
Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận
Có Đảng ta đây có Bác Hồ
(Trích trong tập thơ “Theo chân Bác” xuất bản năm 1970 của Tố Hữu)
Tố Hữu, ngọn cờ đầu của nền thi ca xă hội chủ nghĩa, c̣n có những vần thơ lạc quan, phấn khởi cho chuyện gửi quân vào Nam như sau
Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước
Mà ḷng phơi phới dậy tương lai
Tố Hữu viết mấy câu thơ sau vào tháng 1 năm 1966, vẽ ra h́nh ảnh đẹp của những cô gái chống chiến tranh phá hoại của Mỹ
Ôi những nàng xuân rất dịu dàng
Hát câu quan họ chuyến đ̣ ngang
Nhẹ nhàng tay cấy bên sông ấy
Súng khoác trên lưng chẳng ngỡ ngàng
(Xuân Sớm)
Bài hát nổi tiếng “Trường sơn đông, Trường sơn tây” do nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ từ bài thơ của Phạm tiến Duật sáng tác năm 1969 cũng tô hồng, vẽ vời lên cái tâm trạng phơi phới, hăng say của những thanh niên, thiếu nữ miền Bắc ra trận:
..Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường sơn đông nhớ Trường sơn tây
Từ nơi em đưa sang bên nơi anh
Những binh đoàn nối nhau ra trận tuyến
Như t́nh yêu nối lời vô tận
Đông Trường sơn nối tây Trường sơn.
Nhưng có một người bộ đội trẻ không hăng say nhập cuộc chuyện vào Nam chiến đấu mà ḷng anh luôn nặng trĩu ưu tư về chiến tranh. Người bộ đội trẻ đó là nhà thơ Lưu quang Vũ, sinh năm 1948. Anh đă bộc lộ sự bi quan buồn nản về cuộc chiến mà anh là một người lính trực tiếp tham gia chiến đấu. Nên nhớ những lời thơ này anh viết dể bộc bạch tâm sự và không được nhà nước Cộng sản xuất bản thời bấy giờ v́ nó không có lợi cho cuộc chiến đấu. Lưu quang Vũ mỉa mai, dè bĩu gọi những thanh niên nối nhau ra trận tuyến là “Những đứa trẻ buồn ướt lạnh”. Có thể coi những lời thơ này thuộc loại “phản chiến” không thể in vào thời chiến tranh c̣n khốc liệt. Lưu quang Vũ viết những lời thơ thống thiết này v́ không thể không viết chứ không có hy vọng được xuất bản. Chúng chỉ mới xuất bản gần đây sau khi cuộc chiến đă chấm dứt mấy mươi năm.
Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều
Rách tan cả những làn sương đẹp phủ
….. .. Những đứa trẻ buồn ướt lạnh
Ḷng chỉ muốn yêu thương
Mà cứ phải suốt đời căm giận
….. Giết xong quân giặc
Chẳng thấy ḷng thảnh thơi nhẹ nhơm
Chỉ nỗi buồn trĩu nặng
Dâng như đá trên mồ
Đă có sẳn trong ḷng những ưu tư buồn phiền về cuộc chiến trước khi lên đường, nên khi vào chiến trường chĩa súng bắn vào quân thù mà thực chất là những đồng bào cùng máu đỏ, da vàng, Lưu quang Vũ càng trăn trở, suy nghĩ nhiều hơn về cuộc chiến vô nghĩa lư này. Cũng giống như người lính miền Nam Nguyễn bắc Sơn, Lưu quang Vũ thực sự đau ḷng, bức xúc khi nh́n xác những người lính miền Nam mà ông quen gọi là lính Ngụy. Ông nói lên cái thế “chẳng đặng đừng” của người lính ngoài mặt trận là phải bắn vào đối phương dù không có một chút mảy may thù hận.
