Chăn Gối với Kẻ Thù
Sleeping With the Enemy.
By James Webb,
THG chuyển ngữ
Biết giải thích như thế nào với
những đứa con của tôi rằng khi tôi
mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói
ồn ào nhất của những người cùng thời
lại nhằm mục đích phá nát những nền
tảng của xă hội Hoa Kỳ, để xây dựng
lại một xă hội dựa theo quan điểm
đầy tự măn của họ. Giờ đây nh́n lại,
ngay cả chúng ta, những người đă
trải qua giai đoạn này, cũng không
hiểu được tại sao lại có những kẻ
với tŕnh độ học vấn cao, đa số sinh
ra từ gia đ́nh thượng lưu, lại có
thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại
làm nhiễm độc bầu không khí của thập
niên 1960 và những năm đầu của thập
niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị
nhiễm những con vi khuẩn nầy.
Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào
tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa thu
năm ấy mang lại 76 tân dân biểu
thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị
sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt
chân ráo này đă tranh cử dựa trên
cương lĩnh của Mc Govern. Nhiều
người trong số họ được xem như những
ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ
chức, vài người không xứng đáng thấy
rơ, chẳng hạn như Tom Downey, 26
tuổi, thuộc New York, người chưa
từng có một nghề ngỗng ǵ và vẫn c̣n
ở nhà với mẹ.
Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate
nầy diễu hành vào thành phố với một
sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau
này trở thành điểm tập hợp cho cánh
Tả của Hoa Kỳ: chấm dứt sự giúp đỡ
của nước Mỹ dưới bất kỳ h́nh thức
nào cho chính quyền đang bị vây khốn
Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn ở
chỗ này – đây không phải là sự kêu
gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cơi
chết của những năm trước đây. Những
người lính Mỹ cuối cùng đă rời Việt
Nam hai năm trước rồi, và đă tṛn
bốn năm không có một người Mỹ nào bị
tử trận.
Bởi những lư do mà không một viện
dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được,
ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt
thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố
gắng để đánh gục nền dân chủ c̣n
phôi thai của Nam Việt Nam. Phụ tá
sau này của Nhà Trắng
Harold
Ickes và nhiều người
khác trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài
Chính” – có một lúc được giúp đỡ bởi
một người tuổi trẻ nhiều tham vọng
Bill
Clinton – làm việc để
cắt toàn bộ những khoản tài trợ của
Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam
tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà B́nh Đông
Dương, điều hành bởi
David
Dellinger và được
quảng bá bởi
Jane
Fonda và
Tom
Hayden, phối hợp chặt
chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và
1974, đi khắp các khuôn viên đại học
Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại
điều được cho là những con ác quỷ
trong chính quyền miền Nam Việt Nam.
Những đồng minh của họ trong Quốc
Hội liên tục thêm vào những tu chính
án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa
Kỳ cho những người Việt Nam chống
cộng, ngăn cấm cả đến việc sử dụng
không lực để giúp những chiến binh
Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi
các đơn vị Bắc Việt được khối Sô
Viết yểm trợ.
Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội
Watergate giáng một đơn chí tử xuống
các nước Đông Dương không cộng sản.
Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối
lời yêu cầu gia tăng quân viện cho
Việt Nam và Cam Bốt của tổng thống
Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng
này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt
và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng
thay thế, và vũ khí chiến thuật cần
thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ.
Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris
1973 đặc biệt đ̣i hỏi phải cung cấp
“viện trợ để thay thế trang thiết bị
quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt
Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong
Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp
đảo, 189-49, chống lại bất kỳ viện
trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và
Cam Bốt..
