Bao giờ Tàu đuổi kịp Mỹ?
Ngô
Nhân Dụng
Bà Susan Schwab, nguyên đại diện
thương mại trong chính phủ Mỹ, đă
được trao tước hiệu “giáo sư danh dự”
của Đại Học Quốc Gia ở Hà Nội ngày
hôm qua. Trước đó bà đă thuyết tŕnh
về các vấn đề kinh tế ở đại học này,
mà theo báo chí th́ ba phần tư thời
giờ là nói chuyện Trung Quốc.
Một câu hỏi tự nhiên trong số thính
giả tới nghe một người Mỹ nói về
kinh tế nước Tàu, tất nhiên là: “Bao
giờ Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ?”
Bà Susan Schwab có nghĩ đến nỗi ám
ảnh này, và bà nói thẳng rằng đó là
một chuyện “được thổi phồng quá
đáng!” Hàng hóa Trung Quốc bán sang
Mỹ phần lớn là đồ gia dụng và các
hàng tiêu thụ rẻ tiền, trong khi Mỹ
tập trung bán những thứ hàng thuộc
công nghệ cao và có lời nhiều: máy
bay, khí cụ truyền thông, vân vân.
Nghe vậy th́ biết người Mỹ vẫn yên
tâm mua hàng Tàu, giúp dân Trung Hoa
có công việc làm và giúp chính phủ
Bắc Kinh thu ngoại tệ về để tiếp tục
cho chính phủ Mỹ vay “với giá rẻ.”
Nhưng bà Schwab không trả lới thẳng
câu hỏi “Đến bao giờ th́ kinh tế
Trung Hoa qua mặt Mỹ, hay nói khiêm
tốn hơn, bao giờ th́ họ đuổi kịp
Mỹ?”
Cần phải xác định “đuổi kịp” là dựa
trên tiêu chuẩn nào. Thử lấy Tổng
Sản Lượng Nội Địa (GDP) làm thước
đo, hiện nay GDP Trung Quốc lớn gần
bằng một phần ba của Mỹ. Nếu kinh tế
Trung Quốc cứ tiếp tục tăng trưởng
liên tục với tốc độ 10%, mà Mỹ chỉ
tăng với tốc độ 3%, th́ trong khoảng
17 năm, GDP của Trung Quốc sẽ bằng
của Mỹ. Giả thiết tỷ lệ tăng trưởng
10% suốt 17 năm có vẻ lạc quan quá
đáng, nhưng từ con số trên có thể
tiên đoán tổng sản lượng nội địa của
nước Trung Hoa sẽ lớn bằng của Mỹ
trong khoảng 20 năm.
Nhưng so sánh bằng GDP không đủ, v́
hai nước có dân số khác nhau. Khi
kinh tế Tàu bằng kinh tế Mỹ mà số
dân Trung Hoa vẫn đông gấp ba lần,
th́ lợi tức theo đầu người của người
Trung Hoa chỉ bằng một phần ba của
người Mỹ. Cho nên phải so sánh bằng
GDP chia đều cho đầu người dân. Dùng
con số này, th́ hiện nay nếu người
Trung Hoa trung b́nh làm ra một đồng
th́ người dân Mỹ có 14 đồng, lợi tức
gấp 14 lần. Bao giờ th́ họ đuổi kịp
dân Mỹ? Theo một người sinh trưởng ở
Trung Quốc và hiện làm việc tại Mỹ
th́ cần phải 47 năm nữa lợi tức b́nh
quân của nước ông mới bằng nước Mỹ.
Tức là dân Trung Hoa sẽ phải chờ gần
nửa thế kỷ nữa.