Xác Ngụy nằm ruồi muỗi bâu đầy
Những đôi mắt bệch màu hoa dại
Những gương mặt trẻ măng xanh tái
Những bàn tay đen đủi chai dầy
Các anh ơi, đừng trách chúng tôi
Các bà mẹ, tha thứ cho chúng tôi
Chúng tôi chẳng thể làm khác được
Quả đồi cháy như một phần quả đất
Bao đời người ta đă giết nhau
Với các anh tôi oán hận ǵ đâu
Nhưng c̣n có cách nào khác được
Những lănh tụ ở hai miền thường hân hoan loan tin chiến thắng bằng những con số địch quân gục ngă trên trận địa có khi nào băn khoăn ưu tư về những người lính ngă gục trên chiến trường, có bao giờ có cảm giác bất nhẫn của người lính miền Nam Nguyễn bắc Sơn và người lính miền Bắc Lưu quang Vũ khi nh́n thấy xác lính chết trên chiến trường. Phải nhớ một viên đạn M16 hay một viên Ak47 đốn gục một người lính trên trận địa là nước mắt của một người mẹ Việt Nam chảy ra v́ mất con, vành khăn tang sẽ được buộc lên đầu người vợ xấu số và đàn con thơ ngại vẫn ngày đêm trông mong người lính trở về nhà sum họp với gia đ́nh. Chinh chiến đă thực sự cướp đi mạng sống của người lính và đem tang tóc cho gia đ́nh người thân của người lính. Khi lănh tụ hai miền xua hai quân Nam, Bắc đánh nhau, có bao giờ họ nghĩ cuộc chiến Việt Nam chỉ là trận đấu banh giữa các cường quốc tư bản và Cộng sản. Việt Nam chỉ là con chốt thí trên bàn cờ quốc tế. Anh em hung hăn hận thù giết nhau chỉ v́ thi hành nhiệm vụ do nước ngoài giao phó. Sinh lực của cả dân tộc bị suy kiệt v́ hai miền đui mù làm nghĩa vụ lính đánh thuê không hơn không kém. Thật đau ḷng và tủi nhục cho con người Việt Nam. Một đất nước có 4000 năm văn hiến sao cứ sống trong u mê thù hận?
Mùa hè 1972, một mùa hè đỏ lửa kinh hoàng với những trận thư hùng đẫm máu của hai quân đội Bắc, Nam. Người lính miền Bắc Lưu quang Vũ có mặt trong mùa hè chiến trận kinh khiếp đó và ghi lại sự chết chóc, dổ vỡ tan hoang do bom đạn gây nên. Cả dân tộc biến thành một ḷ xay thịt vĩ đại. Mạng người Việt Nam tan tành thành mảnh vụn trên những chiến trường, người Việt hăng say chém giết nhau để thỏa măn cho những tính toán chiến lược của bọn ngoại bang. Lưu quang Vũ nh́n thấy dân tộc Việt Nam đang nướng xác trong một ḷ sát sinh vĩ đại. Ông ghi lại cảm xúc của ḿnh như sau:
Những siêu nhân vĩ đại
Những tư tưởng lớn lao nghe đến kinh người
Những thần tượng tiêu vong, những đứa trẻ ra đời
Bóng tối nắm tay nhau, t́nh yêu chưa hợp lại
Thế giới lo âu đầy xấu xa, phản bội
Ngày càng ít những điều đáng để ta tôn trọng
Nền văn minh lạ lùng của những trái bom
Những đám mây gây mưa, những ḿn nổ từ trường
Dân tộc mấy mươi năm giết và bị giết
Mỗi phút sống của tôi đều có người đang chết.
( Hồ sơ mùa hạ 1972)
Từ những ưu tư về sự chẳng đặng đừng và vô nghĩa lư chuyện bắn người lính đối phương cùng chung máu đỏ da vàng, Lưu quang Vũ trăn trở, lo âu về thân phận đau thương của nước Việt và tương lai của đất nước không biết sẽ di về đâu khi tiếp tục ở trong t́nh trạng nghèo đói và khốn khổ.
Nước Việt thân yêu
Nước Việt của ta
Sao người phải chịu nhiều đau đớn thế
Thân quằn quại mọi tai ương rách xé
….. Tất cả sẽ ra sao
Mảnh đất nghèo máu ứa?
Người sẽ đi đến đâu
Hả Việt Nam khốn khổ ?
Đến bao giờ bông lúa
Là t́nh yêu của người?