Trong các cuộc tranh luận, luận điệu
của phe Tả phản chiến gồm toàn những
lời lên án các đồng minh đang bị
chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và
đầy những hứa hẹn về một tương lai
tốt đẹp cho các quốc gia nầy dưới sự
cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân
biểu
Christopher Dodd ,
tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc
chữa của các đồng viện, lên giọng
đầy điệu bộ
“gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là
làm nhục chữ nghĩa…Tặng vật lớn nhất
mà đất nước chúng ta có thể trao cho
nhân dân Cam Bốt là ḥa b́nh, không
phải súng. Và cách tốt nhất để đạt
được mục đích này là chấm dứt viện
trợ quân sự ngay lập tức.”
Sau khi trở thành chuyên gia đối
ngoại trong ṿng chỉ có hai tháng kể
từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế
diễu những cảnh cáo về tội ác diệt
chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái
tội ác đă giết hơn một phần ba dân
số của quốc gia này, như sau, “chính
phủ cảnh cáo rằng nếu chúng ta rời
bỏ các quốc gia ấy th́ sẽ có tắm
máu. Nhưng những cảnh cáo cho việc
tắm máu trong tương lai không thể
biện minh cho việc kéo dài việc tắm
máu hiện nay.”
Trên chiến trường Việt Nam việc chấm
dứt viện trợ quân trang, quân cụ là
một tin làm kinh ngạc và bất ngờ.
Các cấp chỉ huy quân đội của miền
Nam Việt Nam đă được đảm bảo về việc
viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ
rút quân – tương tự như những viện
trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và
Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ
tái oanh tạc nếu miền Bắc tấn công
miền Nam, vi phạm hiệp định Paris
1973. Bây giờ th́ họ đang mở mắt
trừng trừng nh́n vào một tương lai
bất định khủng khiếp, trong lúc khối
Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho
Cộng Sản Bắc Việt.
Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa
choáng váng vừa mất tinh thần, t́m
cách điều chỉnh lại lực lượng để đối
phó với những thiếu thốn trang thiết
bị cần thiết, quân miền Bắc được tái
trang bị đầy đủ lập tức phát động ra
cuộc tổng tiến công. Bắt giữ được
nhiều đơn vị bị cô lập, quân miền
Bắc tràn xuống vùng đồng bằng trong
ṿng có 55 ngày. Những năm về sau
tôi phỏng vấn các người lính miền
Nam Việt Nam c̣n sống sót trong các
cuộc giao tranh, nhiều người trải
qua hơn chục năm trong các trại tập
trung của cộng sản sau khi cuộc
chiến chấm dứt. Điệp khúc này không
bao giờ chấm dứt:
“Tôi không c̣n đạn dược.” “Tôi chỉ
c̣n 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một
ngày.” “Tôi không c̣n ǵ để phát cho
binh sĩ của tôi.” “ Tôi phải tắt máy
truyền tin, bởi v́ tôi không thể nào
chịu đựng được nữa những lời kêu gọi
xin tiếp viện.”
Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ
này cho thấy có hai nhóm khác nhau,
và điều này vẫn c̣n tiếp tục được
thấy rơ trong nhiều vấn để chúng ta
đang đương đầu ngày nay. Đối với
những người đă từng chiến đấu ở Việt
Nam, và đối với gia đ́nh, bạn bè, và
những người cùng quan điểm chính trị
với họ, đây là là một tháng đen tối
và tuyệt vọng. Những khuôn mặt mà
chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn
công của Bắc Quân là những khuôn mặt
rất thật và quen thuộc, không phải
đơn thuần là những h́nh ảnh truyền
h́nh. Những thân người xoay trong
không gian như những bông tuyết, rơi
xuống chết thảm khốc sau khi đeo bám
tuyệt vọng vào thân trực thăng hay
phi cơ, có thể là những người chúng
ta quen biết hoặc từng giúp đỡ. Ngay
cả đối với những kẻ không c̣n niềm
tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản,
đây không phải là cách để chấm dứt
cuộc chiến.
