Bức tường tinh thần tan ră trước
Ngô Nhân Dụng
Trong lịch sử, cảnh sụp đổ của một đế quốc không xảy ra trong một sớm một chiều, mà thường diễn ra qua nhiều năm, có khi kéo dài hàng thế kỷ. Các đế quốc La Mă, Ba Tư, Ottoman đời trước tan ră khi lực lượng quân sự và guồng máy thu thuế bị tản ra quá mỏng, quyền lực ở trung tâm yếu đi, mất dần khả năng kiểm soát các địa phương. Những đế quốc đó thường vỡ ra từng mảnh, từng mảnh một trước tan biến dần dần. Trong thế kỷ trước, đế quốc Xô Viết không giải tán theo lối tiệm tiến và mất từng bộ phận như thế. Tất cả cùng sụp đổ chỉ trong ṿng mấy tháng, có thể nói chỉ trong có mấy ngày.
Nguyên nhân trực tiếp gây nên cảnh tan ră “ngoạn mục” của chế độ cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô là do thất bại trong quản lư kinh tế, như đă tŕnh bày trong mục này tuần trước. Tuy nhiên, kinh tế tŕ trệ chỉ là một mặt trong cảnh bế tắc toàn diện của cả hệ thống cai trị do Lenin và Stalin dựng lên. Đế quốc Xô Viết đă bắt đầu suy yếu tự trong nền tảng từ lâu rồi. Nói về sự sụp đổ của các chế độ cộng sản, Nhà văn Vũ Thư Hiên không đặt trọng tâm vào t́nh trạng quản lư kinh tế thất bại. Ông cho là cả hệ thống cai trị kiên cố vĩ đại đó đă tan ră chính v́ người dân không c̣n chịu đựng được cảnh “mất nhân tính đến cùng cực” nữa. Nhà văn đă sống trong một chế độ giống như vậy. Chính mắt ông đă chứng kiến cảnh “mất nhân tính đến cùng cực” ở chung quanh ḿnh, diễn ra trong chính những người đă từng là thân thiết với gia đ́nh ông. Vũ Thư Hiên đă nh́n thấy những điều cơ bản khiến xă hội xô viết tan ră.
Khi dân Đức lấy búa đập vỡ bức tường Berlin, họ đă châm lửa vào một ng̣i nổ, ngọn lửa cháy bén từ từ như một sợi dây thuốc pháo, và lần lượt các thùng thuốc nổ khác liên tiếp theo nhau bùng cháy. Tại sao vụ nổ dây chuyền lại lan ra nhanh chóng như vậy? Lư do lớn nhất, trước hết, là v́ cả nền tảng tinh thần của những xă hội cộng sản đó đă nát rữa từ lâu, cả hệ thống dựa trên bạo lực và dối trá chỉ chờ ngày tan ra từng mảnh. Khi bao nhiêu con người đă mất niềm tin vào cuộc sống giả tạo chung quanh ḿnh, mất niềm tin vào những người chung quanh, chính họ thấy cuộc đời không c̣n có ư nghĩa, không c̣n giá trị như trong ảo tưởng mà họ vẫn nuôi nấng nữa, th́ cả xă hội tự hủy diệt. V́ phải hủy diệt, rồi mới có cơ hội tái sinh.
Một xă hội tồn tại được lâu dài và ổn định là nhờ mọi người cùng chia sẻ những giá trị chung, một cách chính thức hay là mặc nhiên. Có những lư tưởng cao xa mà ai cũng tôn quư đă được cả xă hội biến thành thói quen trong cuộc sống hàng ngày khi đối đăi với nhau, routinization. Mọi người đồng ư với nhau một số ước lệ trong cuộc sống. Những cử chỉ, lời nói hay thái độ mà chúng ta gọi là lễ phép, lịch sự, thanh nhă, vân vân, đă được cả xă hội coi là lối sống tự nhiên, ai cũng ăn ở như vậy. Người ta cứ nói, cứ làm và nghĩ theo các thói quen đó là có thể tin rằng ḿnh sẽ đạt được điều tốt, điều thiện, cuộc đời ḿnh có ư nghĩa và có giá trị.
Nhưng khi phải sống trong một khung cảnh giả dối quá lâu th́ khác. Người ta phải nghe những điều dối trá mà bị bắt buộc coi như là sự thật, phải tập thói quen sống giả dối với nhau, lừa lọc lẫn nhau. Khi ra đường phải đóng kịch, về nhà cũng không dám sống thành thật với anh em, vợ con. Mọi người đành chấp nhận đạo lư sa sút mà không ai dám công khai phản đối. Khi đó, mỗi người không c̣n tin ở người khác và cũng không tin ở chính ḿnh nữa. Họ bắt đầu thấy chán, không c̣n lư do để tiếp tục sống theo thói quen và tập tục xă hội mà chính họ không c̣n tha thiết bảo vệ nữa. Nền tảng tinh thần của xă hội đă tan ră. Người ta chán ngán, chỉ muốn cơ hội “đổi đời” để cuộc sống của chính ḿnh có ư nghĩa hơn.