Sau 1975, nhà thơ bộ đội Lưu quang Vũ giải ngũ và chuyển sang viết kịch. Ông trở thành một kịch tác gia nổi tiếng viết những vở kịch lừng danh như “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Kịch cùa ông nói lên những chuyện tiêu cực xấu xa đầy da trong chế độ Cộng sản sau 1975. Bất th́nh ĺnh, năm 1988 khi ông vừa tṛn 40 tuổi, ông cùng bà vợ là nhà thơ Xuân Quỳnh và một con nhỏ bị tử nạn trong một tai nạn xe cộ có nhiều bí ẩn mà người ta nghi ngờ chế độ Cộng sản dàn dựng ra để giết ông v́ những vở kịch do ông viết phê phán xă hội đă có những chấn động sâu xa trong quần chúng. Thật đáng tiếc cho một tài năng thơ ca và kịch đầy hứa hẹn như Lưu quang Vũ đă chấm dứt cuộc đời ở khi tuổi đời mới 40. Nhân dân sẽ nhớ đến Lưu quang Vũ là một người yêu thiết tha con người và đất nước Việt Nam và mạnh dạn nói ra cảm nghĩ của ḿnh trên mực đen giấy trắng những tâm tư đau buồn của ḿnh trước một quê hương đau thương và khốn khổ. Ông đă vượt ra ngoài cái nh́n độc đoán một chiều của chế độ Cộng sản về cuộc chiến tranh khi đối diện với những chết chóc trên chiến trường lửa đạn để có những suy tư trăn trở có nhiều t́nh người về con người đau thương và đất nước Việt Nam tiêu điều trong cảnh chinh chiến điêu linh. Ông sẽ được tưởng nhớ như một người con yêu của đất nước Việt Nam trưởng thành trong khói lửa chiến tranh của thời ly loạn.
Một người nhạc sĩ ở miền Nam đă từng gọi cuộc chiến tranh Việt Nam là “nội chiến“ trong một ca khúc của ông. Đó là Nhạc sĩ Trịnh công Sơn với bài hát “Gia tài của mẹ”. Ông đă viết trong bài hát như sau:
“Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn”
Đây là một bài hát trong “Ca khúc da vàng” của Trịnh công Sơn. Miền Nam cấm những bài hát trong ca khúc da vàng v́ nó phản chiến, không có lợi cho cuộc chiến đấu chống Cộng sản của miền Nam. Nhưng miền Bắc cũng không chấp nhận cách đánh giá cuộc chiến Việt Nam là “nội chiến” của Trịnh công Sơn.
Sau 1975 ở Huế có mở ra cuộc hội thảo đấu tố Trịnh công Sơn trong đó có kiểm thảo, phê phán chuyện Trịnh công Sơn làm bài hát “Cho một người nằm xuống” để tưởng nhớ đến Đại tá miền Nam là Lưu kim Cương tử trận trong trận Mậu Thân 1968, vốn là một ân nhân của Trịnh công Sơn và quan điểm gọi cuộc chiến Việt Nam là “nội chiến” trong bài hát “Gia tài của mẹ”. Đối với Cộng sản miền Bắc, cuộc chiến tranh Việt Nam phải là cuộc chiến thần thánh chống Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai, không thể nói là nội chiến được.
Cho dù có công vói Cộng sản trong chuyện vào đài phát thanh Sài g̣n hát bài “Nối ṿng tay lớn” vào trưa ngày 30 tháng 4 để cổ vơ cho chuyện tiến vào Sài g̣n của bộ đội Cộng sản và sáng tác những “Ca khúc da vàng” làm suy yếu tinh thần chống Cộng của binh sĩ miền Nam nhưng v́ phạm những khuyết điểm nói trên nên Trịnh công Sơn bị thất sủng sau 1975. Cộng sản đày Trịnh công Sơn ve à Huế đi trồng sắn trên những băi đất có chứa ḿn c̣n sót lại. Có chuyện kể lại cho biết có một con trâu dẵm phải ḿn nổ chết banh xác trên vùng đất trồng sắn nơi Trịnh công Sơn đang lao động.
Trịnh công Sơn đă nh́n đúng thực chất cuộc chiến tranh Việt Nam là nội chiến, một cuộc chiến nồi da xáo thịt trong đó anh em huynh đệ tàn sát lẫn nhau v́ sắc màu chủ nghĩa. Ai cũng nghĩ là chuyện chém giết Bắc Nam sẽ chấm dứt hoàn toàn sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 v́ chiến tranh đă chấm dứt. Tội nghiệp cho Trịnh công Sơn khi ông viết bài hát mơ ngày trẻ em sẽ hát đồng dao ngoài đường khi quê hương thống nhất. Miền Bắc thắng trận tiếp tục gieo đau thương chết chóc cho miền Nam thua trận sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 bằng những cách trả thù độc ác và đê tiện chứ hoàn toàn không có những cảnh ḥa hợp, ḥa giải đẹp đẽ thương yêu như nhạc sĩ họ Trịnh đă ngây thơ mơ ước trong nhưng ca khúc da vàng của ông. Miền Bắc không tắm máu những người bại trận miền Nam trong ngày 30 tháng 4 nhưng đă tắm máu họ trong những tháng năm sau đó trong những trại tù cải tạo khắc nghiệt.