Đối với những kẻ từng trốn tránh
cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất
nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả
khi họ thơ mộng hoá những ư định của
người cộng sản, những tuần lễ sau
cùng này đă chối bỏ trách nhiệm của
ḿnh trong sự sụp đổ này bằng những
phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy
tính sa lông, hay là công khai reo
mừng. Ở trung tâm Luật Khoa của đại
học Georgetown nơi tôi đang theo
học, việc Bắc Việt trắng trợn ném bỏ
các điều cam kết về ḥa b́nh và bầu
cử trong hiệp định Paris 1973, và
tiếng xe tăng của Bắc Quân trên
đường phố Sài G̣n được xem như là
một cái cớ để thực sự ăn mừng.
Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn c̣n tràn
lan trong năm 1997, nhưng thực ra
cái kết cuộc này chính là mục tiêu
của những cố gắng không ngừng nghỉ
của phong trào phản chiến trong
những năm theo sau sự rút quân của
Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn
nhiều người, công khai tuyên bố với
người viết trong lúc nghỉ khi thâu
h́nh cho chương tŕnh “Crossfire”
của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đă
lư luận rằng cuộc chiến rơ ràng là
có thể thắng được ngay cả vào giai
đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi
chiến lược của ḿnh, ứng cử viên
tổng thống năm 1972, người t́nh
nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, b́nh
luận, “Anh
không hiểu là tôi không muốn chúng
ta chiến thắng cuộc chiến đó sao?”
Ông McGovern không chỉ có một ḿnh.
Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ
nhưng vô cũng có ảnh hưởng. Sau cùng
họ đă đạt được điều họ muốn....
Có lẽ không c̣n minh chứng nào lớn
hơn cho không khí hân hoan chung
quanh chiến thắng của Cộng Sản là
giải thưởng điện ảnh năm 1975, được
tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần
trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim
tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts
and Minds, một phim tuyên
truyền độc ác tấn công những giá trị
văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố
gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự
chiến đấu cho nền dân chủ của miền
Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất
Peter
Davis và
Bert
Schneider (người thủ
diễn một vai trong câu chuyện của
david Horowitz) cùng nhau nhận giải
Oscar. Schneider thẳng thừng trong
việc công nhận sự ủng hộ những người
Cộng Sản của ḿnh. Đứng trước máy vi
âm ông ta nói
”Thật là ngược đời khi chúng ta đang
ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp
được giải phóng.”
Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất
của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đă
được cố t́nh quên đi-. Trong lúc
quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ
đă đổ máu và nước mắt để bảo vệ,
đang tan biến dưới bánh xích của xe
tăng,
Schneider lôi ra một điện tín được
gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại
biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và
đọc to lên lời chúc mừng cho phim
của ḿnh. Không một
phút giây do dự, những kẻ nhiều
quyền lực nhất của Hollywood đứng
dậy hoan nghênh việc Schneider đọc
bức điện tín này.
Chúng ta, những người đă từng chiến
đấu ở Việt Nam hoặc là những người
ủng hộ những cố gắng ở đó, nh́n lại
cái khoảnh khắc này của năm 1975 với
sự sửng sốt không nguôi và không bao
giờ quên được. Họ là ai mà cuồng
nhiệt đến thế để đầu độc cái nh́n
của thế giới về chúng ta? Sao họ lại
có thể chống lại chính những người
đồng hương của ḿnh một cách dữ tợn
đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để
hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù
Cộng Sản, kẻ đă làm thiệt mạng 58000
người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ
trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có
thể nói rằng chúng ta và họ đang
sống trong cùng một đất nước?
Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào
của Hollywood nói về số phận của
những con người biến mất sau bức màn
tre của Việt Nam. Không ai đề cập
đến những trại tập trung cải tạo mà
hàng triệu chiến binh miền Nam Việt
Nam đă bị giam giữ, 56000 người
thiệt mạng, 250000 bị giam hơn 6
năm, nhiều người bị giam đến 18 năm.
Không người nào chỉ trích việc cưỡng
bách di dân, tham nhũng, hay là chế
độ công an trị mà hiện vẫn c̣n đang
tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ
phim Hamburger Hill có ư tốt nhưng
kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài
công nếu muốn t́m một phim thuộc
loại có tầm vóc diễn tả các chiến
binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ
danh dự và trong những khung cảnh có
thật.