Năm 1989 là lúc những người cầm đầu các đảng Cộng Sản ở Đông Đức, ở Tiệp Khắc và Ba Lan cũng chán ngấy không thấy lư do nào để biện minh việc ra lệnh bắn giết đồng bào của họ nữa khi dân chúng kéo nhau đi biểu t́nh. Hungary mở cửa biên giới, 200,000 người từ Đông Đức chạy qua để t́m đường sang Tây Đức. Đó toàn là những thanh niên, những người thợ giỏi, những chuyên gia trung niên. Hàng chục ngàn người từ trong nhà thờ ở Leibzig kéo ra đường, một tháng trước ngày bức tường Berlin bị đập, nhưng không một lănh tụ Đông Đức nào ra lệnh đàn áp. Đàn áp để bảo vệ cái ǵ khi chính họ cũng thấy cuộc sống của ḿnh đang bế tắc, mà họ phải thấy những đ̣i hỏi tự do dân chủ của người dân là hợp lư? Đám mật vụ, công an cầm súng lăm lăm trên tay cũng không thấy lư do nào để xả súng bắn vào đồng bào của họ nữa, mặc dù trước đó Cộng Sản Đông Đức đă đe dọa dân biểu t́nh sẽ bị tắm máu như ở Thiên An Môn.
Đám công an mật vụ buông súng không phải v́ họ sợ những người dân, những người trong tay không tấc sắt. Trước đám đông trông chẳng khác ǵ cha mẹ, vợ con ḿnh, chính đám công an không c̣n muốn đóng vai tṛ một bánh xe quay trong bộ máy chuyên đàn áp, chuyên đi c̣ng tay bắt người, chuyên thủ tiêu, giết người. V́ chính họ đă chán tận cổ lối sống phi đạo lư, phi nhân bản trong một xă hội được duy tŕ bằng bạo lực và dối trá. Cả xă hội chờ một biến cố châm ng̣i để quyết định đổi đời!
Bức tường Berlin đổ v́ người ta muốn đập vỡ hệ thống bạo lực và dối trá giam giữ cả xă hội mà trong đó họ phải sống quá lâu. Sau khi các chế độ Cộng Sản Đông Âu tan, một người dân Ba Lan nói với nhà báo, “Từ nay chúng tôi được sống cuộc đời b́nh thường.” Ai cũng muốn trở lại làm một con người b́nh thường sống trong một xă hội b́nh thường. Loài người không muốn phải sống giả trá, phải nói những lời trái với lương tâm ḿnh, phải gian dối với nhau hàng ngày, măi không được nghỉ!
Mùa Hè năm 1991 tôi có dịp đi thuyền trên sông Elbe trong vùng Koenigsberg, phía Nam thành phố Dresden. Anh bạn người Đức sống trong một làng gần đó, thuộc Đông Đức cũ, cho hay gần hai năm trước Chủ Tịch Bắc Hàn Kim Nhật Thành cũng ngồi trong chiếc thuyền đó đi du ngoạn trong vùng thiên nhiên mỹ lệ này. Năm 1989 Cộng Sản Đông Đức đă mời rất nhiều lănh tụ cộng sản thế giới đến dự lễ kỷ niệm 40 năm ngày thành lập chế độ. Đó là một đại lễ nhằm phô trương sự giầu mạnh của Cộng Ḥa Dân Chủ Đức! Tháng Mười năm 1989, tờ Nhân Dân, People Daily ở Bắc Kinh đă tường thuật cuộc lễ hội đánh dấu “40 năm vinh quang” đó, viết rằng: “Nhân dân nước Đức đang đoàn kết ngày càng mạnh hơn dưới sự lănh đạo của Đảng.”