Tiếc rằng những cảnh địa ngục trần gian do Cộng sản miền Bắc gây ra cho miền Nam sau 1975 đă không được Trịnh công Sơn ghi lại trong bất cứ bài hát nào của ông sáng tác sau 1975. Trái lại ông c̣n viết những bài ca ca ngợi thanh niên xung phong (Em ở nông trường, em ra biên giới) hay ca ngợi thủ đô Liên xô (Ánh sáng Mạc tư khoa) sau khi được Cộng sản cho đi tham quan cái nôi của chủ nghĩa Cộng sản. Đó là lư do tại sao người Việt hải ngoại tỵ nạn Cộng sản vẫn có ác cảm với Trịnh công Sơn, một người nghệ sĩ ngây thơ về chính trị và đă làm những chuyện có lợi cho Cộng sản trước và sau 1985. Trịnh công Sơn có cái đau chân thành trước sự đổ vỡ tang thương do chiến tranh mang lại nhưng không có đủ tầm nh́n tỉnh táo và khôn ngoan để nh́n thấy thủ phạm tàn ác gây ra cuộc nội chiến oan trái và tủi nhục này.
Không bao giờ có thể nói chuyện ḥa hợp ḥa giải với bọn Cộng sản Việt Nam được v́ chúng là bọn thú đội lốt người, không có sự tỉnh thức và t́nh yêu thương đồng loại. Cho nên chúng là thủ phạm gây ra sự chết chóc oán thù giữa những người Việt trong chiến tranh cũng như sau chiến tranh. Một sự ḥa hợp ḥa giải thật sự giữa hai miền Nam Bắc sẽ có khi chế độ Cộng sản sụp đổ.
Làm sao nói chuyện tha thứ, ḥa giải với bọn người độc ác Cộng sản khi cách đây không lâu chúng liên lạc với chính phủ Nam Dương yêu cầu đập phá bức tượng mà thuyền nhân dựng lên ở trại tỵ nạn Galang để tưởng nhớ chuyện vượt biển? Từ trong những trại cải tạo sau 1975 có những câu thơ đưa ra ngoài của người lính miền Nam bại trận đang sống cảnh “cá chậu chim lồng” nói lên sự uất ức của kiếp tù đày dưới chế độ Cộng sản sau 1975: “Bao năm chinh chiến ta gần gũi. Giờ đă thanh b́nh lại biệt ly.” Trong thời chinh chiến thế mà vợ chồng vẫn có cơ hội sống chung gần gũi nhau. Sau biến cố đổi đời 30 tháng 4 năm 1975 người quân nhân miền Nam phải vào tù để hứng chịu những đ̣n thù độc ác dă man của Cộng sản và phải xa ĺa, cách biệt vợ con. Một số không may rũ xác trong tù và vĩnh viễn không c̣n ngày trở về đoàn tụ với gia đ́nh vợ con.
Nói chung, Nguyễn bắc Sơn và Lưu quang Vũ đă nh́n thấy cuộc chiến tranh vô nghĩa diễn ra trên quê hương Việt Nam trong đó người Việt tận t́nh giết người Việt v́ chủ nghĩa đă khoác tấm áo ư thức hệ lên hai miền. Máu người Việt Nam đổ xuống, làng xóm Việt Nam nát tan v́ bom đạn do lănh tụ hai miền không ư thức được vai tṛ tay sai của ḿnh, suốt ngày t́m đủ trăm phương ngàn kế và những phương tiện cùng vũ khí quân sự giết hại anh em đồng bào ruột thịt của ḿnh mà cứ coi đó là chính nghĩa tất thắng. Thật là đau buồn và tủi hổ cho những người mang ḍng máu Việt Nam mà không ư thức được thân phận nhược tiểu của đất nước ḿnh, chỉ biết đánh dấm giết hại đồng bào theo chiến lược toàn cầu của ngoại bang.