Vị học giả Trung Hoa trên là ông Bùi
Mẫn Hân (Xinmin Pei???), tốt nghiệp
Đại Học Thượng Hải trước khi sang Mỹ
học, và hiện làm việc nghiên cứu tại
Viện Carnegie về Ḥa b́nh quốc tế,
và giám đốc một viện nghiên cứu
chiến lược tại Claremont McKenna
College. So sánh với toàn thể Á
Châu, ông Bùi Mẫn Hân thấy hiện nay
lợi tức theo đầu người chỉ có 5,800
đô la một năm, so với 48,000 đô la
của dân Mỹ. C̣n ngân sách quân sự
của cả Á Châu vào năm 2008 chỉ bằng
một phần ba ngân sách quốc pḥng của
Mỹ, mà v́ nước Mỹ vẫn chi rất nhiều
vào việc chế tạo vũ khí, phải chờ 72
năm nữa Á Châu mới đuổi kịp.
Nhưng ông Bùi Mẫn Hân cho là vai tṛ
“cường quốc” trên thế giới không
phải chỉ đạt được nhờ sức mạnh kinh
tế và quân sự. Một yếu tố quan trọng
hơn, theo ông là “ư kiến, tư tưởng.”
Hiện nay cả thế giới đang chịu ảnh
hưởng của những ư tưởng mà Mỹ và các
nước Tây phương vẫn theo đuổi từ mấy
thế kỷ nay: kinh tế thị trường, chế
độ tự do dân chủ, và các định chế
quốc tế ra đời từ hơn nửa thế kỷ
qua, như Liên Hiệp Quốc, ṭa án thế
giới, WTO, vân vân.
Trung Quốc đang cống hiến được ǵ
trong lănh vực này? Trung Quốc có
đưa ra cho thế giới một mô thức
chính trị hay kinh tế nào để người
ta bắt chước? Hay là một quy củ mới
cho đời sống quốc tế? Chưa có ǵ cả.
Như quư vị đọc mục này đă biết, một
người Trung Hoa là giáo sư Diêm Học
Thông (Yan Xuetong), thuộc Đại Học
Thanh Hoa, Bắc Kinh, c̣n chê là “chủ
nghĩa xă hội với đặc tính Trung Hoa
càng ngày càng trông giống như chủ
nghĩa tư bản với đặc tính Mỹ!” Hiện
nay Trung Quốc đang “xuất cảng tư
tưởng” bằng những Viện Khổng Tử. Đó
là những “trung tâm văn hóa” theo
kiểu Viện Goethe mà chính phủ Cộng
Ḥa Liên Bang Đức đă lập ở nhiều
nước. Ở Hà Nội cũng có một viện
Khổng Tử, và chuẩn bị xây dựng một
Cung Văn Hóa với mô h́nh rất “hoành
tráng” xây bằng tiền của Bắc Kinh.
Trung Quốc đang bán món hàng Khổng
Tử, thay v́ xuất cảng Mao Trạch
Đông. Ngay ở trong nước Tàu, cuốn
Luận Ngữ được một nữ kư giả chú
thích, giải nghĩa và b́nh luận đă
bán được dăm chục triệu cuốn, c̣n
Sách Đỏ của Mao chẳng ai thèm mua.
Nhưng thế giới bây giờ có thể học ǵ
ở Đức Thánh Khổng? Chính những người
lănh đạo ở Bắc Kinh cũng chưa biết
dùng vị vạn thế sư biểu này vào việc
ǵ, ngoài ư định lợi dụng ngài để
củng cố chế độ qua các đức tính như
trung thành tuyệt đối với bề trên,
một ư tưởng chỉ đến đời Tống mới
thịnh hành chứ chính Khổng Tử và
Mạnh Tử th́ không chủ trương như
vậy. Cho nên, trên mặt trận tư
tưởng, Trung Quốc hiện nay chưa có
ǵ để cống hiến cho loài người; sự
bành trướng của họ bây giờ dựa hoàn
toàn trên trao đổi kinh tế. Mà
phương thuốc kinh tế của họ th́ chỉ
là mô phỏng kinh tế tư bản trước đây
hơn 100 năm.