Tại sao?
Bởi v́ cộng đồng làm phim, cũng như
những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ
trong xă hội, chưa bao giờ yêu
thương, kính phục, hay ngay cả thông
cảm với những con người đă nghe theo
tiếng gọi của đất nước, lên đường
phục vụ... Và vào lúc mà một cuộc
chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ
đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi
nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt
Nam như thế nào, những kẻ chế diễu
chính sách của chính quyền, trốn
lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái
kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc
và thối nát, không muốn được nhớ đến
như là những kẻ quá đỗi ngây thơ và
lầm lẫn.
Giữa những người dân Mỹ b́nh thường,
thái độ của họ trong khoảng thời
gian rối ren nầy lành mạnh hơn
nhiều. Đằng sau những tin tức bị
thanh lọc và những bóp méo về Việt
Nam, thực tế là những công dân của
chúng ta đồng ư với chúng ta , những
người đang chiến đấu, hơn là với
những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu
này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt
đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn
c̣n được mô tả như là thành phần nổi
loạn chống chiến tranh.
Như được tường tŕnh lại trong bài Ư
Kiến Quần Chúng, những kết quả thăm
ḍ của Gallup từ năm 1966 cho đến
khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho
thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc
chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ
lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng
1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ
trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi
quân sang Việt Nam là một sai lầm,
chỉ có 49 phần trăm những người tuổi
từ 25 đến 29 đồng ư. Những phát hiện
nầy cho thấy giới trẻ nói chung rơ
ràng là không cực đoan, điều này đă
được củng cố thêm bằng kết quả bầu
cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ
18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn
là George McGovern bằng tỷ lệ 52 so
với 46 phần trăm.
Tương tự như vậy, mặc dù trong quá
khứ những người chống đối này, mà
ngày nay đang thống lĩnh giới báo
chí và giới khoa bảng, đă khăng
khăng nói ngược với thực tế, sự xâm
nhập vào Cam Bốt năm 1970 đă được
ủng hộ quần chúng mạnh mẽ.. – Sự xâm
nhập này đă gây ra sự phản đối rộng
khắp ở các sân trường đại học, kể cả
một vụ xung đột làm cho bốn người
chết ở Kent State University. Theo
những kết quả thăm ḍ dư luận của
Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng
sự xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn.
Đa số được hỏi ư kiến, trong cùng
bản thăm ḍ này vào tháng 5 năm
1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc,
một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn
toàn phong trào phản chiến.
Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị
bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh,
trong các bản tin, và trong các lớp
học, như là những chiến binh miễn
cưỡng và thất bại, vẫn được những
người dân Mỹ b́nh thường tôn trọng.
Trong một nghiên cứu toàn diện nhất
từ trước đến giờ về những cựu chiến
binh Việt Nam (Harris Survey, 1980,
ủy quyền bởi Veterans
Administration) , 73 phần trăm công
chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh
Việt Nam đồng ư với câu phát biểu “Vấn
đề rắc rối ở Việt Nam là quân đội
chúng ta được yêu cầu chiến đấu
trong một cuộc chiến mà các lănh tụ
chính trị ở Washington không để cho
họ được phép chiến thắng”,
70 phần trăm những người từng chiến
đấu ở Việt Nam không đồng ư với câu
phát biểu “Những ǵ chúng ta gây ra
cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu
hổ.” Trọn 91 phần trăm những người
đă từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam
nói rằng họ hănh diện đă phục vụ đất
nước, và 74 phần trăm nói rằng họ
thấy thoải mái với thời gian trong
quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm
những người phát biểu ư kiến cho
thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt
Nam một lần nữa , ngay cả nếu biết
rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như
thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ
khi họ trở về.
Bản thăm ḍ này c̣n có cái gọi là
“nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường
thái độ của công chúng đối với những
nhóm người khác nhau, với thang điếm
từ 1 đến 10.. Cựu chiến binh từng
phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm
9.8 trên thang điểm này... Bác sĩ
được 7.9, phóng viên truyền h́nh
6.1, chính trị gia 5.2, những người
biểu t́nh chống chiến tranh 5..0, kẻ
trốn quân dịch và chạy sang Canada
được cho 3.3.
Trái ngược với những câu chuyện
huyền thoại được dai dẳng phổ biến,
hai phần
ba những người phục vụ ở Việt Nam là
quân t́nh nguyện chứ không phải bị
động viên, và 77 phần trăm những
người tử trận là quân t́nh nguyện.
Trong số những người tử trận:86
phần trăm là da trắng,12.5 phần trăm
người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần
trăm thuộc các chủng tộc khác.
Những cáo buộc rất phổ biến như là
chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu số
và người nghèo được giao cho những
công tác khó khăn trong quân đội khi
ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất
quân b́nh trong cuộc chiến, thực ra
chỉ đơn giản là do những thành phần
đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách
nhiệm của ḿnh, và chính những người
này kể từ thời gian ấy đă kiên tŕ
bôi bẩn những kinh nghiệm về cuộc
chiến để nhằm tự bào chữa cho chính
ḿnh, pḥng khi sau này bị lịch sử
phán xét.
Thế c̣n những kẻ không những đă hiểu
sai ư nghĩa một cuộc chiến, mà c̣n
không hiểu nổi dân tộc của ḿnh,
những kẻ thuộc thành phần tinh hoa
của xă hội đó bây giờ ra sao? Bây
giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở
trong ṭa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch
sử quan yếu này, cái vấn đề đă xác
định thế hệ của chúng ta, họ dấu
ḿnh thật kín. Họ nên dấu ḿnh như
thế.
Đối với những kẻ đă đem cuộc hành
tŕnh tuổi trẻ đánh bạc trên cái ư
tưởng rằng tổ quốc ḿnh là một lực
lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự
ngây thơ của ḿnh trong những năm
sau năm 1975, chắc họ phải có một
cảm giác rất kinh khủng. Thật là
sáng mắt sáng ḷng cho những kẻ đă
tỉnh thức, đă tự vượt qua được phản
ứng chối tội, để chứng kiến cảnh
tượng hàng trăm ngàn người dân miền
Nam Việt Nam chạy trốn “ ngọn lửa
tinh nguyên của cách mạng “ trên
những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà
chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây
ngoài biển, hoặc là nh́n thấy những
h́nh ảnh truyền h́nh của hàng ngàn
chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc
trên những cánh đồng hoang, một phần
nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi
những người Cộng Sản “giải phóng
quân.”
Thực vậy, chúng ta hăy thẳng thắn
nh́n nhận. Thật đáng tủi nhục biết
bao khi nh́n vào khuôn mặt của một
thương binh, hay là nghe diễn từ tốt
nghiệp của một học sinh thủ khoa
người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha
quá cố của em đă chiến đấu bên cạnh
những người Mỹ, cho một lư tưởng mà
bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu,
và xem thường. Và thật là một điều
đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ
thống chính quyền đă để cho em học
sinh đó thành công nhanh chóng ở
đây, mà lại không thực hiện được một
hệ thống như vậy ở quê hương của em
=======ben duoi la ban goc Anh Ngu========
Sleeping With the Enemy
It is difficult to explain to my children that in my teens and early twenties the most frequently heard voices of my peers were trying to destroy the foundations of American society, so that it might be rebuilt according to their own narcissistic notions. In retrospect it’s hard even for some of us who went through those times to understand how highly educated people—most of them spawned from the comforts of the upper-middle class—could have seriously advanced the destructive ideas that were in the air during the late ’60s and early ’70s. Even Congress was influenced by the virus.