Máu của người Việt đổ ra trong chiến tranh chống ngoại xâm đẹp đẽ và xứng dáng bao nhiêu th́ máu người Việt đổ ra v́ nội chiến nồi da xáo thịt oan uổng và đau đớn bấy nhiêu. Hy vọng người Việt từ nay sẽ có sự tỉnh thức để anh em một nhà từ nay không c̣n chém giết nhau một cách ngu xuẩn và u mê nữa. Cầu mong mẹ Việt Nam sẽ phù hộ cho các con của mẹ có được sự tỉnh thức đó từ nay. Ai là người dân Việt cũng đều nên có nhận thức và ḷng yêu thương về con người và đất nước Việt Nam như hai người lính Nam, Bắc Nguyễn bắc Sơn và Lưu quang Vũ.
Xin kết thúc bài viết bằng những lời thơ của Ḥa thượng Quảng Độ, một vị cao tăng mấy mươi năm qua đă hết ḷng tranh đấu cho đất nước và con người Việt Nam. Những ḍng thơ truyền cảm của thầy sẽ là những ḍng nước Cam lộ thiêng liêng tưới mát những hận thù, mất mát của một thời kỳ mất mát và đau thương do sự vô minh, thù hận của bọn tay sai ngoại bang gây ra cho đất nước và con người Việt Nam.
TRỜI ĐĂ SÁNG
Vào một buổi chiều mưa
Trời nhà tù buồn thảm
Như ngày ba mươi tháng tư
Năm bảy lăm lịch sử qua rồi
Bên cửa sắt xà lim tăm tối
Tôi đứng nh́n những giọt mưa rơi
Từ mái nhà đổ xuống
Lênh láng chan ḥa
Trông như những ḍng nước mắt
Của muôn vạn người dân vô tội
Đă chảy ra
Khi trải qua một cuộc đổi đời
Gió rít từng cơn
Mưa tuôn càng mạnh
Ḷng trống lạnh bồi hồi
Tôi nh́n quanh tôi
Bốn bức tường dày đặc
Bóng tối phủ đầy
Rồi đưa mắt nh́n ra phía chân trời
Tôi t́m trong tưởng tượng
Một nơi trú ẩn sáng tươi
Nhưng hoàn toàn mờ mịt
Cũng như xà lim tăm tối của tôi
Miền Nam ôi!
Tôi thầm gọi
Đây là Miền Nam trong căn pḥng giam chật hẹp âm u
Ngoài kia là Miền Nam trong một nhà tù rộng lớn
C̣n có nơi nào yên ổn
Xin chỉ cho tôi lẩn trốn
Hỡi Miền Nam thương mến của tôi ơi!
Đêm xuống rồi và mưa đă ngừng rơi
Sau hồi kiểng hiệu vang lên
Toàn khu nhà tù ch́m vào yên lặng
Yên lặng như một nấm mồ hoang vắng
Giữa miền cát trắng bao la
Và nằm trong căn nhà mồ
Tôi không thấy ǵ nữa cả
Trừ những bóng ma
(vai mang khẩu súng AK)
Thỉnh thoảng chập chờn qua gang cửa gió
Đêm khuya đă đưa tôi vào giấc ngủ
Một giấc ngủ thật ngon
Thời gian lặng lẽ
Trôi theo định luật vô thường
Và mơ màng
Tôi nghe đâu đây tiếng chim hót véo von
Tôi choàng dậy
Ô ḱa!
Th́ ra trời đă sáng
Từ phương Đông
Vầng thái dương hiện lên chói rạng
Mở đầu một ngày rực rỡ ánh hào quang
(Nhà xuất bản Quê mẹ- Pháp)
Ánh hào quang rực rỡ phát ra từ những tia nắng chói lọi buổi sớm mai mà Ḥa thượng Quảng Độ nh́n thấy sau một đêm tăm tối trong nhà tù chính là tương lai tươi sáng của một nước Việt Nam giàu mạnh, độc lập, hạnh phúc sau bao nhiêu năm hận thù đen tối, giết chóc bạo tàn. Mong sao ngày ấy sẽ tới với bao nhiêu rộn ră vui mừng của người dân Việt trước viễn ảnh một nước Việt Nam thương yêu, no ấm, huy hoàng.
Los Angeles, một sớm mai mát mẻ, trong sáng giữa tháng 12 năm 2009
TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG