- T.T dịch.
Ngày 13/01/1898,
Zola đă viết một bức
thư ngỏ gửi Tổng
thống với đầu đề
“Tôi lên án”, kêu
gọi xét xử lại Vụ án
Dreyfus v́ bị vu cáo.
Ngày hôm sau, bức
thư ngỏ này đă được
đăng trên tờ “Tia
sáng”, chủ bút
Clémenceau (có lẽ là
Georges Clemenceau;
1841-1929 – ND) đă
dùng câu “Tuyên ngôn
của giới trí thức”
(Manifeste des
intellectuels) để mô
tả nó.
Về định
nghĩa trí thức là ǵ,
theo quan điểm thịnh
hành ở các nước, trí
thức là chủ thể đă qua
đào tạo chuyên ngành,
nắm vững kiến thức
chuyên môn, lấy tri thức
làm thủ pháp mưu sinh,
lấy lao động trí óc làm
nghề nghiệp
Hiện nay, giới học thuật
Trung Quốc nh́n chung
cho rằng, trí thức là
người lao động trí óc có
tŕnh độ văn hóa tương
đối cao, chủ yếu lấy
việc sáng tạo, tích lũy,
t́m hiểu, truyền bá,
quản lí và ứng dụng kiến
thức văn hóa khoa học là
ngành nghề, được phân bố
trong các lĩnh vực
nghiên cứu khoa học,
giáo dục, kĩ thuật công
tŕnh, văn hóa nghệ
thuật, y tế…, là chủ thể
được Trung Quốc gọi
chung là “tầng lớp có
thu nhập trung b́nh”.
Trí thức với tư cách là
một khái niệm mang tính
chính trị và là một tầng
lớp xă hội tương đối độc
lập sẽ tồn tại lâu dài,
và cuối cùng sẽ phát
triển cùng với tŕnh độ
cao của sức sản xuất, sẽ
biến mất cùng với sự
biến mất của khoảng cách
chênh lệch giữa công
nhân với nông dân, giữa
nông thôn với thành thị,
giữa lao động trí óc với
lao động thể lực.
1) Trí thức là một trong
4 loại người lao động
lớn của Trung Quốc: Công
nhân, nông dân, quân
nhân, trí thức, tức trí
thức là người lao động
trí óc, người lao động
kĩ thuật chuyên môn. Như:
Giáo viên, bác sĩ, kĩ sư
và nhà khoa học đều là
những trí thức điển h́nh.
2) Trí thức là người đọc
sách (“độc thư nhân”)
thời cổ đại, hoặc là sự
tiếp diễn hiện đại của
“sĩ” thời cổ đại. Hoài
băo của “độc thư nhân”
thời cổ đại là “dĩ thiên
hạ vi kỉ nhiệm, vi quốc
(đế) phân ưu, vi dân
thỉnh nguyện”, đồng thời
hoàng đế cũng thực sự
trọng đăi và tôn trọng
họ. Xét từ góc độ này,
xă hội Trung Quốc hiện
đại đă không c̣n trí
thức.
3) Xă hội hiện đại vẫn
có những người thích
được ở vào địa vị trí
thức, hoặc có thói quen
nói những lời kính cẩn
với trí thức, thường là
chỉ những người có tŕnh
độ văn hóa tương đối cao,
học hành tương đối nhiều.
4) Biệt danh của trí
thức là “xú lăo cửu” (tạm
dịch: loại người thối
tha thứ 9), phản ánh địa
vị chính trị và kinh tế
thấp hèn của trí thức
trong và sau Cách mạng
Văn hóa .
I. Đối tượng mà từ “trí
thức” muốn chỉ là ǵ?
Không ít học giả Trung
Quốc cho rằng từ “trí
thức” (tiếng Hán: tri
thức phần tử “知识分子”- ND)
được dịch từ tiếng Tây.