After President Nixon resigned in August of 1974, that fall’s congressional elections brought 76 new Democrats to the House, and eight to the Senate.. A preponderance of these freshmen had run on McGovernesque platforms. Many had been viewed as weak candidates before Nixon’s resignation, and some were glaringly unqualified, such as then-26-year- old Tom Downey of New York, who had never really held a job in his life and was still living at home with his mother.
This so-called Watergate Congress rode into town with an overriding mission that had become the rallying point of the American Left: to end all American assistance in any form to the besieged government of South Vietnam. Make no mistake—this was not the cry of a few years earlier to stop young Americans from dying. It had been two years since the last American soldiers left Vietnam, and fully four years since the last serious American casualty calls there.
For reasons that escape historical justification, even after America’s military withdrawal the Left continued to try to bring down the incipient South Vietnamese democracy. Future White House aide Harold Ickes and others at "Project Pursestrings"—assisted at one point by an ambitious young Bill Clinton—worked to cut off all congressional funding intended to help the South Vietnamese defend themselves. The Indochina Peace Coalition, run by David Dellinger and headlined by Jane Fonda and Tom Hayden, coordinated closely with Hanoi throughout 1973 and 1974, and barnstormed across America’s campuses, rallying students to the supposed evils of the South Vietnamese government. Congressional allies repeatedly added amendments to spending bills to end U.S. support of Vietnamese anti-Communists, precluding even air strikes to help South Vietnamese soldiers under attack by North Vietnamese units that were assisted by Soviet-bloc forces.
Then in early 1975 the Watergate Congress dealt non-Communist Indochina the final blow. The new Congress icily resisted President Gerald Ford’s January request for additional military aid to South Vietnam and Cambodia. This appropriation would have provided the beleaguered Cambodian and South Vietnamese militaries with ammunition, spare parts, and tactical weapons needed to continue their own defense. Despite the fact that the 1973 Paris Peace Accords called specifically for "unlimited military replacement aid" for South Vietnam, by March the House Democratic Caucus voted overwhelmingly, 189-49, against any additional military assistance to Vietnam or Cambodia.
The rhetoric of the antiwar Left during these debates was filled with condemnation of America’s war-torn allies, and promises of a better life for them under the Communism that was sure to follow. Then-Congressman Christopher Dodd typified the hopeless naiveté of his peers when he intoned that "calling the Lon Nol regime an ally is to debase the word.... The greatest gift our country can give to the Cambodian people is peace, not guns. And the best way to accomplish that goal is by ending military aid now." Tom Downey, having become a foreign policy expert in the two months since being freed from his mother’s apron strings, pooh-poohed the coming Cambodian holocaust that would kill more than one-third of the country’s population, saying, "The administration has warned that if we leave there will be a bloodbath. But to warn of a new bloodbath is no justification for extending the current bloodbath."
On the battlefields of Vietnam the elimination of all U.S.. logistical support was stunning and unanticipated news. South Vietnamese commanders had been assured of material support as the American military withdrew—the same sort of aid the U.S. routinely provided allies from South Korea to West Germany—and of renewed U.S. air strikes if the North attacked the South in violation of the 1973 Paris Peace Accords. Now they were staring at a terrifyingly uncertain future, even as the Soviets continued to assist the Communist North.
As the shocked and demoralized South Vietnamese military sought to readjust its forces to cope with serious shortages, the newly refurbished North Vietnamese immediately launched a major offensive. Catching many units out of position, the North rolled down the countryside over a 55-day period. In the ensuing years I have interviewed South Vietnamese survivors of these battles, many of whom spent ten years and more in Communist concentration camps after the war. The litany is continuous: "I had no ammunition." "I was down to three artillery rounds per tube per day." "I had nothing to give my soldiers.." "I had to turn off my radio because I could no longer bear to hear their calls for help."
