Bức Tường Berlin
Bài của Huy Đức khá hay, nhưng điều ǵ khiến cho chúng ta luôn cả thấy rạo rực khi nghĩ đến h́nh ảnh cái "bức tường ô nhục" này sụp đổ ?
Có một bức tường ghê gớm hơn gấp trăm lần như thế ở Việt nam vẫn c̣n đến ngày hôm nay. Người Việt nam nh́n thấy nó rất rơ ràng nhưng không dám gọi nó là "bức tường ô nhục". Nó khiến chúng ta nghẹt thở !
Tuần trước, một người Đông
Đức, bà Angela Merkel, vừa
lên tiếng trên cương vị Thủ
tướng nước Đức thống nhất
cám ơn Hungary cách đây 20
năm, tháng 8-1989, đă mở cửa
biên giới của ḿnh, để cho
hơn 60 ngh́n người Đông Đức
thoát ra, dẫn tới sự kiện
bức tường Berlin sụp đổ.
Tháng 6-2004, Hoàng- một đồng đội cũ của tôi ở trường sĩ quan, cựu đại úy quân đội nhân dân Việt Nam, con trai một vị tư lệnh chiến trường nổi tiếng thời đánh Mỹ và đánh Pol Pot- lái xe chở tôi chạy từ Đông sang Tây và cuối cùng đến trước bức tường Berlin. Hoàng nằm trong số những người Việt Nam đầu tiên leo qua phía Tây, thay v́ đủ kiên nhẫn để đập đổ cái mà Hoàng, cho đến ngày nay, vẫn coi là “bức tường ô nhục”.
Berlin cũng như nước Đức, sau Thế chiến thứ II, bị “xẻ làm tư” theo thỏa ước Potsdam. Cho dù Liên Xô phản đối, các nước Anh, Pháp, Mỹ sau đó vẫn trả lại quyền tự chủ cho người Đức trên phần lănh thổ mà ḿnh tiếp quản. “Kế hoạch Marshall” đă giúp Tây Đức phát triển rất nhanh dựa trên nền tảng tự do.
Năm 1948, Stalin ra lệnh
phong tỏa, không cho vận
chuyển lương thực thực phẩm
từ Đông sang Tây. Nhưng vẫn
không có người Tây Đức nào
đi theo Stalin. Trong khi,
trong suốt thập niên 50 đă
có hơn 3,5 triệu người Đông
Đức bỏ chạy sang Tây Đức.
Ngày 1-8-1961, Tổng Bí thư
Liên Xô, Krushchev, điện đàm
với Ulbricht, Bí thư thứ
nhất Đông Đức “đề nghị xây
tường”. Ngày 12-8 năm đó,
Ulbricht kư lệnh đóng cửa
biên giới và “bức tường ô
nhục” đă được người Đức cùng
với “Hồng Quân Liên xô” nửa
đêm “dựng lên lén lút”.
Bảo tàng Bức tường Berlin là một trong những bảo tàng vô cùng ấn tượng. Có thể t́m thấy ở đây những sự kiện bi thảm; nhưng, cũng có thể t́m thấy ở đây những câu chuyện hết sức li kỳ. Chỉ có với khát khao tự do con người mới có thể bất chấp sự hiểm nguy mà vượt thoát mănh liệt đến vậy. Lượng người dân Đông Đức bị bắn chết khi trèo qua bức tường Berlin không dừng lại ở con số 1.374; mới đây, Bảo tàng vừa cho bổ sung vào danh sách này những người không phải là dân “vượt biên” mà là lính biên pḥng Đông Đức. Hàng chục lính biên pḥng Đông Đức đă tự sát thay v́ chấp hành lệnh chính quyền bắn vào nhân dân, những người t́m kiếm tự do.
Chỉ cần đến Bảo tàng Bức
tường Berlin là có thể hiểu
v́ sao cả Đông Âu, tràn ngập
xe tăng Liên Xô, thế mà vẫn
đổ; có thể hiểu v́ sao Tổ
chức An ninh và Hợp tác châu
Âu lấy ngày “23 tháng Tám là
ngày tưởng niệm các nạn nhân
của chủ nghĩa Stalin và Phát
xít”. Ngày 23-8-1939, Stalin
đă bắt tay với Hitler, kư
Hiệp ước phân chia Châu Âu.
Chỉ một tuần sau, ngày
1-9-1939, Hitler đánh chiếm
một phần Ba Lan; ngày
17-9-1939, Liên Xô xâm lược
phần c̣n lại. Người của
Stalin, ngay sau đó đă giết
hại hàng trăm ngh́n người Ba
Lan và đưa hơn một triệu
người Ba Lan khác lưu đày
viễn xứ.
Nếu như, chủ nghĩa Hitler chỉ kịp gây tội ác trong những năm tháng chiến tranh th́ chủ nghĩa Stalin lại tiếp tục hủy hoại con người ngay cả khi không c̣n tiếng súng. Sự hy sinh của hơn 20 triệu người Liên Xô, sự anh dũng của các tướng lĩnh, của Hồng quân là vô cùng vĩ đại. Nhưng, sự hy sinh ấy của nhân dân đă bị những người như Stalin tước đoạt. Liên Xô, quốc gia đóng vài tṛ quyết định trong cuộc chiến chống Phát xít, thay v́ được ghi nhớ như là “giải phóng quân” đă trở thành một lực lượng chiếm đóng và đă áp đặt lên Đông Âu một chế độ tước đoạt hết của con người những quyền căn bản.