Giáo sư Diệp Khải Chính
ở Khoa xă hội Trường Đại
học Đài Loan đă có sự
trao đổi khá tường tận
về vấn đề này. Theo quan
điểm của Diệp Khải Chính,
khái niệm “trí thức” bắt
nguồn từ Phương Tây. Ở
Châu Âu có hai từ có
liên quan đến khái niệm
“trí thức”, nếu nói theo
tiếng Anh tương đối
thông dụng hiện giờ th́
một là intelligentsia (giới
trí thức – ND), hai là
intellectual (người trí
thức – ND).
Hai từ này lần lượt
thuộc Đông Âu và Tây Âu,
mang ư nghĩa lịch sử
khác nhau.
Từ intelligentsia
bắt nguồn từ nước Nga,
do nhà văn Nga Boborykin
(Petr Dmitrievich
Boborykin; 1836-1921 đề
xuất vào năm 1860, được
dùng để chỉ riêng một
nhóm nhân vật đă đưa
triết học Đức vào nước
Nga.
Nước Nga Sa hoàng khi ấy
c̣n khá lạc hậu, du học
sinh đem những tư tưởng
và lối sống của xă hội
Tây Âu, tỏ ra bất măn
với t́nh trạng nước Nga
đương thời, hoặc cao đàm
khoát luận về lí tưởng
sặc mùi chủ nghĩa không
tưởng và học theo lối
sống của xă hội thượng
lưu Phương Tây, hoặc bắt
tay vào cải cách xă hội
thực tế. Trong số họ sau
này đă h́nh thành nên
những nhóm tư tưởng khác
nhau, như chủ nghĩa Dân
túy, chủ nghĩa Tự do,
chủ nghĩa Tân Căng-tơ…
Có học giả lại cho rằng
intelligentsia có
nguồn gốc từ Ba Lan,
được sử dụng bởi nhà
triết học Ba Lan Karol
Libelt (1807-1875).
Ba Lan khi ấy đă có một
tầng lớp xă hội mang
tính đồng nhất rất cao
về mặt văn hóa, cả đặc
điểm tâm lí, lối sống,
địa vị xă hội lẫn hệ
thống giá trị của họ đều
mang màu sắc riêng.
Tầng lớp này là giới quí
tộc thị thành có ruộng
đất, khác với tầng lớp
trung lưu mới nổi, đă
thiết lập một hệ thống
giáo dục của ḿnh nhằm
duy tŕ lối sống mang
màu sắc riêng.
Trong hệ thống này, học
sinh học kiến thức thuộc
đủ mọi phương diện, và
đặc biệt chú trọng bồi
dưỡng ư thức lănh đạo và
trách nhiệm xă hội mạnh
mẽ. Những người được đào
tạo trong môi trường này
hết sức coi trọng nền
học thức của ḿnh và lấy
đó làm tự hào.
Về sau, tinh thần của
giới quí tộc này đă được
những người học đại học
ở Ba Lan kế thừa, họ
dũng cảm phê phán xă
hội, coi đại sự quốc gia
là trách nhiệm của ḿnh.
Khi Ba Lan bị các cường
quốc chia cắt, lớp người
này trở thành lực lượng
chủ yếu trong công cuộc
cứu nước và chống lại
giai cấp thống trị. V́
thế, nếu xét từ ư nghĩa
lịch sử của từ
intelligentsia , th́
trí thức là lớp người
được qua học hành tương
đối, có óc phê phán và
có tinh thần phản kháng
đối với hiện trạng, họ
h́nh thành nên một tầng
lớp riêng biệt trong xă
hội.
Tầng lớp này cùng những
đặc tính truyền thống
của nó đă dần bị tan ră
và biến mất sau Cách
mạng Tháng Mười.
Thời đại Liên Xô cùng
những ảnh hưởng của cuộc
Cách mạng Tháng Mười đă
sản sinh ra các nước xă
hội chủ nghĩa của cách
mạng vô sản, đều định
nghĩa trí thức là những
nhà chuyên môn làm lao
động trí óc, mà không
c̣n chỉ một tầng lớp
riêng có ư thức xă hội
và óc phê phán mạnh nữa.