The reaction in the United States to this debacle defines two distinct camps that continue to be identifiable in many of the issues we face today. For most of those who fought in Vietnam, and for their families, friends, and political compatriots, this was a dark and deeply depressing month. The faces we saw running in terror from the North Vietnamese assault were real and familiar, not simply video images. The bodies that fell like spinning snowflakes toward cruel deaths after having clung hopelessly to the outer parts of departing helicopters and aircraft may have been people we knew or tried to help. Even for those who had lost their faith in America’s ability to defeat the Communists, this was not the way it was supposed to end.
For those who had evaded the war and come of age believing our country was somehow evil, even as they romanticized the intentions of the Communists, these few weeks brought denials of their own responsibility in the debacle, armchair criticisms of the South Vietnamese military, or open celebrations. At the Georgetown University Law Center where I was a student, the North’s blatant discarding of the promises of peace and elections contained in the 1973 Paris Accords, followed by the rumbling of North Vietnamese tanks through the streets of Saigon, was treated by many as a cause for actual rejoicing.
Denial is rampant in 1997, but the truth is this end result was the very goal of the antiwar movement’s continuing efforts in the years after American withdrawal. George McGovern, more forthcoming than most, bluntly stated as much to this writer during a break in taping a 1995 edition of cnn’s "Crossfire." After I had argued that the war was clearly winnable even toward the end if we had changed our strategy, the 1972 presidential candidate who had offered to go to Hanoi on his knees commented, "What you don’t understand is that I didn’t want us to win that war." Mr.. McGovern was not alone. He was part of a small but extremely influential minority who eventually had their way.
There is perhaps no greater testimony to the celebratory atmosphere that surrounded the Communist victory in Vietnam than the 1975 Academy Awards, which took place on April 8, just three weeks before the South’s final surrender. The award for Best Feature Documentary went to the film Hearts and Minds, a vicious piece of propaganda that assailed American cultural values as well as our effort to assist South Vietnam’s struggle for democracy. The producers, Peter Davis and Bert Schneider [who plays a role in David Horowitz’s story—see page 31], jointly accepted the Oscar.. Schneider was frank in his support of the Communists. As he stepped to the mike he commented that "It is ironic that we are here at a time just before Vietnam is about to be liberated." Then came one of the most stunning—if intentionally forgotten—moments in Hollywood history. As a struggling country many Americans had paid blood and tears to try to preserve was disappearing beneath a tank onslaught, Schneider pulled out a telegram from our enemy, the Vietnamese Communist delegation in Paris, and read aloud its congratulations to his film. Without hesitating, Hollywood’s most powerful people rewarded Schneider’s reading of the telegram with a standing ovation.
Those of us who either fought in Vietnam or supported our efforts there look at this 1975 "movie moment" with unforgetting and unmitigated amazement. Who were these people who so energetically poisoned the rest of the world’s view of us? How had they turned so virulently against their own countrymen? How could they stand and applaud the victory of a Communist enemy who had taken 58,000 American lives and crushed a struggling, pro-democratic ally? Could they and the rest of us be said to be living in the same country anymore?
Not a peep was heard then, or since, from Hollywood regarding the people who disappeared behind Vietnam’s bamboo curtain. No one has ever mentioned the concentration camps into which a million South Vietnamese soldiers were sent; 56,000 to die, 250,000 to stay for more than six years, and some for as long as 18. No one criticized the forced relocations, the corruption, or the continuing police state. More to the point, with the exception of the well-intentioned but artistically weak Hamburger Hill, one searches in vain for a single major film since that time that has portrayed American soldiers in Vietnam with dignity and in a true context.
Why? Because the film community, as with other elites, never liked, respected, or even understood those who answered the call and served. And at a time when a quiet but relentless battle is taking place over how history will remember our country’s involvement in Vietnam, those who ridiculed government policy, avoided military service, and actively supported an enemy who turned out to be vicious and corrupt do not want to be remembered as having been so naive and so wrong.
Among everyday Americans, attitudes during this troubled time were much healthier.. Behind the media filtering and distortion on Vietnam, the fact is that our citizenry agreed far more consistently with those of us who fought than with those who undermined our fight. This was especially true, interestingly, among the young Americans now portrayed as having rebelled against the war.