Như đă tŕnh bày trong mục này tuần
trước, sự phát triển của một số công
ty lớn nhất ở Trung Quốc không phải
là nhờ hệ thống chính trị, luật pháp
và kinh tế nước họ, mà chính là nhờ
họ được sử dụng hệ thống pháp luật
và thị trường tài chánh mà người Anh
đă để lại ở Hồng Kông. Những nước
đang mở mang khác không có một Hồng
Kông ở bên cạnh sẽ không có cách nào
theo chân Trung Quốc được. Toa thuốc
phát triển của Trung Quốc gồm hai
phần, một là chú trọng đến đầu tư và
xuất cảng, hy sinh tiêu thụ; hai là
dựa vào cánh cửa ngỏ ở Hồng Kông với
“hạ tầng cơ sở” về định chế và pháp
luật tư bản có sẵn ở đó hàng trăm
năm. Các nước khác phải tự thiết lập
lấy những cái khung luật pháp, thị
trường tài chánh, làm hạ tầng cơ sở
chính trị cho việc phát triển của
ḿnh. Nếu không th́ toa thuốc sẽ
thiếu vị chính, bắt chước th́ chỉ tự
chuốc lấy những cái dở, cái xấu của
hệ thống kinh tế Trung Quốc mà không
hưởng được cái lợi nào cả. Cho nên
khi bà Susan Schwab khuyên các sinh
viên Đại Học Quốc Gia Hà Nội là
“Việt Nam phải t́m con đường riêng,
khác Trung Quốc,” là bà ấy nói rất
chí t́nh, chứ không phải chỉ nói
phỉnh người Việt mà chắc bà ấy biết
không ai ưa ǵ ảnh hưởng Trung Quốc.
Giáo Sư Bùi Mẫn Hân đă xuất bản cuốn
China's Trapped Transition: The
Limits of Developmental Autocracy
(Harvard University Press, 2006).
Chủ đề ngay trong tựa sách đă cho
biết ông nhận thấy những giới hạn
của mô h́nh phát triển trong chế độ
độc tài. Ông nêu lên những chỗ yếu
kém tự sinh ra trong cơ cấu kinh tế
của Trung Quốc cũng như của các nước
độc tài khác. Điều ông quan tâm nhất
là một chế độ độc tài th́ không thể
nào bài trừ được nạn tham nhũng, một
trở ngại lớn cho việc phát triển
kinh tế. Cũng giống như Giáo Sư
Hoàng Á Sinh, giới thiệu trong bài
trước, ông Bùi Mẫn Hân nhận thấy
kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh
và có tính chất bền vững nhất vào
thời 1980, khi chính trị được nới
lỏng. Từ sau vụ Thiên An Môn, Bắc
Kinh đă quay ngược, và những vấn đề
lớn xuất hiện, như khoảng cách lợi
tức giầu nghèo ngày càng rộng, số
200 triệu nông dân đi lang thang đi
kiếm việc và bị kỳ thị ở thành phố,
những vụ khiếu kiện về đối xử bất
công, đất đai nhà cửa, tăng lên hàng
trăm ngàn vụ mỗi năm, và hệ thống
chính quyền các tỉnh đă trở thành
những đảng Mafia.
Không riêng ǵ Trung Quốc, ông Bùi
Mẫn Hân nhận thấy kinh tế ở các nước
độc tài thường bột phát khi nào chế
độ được nới lỏng, người dân được tự
do hơn cả về kinh tế lẫn chính trị.
Những nước độc tài nào biết chọn một
công thức kinh tế vĩ mô đúng lúc th́
kinh tế tiến lên được trong một thời
gian, nhưng c̣n bao nhiêu nước độc
tài khác cứ tiếp tục nghèo nàn th́
không được ai chú ư tới, cho nên
người ta nuôi ảo tưởng là chế độ độc
tài tốt cho kinh tế các nước nghèo.