Tại Đông Đức, sau 8 năm chiếm đóng, chính quyền do người Nga lập nên liên tục có những hoạt động thanh trừng nội bộ; khủng bố những người bất đồng; kiểm soát thanh niên; trong khi, thực phẩm th́ khan hiếm và đắt đỏ. Sau khi Stalin chết, hơn 1 triệu người dân Đông Đức đă xuống đường biểu t́nh. Chính phủ Đông Đức rút chạy vào tổng hành dinh của Hồng quân Liên Xô. Chính họ đă cầu cứu và “ngoại bang” đă dùng xe tăng thẳng tay đàn áp cuộc chống đối đâu tiên của nhân dân ấy.
Tại Hungary, sau năm 1945,
cuộc bầu cử dân chủ chỉ đem
lại cho đảng cộng sản
Hungary 17%. Nhưng ngay sau
đó, “toàn quyền Liên xô”,
tướng Kliment Voroshilov đă
buộc một thành viên không
đảng phái trao ghế Bộ trưởng
Nội vụ cho László Rajk,
người của đảng cộng sản
Hungary. László Rajk đă lập
ra cơ quan an ninh quốc gia
sử dụng cách mà Hitler đă
làm trong thập niên 30: vu
cáo, bắt bớ, tra tấn… tiêu
diệt dần đối lập. Ngày
23-10-1956, người Hungary
đứng dậy hô to “không cam
chịu làm nô lệ nữa”. Nhưng,
ngày 4-11-1956, xe tăng Liên
Xô nghiến nát cuộc chính
biến sau khi máy bay ném bom
xuống Thủ đô Budapest: 2.500
người Hung bị giết; 200
ngh́n người khác phải trốn
khỏi quê hương.
Sự ngột ngạt về chính trị và bế tắc về kinh tế trở thành t́nh trạng phổ biến ở Đông Âu. Năm 1967, sau khi trở thành Bí thư thứ Nhất Tiệp Khắc, Alexander Dubcek tiến hành cải cách. Dubcek cho phát triển kinh tế tự chủ hơn; các tù nhân chính trị được tha và báo chí bắt đầu có tiếng nói. Không chủ trương đa đảng, Dubcek chỉ có ư định xây dựng “chủ nghĩa xă hội nhân bản hơn”. Tuy nhiên, những nỗ lực của Dubcek càng mang lại sự thịnh vượng cho nhân dân th́ lại càng gây lo lắng cho Liên Xô. Cho dù không có “nổi dậy”, đêm 20-8-1968, xe tăng Liên Xô vẫn tiến vào Praha theo sau bởi hơn 165 ngh́n quân của khối Warsava.
Tại bảo tàng Bức tường
Berlin, có một đoạn video
gần như được liên tục phát,
đó là trích đoạn phát biểu
ngày 12-6-1987 của Tổng
thống Mỹ Ronald Reagan: “Mr.
Gorbachev, hăy phá bỏ bức
tường này”. Thật khó để xác
định ai là người đóng vai
tṛ chính để kết thúc chiến
tranh lạnh.
Tuy nhiên, có
thể bức tường Berlin đă
không sụp đổ nếu như tháng
3-1989, Thủ tướng Hungary,
Miklos Nemeth, khi có ư định
“tháo gỡ hàng rào kẽm gai
dọc theo biên giới” không
nhận được tín hiệu từ ông
Gorbachev: “Vấn đề an ninh
biên giới là việc của ông
Nemeth”.
Không có một dân tộc nào không nuôi khát vọng tự do ngay cả dưới họng súng của xe tăng và đại bác. Câu trả lời của ông Gorbachev đơn giản chỉ là trả cho người Hungary quyền tự quyết. Cái quyền mà người dân Đông Âu lẽ ra phải được hưởng kể từ 1945.
Cũng trong tháng 6-2004, tôi
có đi qua một vài nghĩa
trang quân Đồng Minh chết
sau sự kiện Normandy. Những
tấm bia ở đây nói rơ là
nghĩa trang được lập bởi dân
chúng địa phương góp đất và
tiền để tưởng nhớ những
người lính Anh, Mỹ, New
Zeland, Australia… Những
“nghĩa trang dân lập” ấy vẫn
được ǵn giữ cho đến ngày
nay với hoa tươi quanh năm.
Trong khi, năm 2007, Tổng
thống Nga Putin bị các quốc
gia lân bang đặt trước t́nh
huống phải kư sắc lệnh lập 7
văn pḥng đại diện tại Ba
Lan, Hungary và các nước
vùng Baltic để bảo vệ mộ của
Hồng quân.
Thật không phải
khi đụng đến nơi tưởng niệm
những người đă hy sinh.
Nhưng, cái cách mà Putin cư
xử với lân bang đă khiến họ
nhớ lại thời Liên Xô và nhận
thấy những tượng đài Hồng
quân “không c̣n là một biểu
tượng chống phát xít mà là
biểu tượng của sự chiếm đóng”.
Bên cạnh những bao cát của Checkpoint Charlie, chốt gác giữa Đông và Tây Berlin, cũng luôn có hoa tươi. Có lẽ ngay chính người Mỹ, sau những chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Iraq, cũng thèm khát h́nh ảnh của chính ḿnh trên bờ biển Normandy hay ở cái Checkpoint Charlie ấy. Từng là một người lính ở Campuchia tôi hiểu, không có người lính nào sẵn sàng hy sinh nếu không nghĩ, sứ mệnh của ḿnh là giải phóng. Nhưng, không chỉ những người đă nằm xuống, người lính thường kết thúc sứ mệnh sau khi buông súng, mà những việc có ảnh hưởng tới “các giá trị thiêng liêng” khi ấy mới thực sự bắt đầu. Một cuộc chiến không c̣n được coi là “giải phóng” nếu những ǵ mà nhân dân cuối cùng được hưởng không phải là độc lập tự do.
Huy Đức