As reported in Public Opinion, Gallup surveys from 1966 to the end of U.S. involvement show that younger Americans actually supported the Vietnam war longer than any other age group. Even by January of 1973, when 68 percent of Americans over the age of 50 believed it had been a mistake to send troops to Vietnam, only 49 percent of those between 25 and 29 agreed. These findings that the youth cohort as a whole was distinctly unradical were buttressed by 1972 election results—where 18- to 29-year-olds preferred Richard Nixon to George McGovern by 52 to 46 percent.
Similarly, despite persistent allegations to the contrary by former protesters who now dominate media and academia, the 1970 invasion of Cambodia—which caused widespread campus demonstrations, including a riot that led to four deaths at Kent State University—was strongly supported by the public. According to Harris surveys, nearly 6 in 10 Americans believed the Cambodian invasion was justified. A majority in that same May 1970 survey supported an immediate resumption of bombings in North Vietnam, a complete repudiation of the antiwar movement.
Vietnam veterans, though persistently maligned in film, news reports, and classrooms as unwilling, unsuccessful soldiers, have been well thought of by average Americans. In the most comprehensive study ever done on Vietnam vets (Harris Survey, 1980, commissioned by the Veterans Administration) , 73 percent of the general public and 89 percent of Vietnam veterans agreed with the statement that "The trouble in Vietnam was that our troops were asked to fight in a war which our political leaders in Washington would not let them win." Seventy percent of those who fought in Vietnam disagreed with the statement "It is shameful what my country did to the Vietnamese people." Fully 91 percent of those who served in Vietnam combat stated that they were glad they had served their country, and 74 percent said they had enjoyed their time in the military. Moreover, 71 percent of those who expressed an opinion indicated that they would go to Vietnam again, even knowing the end result and the ridicule that would be heaped on them when they returned.
This same survey contained what was called a "feelings thermometer," measuring the public’s attitudes toward various groups on a scale of 1 to 10. Veterans who served in Vietnam rated a 9.8 on this scale. Doctors scored a 7..9, TV reporters a 6.1, politicians a 5.2, antiwar demonstrators a 5.0, and draft evaders who went to Canada came in at 3.3.
Contrary to persistent mythology, two-thirds of those who served during Vietnam were volunteers rather than draftees, and 77 percent of those who died were volunteers. Of those who died, 86 percent were Caucasian, 12.5 percent were African-American, and 1.2 percent were from other races. The common claim that it was minorities and the poor who were left to do the dirty work of military service in Vietnam is false. The main imbalance in the war was simply that the privileged avoided their obligations, and have persisted since that time in demeaning the experience in order to protect themselves from the judgment of history.
And what of these elites who misread not only a war but also their own countrymen? Where are they now, other than in the White House? On this vital historical issue that defined our generation, they now keep a low profile, and well they should.
What an eerie feeling it must have been for those who staked the journey of their youth on the idea that their own country was an evil force, to have watched their naiveté unravel in the years following 1975. How sobering it must have been for those who allowed themselves to move beyond their natural denial, to observe the spectacle of hundreds of thousands of South Vietnamese fleeing the "pure flame of the revolution" on rickety boats that gave them a 50 percent chance of death at sea, or to see television pictures of thousands of Cambodian skulls lying in open fields, part of the millions killed by Communist "liberators." How hollow the memories of drug-drenched and sex-enshrined antiwar rallies must be; how false the music that beatified their supposedly noble dissent.
Indeed, let’s be frank. How secretly humiliating to stare into the face of a disabled veteran, or to watch the valedictory speech of the latest Vietnamese-American kid whose late father fought alongside the Americans in a cause they openly mocked, derided, and despised. And what a shame that the system of government that allowed that student to be so quickly successful here is not in place in the country of her origin.
James Webb, a Marine rifle platoon and company commander in Vietnam, has served as Secretary of the Navy and is the author of several novels.