Một nhà lănh đạo cộng sản khác là Mikhail Gorbachev đă nh́n thấy khác. Trong cuộc phỏng vấn với nhật báo Le Monde ở Pháp đăng ngày 6 Tháng Mười một, năm 2009 vừa qua, ông Gorbachev kể rằng bữa đó ông ngồi trên khán đài chứng kiến cuộc biểu t́nh vĩ đại mà chính phủ Đông Đức tổ chức, dân chúng từ khắp nước được đưa về tham dự. Khi đó Gorbachev đă bắt đầu chủ trương “sửa đổi cơ cấu” (perstroika) ở Nga được mấy năm. Nhiều người Đức đă đến nói thẳng với ông: Hăy giúp chúng tôi, hăy giúp chúng tôi với! Gorbachev biết đây là một màn tŕnh diễn giả tạo. Ông kể, hai người ngồi ngay hàng ghế phía sau ông trên khán đài là chủ tịch Ba Lan, Tướng Jaruzelski và Thủ Tướng Mieczyslaw Rakovski. Gorbachev nhớ lại: “Rakovski nghiêng người ra phía trước ghé tai tôi nói, 'Mikhail Sergueievich, ông hiểu tiếng Đức họ nói chứ?' Tôi trả lời, 'Đủ để hiểu những câu đoàn biểu t́nh họ đang hô.' Rakovski nói tiếp, 'Ông có thấy rằng đây là màn kết cuộc hay không?' Đó, t́nh cảnh nó như vậy.”
Trong khi đó, Gorbachev thuật lại, Chủ Tịch Đông Đức Erich Honecker (77 tuổi) vẫn làm như không biết ǵ cả. “Ông ta vẫn hát, vẫn chia sẻ với chúng tôi vẻ hăng hái giả tạo của ông ta.” Và Honecker nói với người lănh đạo Liên Xô rằng chế độ của ông ở Đức đă tái cấu trúc trước cả Liên Xô rồi, cho nên không cần thay đổi ǵ thêm nữa. Khi Gorbachev gặp toàn thể ban lănh đạo cộng sản Đông Đức, ông nói với họ, “Ai chậm chân quá, sẽ bị cuộc đời trừng phạt.” Nhiều người coi đó là lời tuyên bố kết thúc chế độ cộng sản ở nước Đức.
Một câu hỏi tuần trước đă nêu lên trong mục này là tại sao những thiên đường mù cộng sản, mặc dù thất bại về kinh tế, suy đồi về đạo lư, mà vẫn kéo dài ở Nga và Đông Âu được bao nhiêu năm như vậy?
Một nguyên nhân là chiến tranh. Trận Đại Chiến Thứ Hai đă giúp tŕ hoăn sự sụp đổ của cả nền kinh tế lẫn chế độ chính trị ở Nga. Chiến tranh và thời kỳ hậu chiến biện minh cho việc kiểm soát và chỉ huy nền kinh tế. Ngay ở các nước tư bản, chính quyền cũng can thiệp vào việc kinh doanh, đưa ra những chỉ tiêu sản xuất, lập sổ tem phiếu để giới hạn việc tiêu thụ. Về mặt chủ tịch, Stalin đă bỏ quên hoàn toàn những khẩu hiệu cộng sản để đề cao ḷng ái quốc của dân Nga, kêu gọi người dân hy sinh cho tổ quốc. Chiến tranh c̣n biện minh cho việc bắt bớ tù đầy những người đối lập, vu cho họ nhăn hiệu “thù địch,” “phản quốc.” Sau chiến thắng, chế độ cộng sản ở Nga có thêm uy tín nhờ lợi dụng sự hy sinh anh hùng của người dân Nga trong cuộc chiến giữ nước. Thời kỳ “chiến tranh lạnh” sau đó cũng chỉ là t́nh trạng kéo dài của chiến tranh nóng. Không khí chiến tranh giúp các chế độ cộng sản lúc nào cũng đe dọa dân về “các thế lực thù nghịch” bao vây họ, lấy cớ đó ḱm kẹp dân chúng và bắt giam mọi người có ư kiến bất đồng. Các chế độ cộng sản c̣n lại bây giờ cũng cố gắng bảo vệ quyền lợi và địa vị bằng thủ đoạn tương tự. Chính những giai đoạn “detente,” ḥa hoăn, sống chung ḥa b́nh, kư các hiệp ước và trao đổi với nhau, đă dần dần tước bỏ các chế độ cộng sản thứ khí cụ tuyên truyền hữu hiệu đó.
Khi những người dân trong khối cộng sản được biết hoặc thấy, qua các đài phát thanh và truyền h́nh, về đời sống của người dân các nước không cộng sản, dần dần họ tỉnh ngộ và t́m hiểu thêm sự thật. Sự thật, khi được thông tin đầy đủ hơn, giúp người ta nh́n ra chính cuộc sống của họ đắm ch́m trong một xă hội dựa trên sự giả trá. Con người không thể “sống giả” măi như thế được. Đó là lư do các chế độ cộng sản cuối cùng phải tự hủy diệt. Trong cuộc xoay vần Sinh - Diệt - Diệt - Sinh của một xă hội, hủy diệt sớm th́ cơ hội được tái sinh cũng sẽ đến sớm hơn. Người dân Đức đang dự hội, không phải là để mừng sự sụp đổ của một chế độ, mà là để ăn mừng cơ hội tái sinh của nước họ 20 năm trước đây.