Bùi Mẫn Hân c̣n mạnh bạo viết rằng
chế độ độc tài có tính cách tự hủy
diệt (self destructive). Nhưng ông
cũng viết một sự thật: Những chế độ
độc tài rất khéo trong việc che giấu
những nhược điểm, c̣n các nước tự do
dân chủ th́ rất giỏi trong việc
quảng cáo những nhược điểm của họ!
Đối với người Việt Nam th́ câu hỏi
bao giờ Tàu đuổi kịp Mỹ không quan
trọng bằng câu hỏi “Bao giờ Trung
Quốc thống trị Á Châu”
Trước câu hỏi này, Bùi Mẫn Hân trả
lời: C̣n lâu!
Theo ông th́ giới lănh đạo ở Bắc
Kinh có mối lo lắng nhất là kéo dài
chế độ độc tài của họ, việc bành
trướng ra hải ngoại chỉ là việc phụ.
Và việc bành trướng đó sẽ bị chính
các nước chung quanh cản trở, chứ
không phải riêng nước Mỹ. Nga, Nhật,
Hàn Quốc, Ấn Độ, tự nhiên sẽ tạo ra
những rào cản đối với Tàu. Các nước
Đông Nam Á càng lo lắng hơn nữa, họ
sợ sự bành trướng của Trung Quốc hơn
các nước khác. Chính phủ Bắc Kinh
đang cố t́m cách giảm bớt mối lo sợ
của các nước khác, lớn cũng như nhỏ.
Đây là một điểm mà các chính quyền
Việt Nam phải nhớ và khai thác. Nếu
Việt Nam tỏ ra cứng rắn hơn đối với
Bắc Kinh, th́ chính Bắc Kinh sẽ rụt
rè khi phải phản ứng. V́ họ không
muốn làm cho các nước khác nghi ngờ
hơn về mộng bá quyền của họ.
Giáo Sư Bùi Mẫn Hân cũng đưa ra mấy
con số. Trong một cuộc nghiên cứu dư
luận người ta đă thấy chỉ có 10%
người Nhật, 21% người Nam Hàn và 27%
người Indonesia nói họ vẫn cảm thấy
yên tâm khi Trung Quốc trở thành
nước lănh đạo ở Á Châu. Trong khi
đó, hỏi về vai tṛ của nước Mỹ, có
69% người Trung Hoa, 75% người
Indonesia và 76% người Nam Hàn,79%
người Nhật cho là ảnh hưởng của Mỹ
trong vùng Á Châu đă tăng lên trong
thập niên vừa qua. Người Việt Nam
không cần biết Mỹ với Tàu ai sẽ hơn
ai, nhưng chúng ta biết dù nước nào
hơn th́ ḿnh cũng phải lo tự bảo vệ
quyền tự chủ và bản sắc dân tộc.
Người Việt Nam phải quan tâm đến sự
bành trướng của Trung Quốc. Nhưng
chắc chắn không cần phải sợ. Trong
cuốn Nh́n lại Sử Việt, cuốn đầu kể
đến đời Ngô Quyền phá quân Nam Hán,
sử gia Lê Mạnh Hùng đă đặt câu hỏi
tại sao người Việt vẫn bảo vệ được
quyền tự chủ và bản sắc sau 1117 năm
Bắc thuộc, trong khi những giống dân
khác như Sở, Ngô, Mân Việt, Nam
Chiếu, Liêu, Hạ, Hồ Hột (Uighur),
Thổ phồn, Mông, Măn, vân vân, đă bị
Hán hóa? Ông Lê Mạnh Hùng nêu ra
nhiều lư do. Trong đó có một điều ít
sử gia chú ư tới, là sự tiếp cận của
Việt Nam với vùng Đông Nam Á. Vào
thế kỷ 21 này yếu tố trên vẫn phải
chú ư tới, nhưng phải mở rộng ra
ngoài vùng Đông Nam Á sang khắp cả Á
Châu và Thái B́nh Dương. Khắp nơi
đều có những hàng rào ngăn không cho
Trung Quốc bành trướng. Việt Nam
phải biết lợi dụng hoàn cảnh đó.