Từ “trí thức” có
nguồn gốc từ Tây Âu khác
với từ Đông Âu.
Intellectual có nguồn
gốc từ nước Pháp, được
khởi nguồn từ Vụ án
Dreyfus.
Tôi
lên án
(J’accuse),
bài trên báo
L’Aurore
số ra ngày
13/1/1898
Về sau, chỉ cần cứ
nhắc đến
intellectuels là
người ta hiểu ngay
đó là những nhà văn,
giáo viên, nhà báo
chủ trương hoặc đồng
t́nh với việc sửa
sai cho Dreyfus (…).
V́ thế,
intellectuels
trong tiếng Pháp
được dùng để chỉ
nhóm nhà văn, giáo
viên, nghệ sĩ nổi
tiếng về học thuật,
họ phê phán nền
chính trị và trở
thành trung tâm của
ư thức xă hội đương
thời.
Truyền thống này
được khởi nguồn từ
những người có qua
học hành sau Đại
Cách mạng Pháp. Họ
phản kháng lại xă
hội đương thời vừa
bằng những chuẩn
mực, biện pháp, đàm
luận cổ súy cho
triết học thực
chứng, lại vừa mang
khí phách cách mạng
khá sâu đậm.
Phần lớn những người
này không thuộc giới
học thuật, mà là
từng nhiều năm
chuyện tṛ bàn luận
trong các quán cà
phê, mang theo tinh
thần kiểu Messianic
Bohemians, coi ḿnh
có sứ mệnh phải lo
cho thiên hạ.
Nếu xét theo truyền
thống này th́
intellectuel
không mang ư nghĩa
giai cấp xă hội, mà
chỉ chú trọng đến
tâm thái cá nhân
cùng vai tṛ của
ḿnh trong xă hội.
Do hàm nghĩa lịch sử
của hai từ trên
không giống nhau,
cho nên trong tiếng
Anh hiện đại thường
dùng intellectual
để chỉ “người trí
thức”, và dùng
intelligentsia
để chỉ “tầng lớp trí
thức”.
Trung Quốc thời cổ
đại, các khái niệm
gần với hàm nghĩa
của “trí thức” là
“sĩ” hoặc “sĩ đại
phu”.
“Sĩ” chiếm vị trí
trung tâm trong cơ
cấu xă hội truyền
thống Trung Quốc,
nằm trong “tứ dân
chi đạo” sĩ, nông,
công, thương.
Tuân Tử có thuyết
pháp “Nho giả tại
bản triều tắc mĩ
chính, tại hạ vị tắc
mĩ tục”, nói lên
chức năng chính trị
và văn hóa xă hội
của “sĩ”.
Kể từ thời Tần Hán,
ở những thời ḱ
tương đối ổn định,
sự duy tŕ trật tự
chính trị và trật tự
văn hóa đều nằm
trong tay “sĩ”; c̣n
ở những thời ḱ hắc
ám hoặc hỗn loạn,
“sĩ” cũng thường
gánh vác nhiệm vụ
phê phán chính trị
hoặc phê phán xă
hội.
Bằng h́nh thức hương
cử, lư tuyển ở đời
Hán và chế độ khoa
cử từ thời Tùy
Đường, “sĩ” có thể
được bước vào hàng
ngũ quan lại qua thi
cử, nghĩa là “học
nhi ưu tắc sĩ”, cả
hệ thống quan lại về
đại thể đều do “sĩ”
thao túng.
Thông qua các tổ
chức xă hội tông
tộc, học hiệu, hương
ước, hội quán…, “sĩ”
trở thành tầng lớp
lănh đạo của xă hội
dân gian.
V́ thế, theo tâm lí
xă hội thông thường,
“sĩ” là người “độc
thư minh lí”; thứ
đạo đức và sự rèn
luyện tri thức (chủ
yếu là Nho gia kinh
điển) mà họ được thụ
hưởng khiến cho họ
trở thành hạng người
được lựa chọn duy
nhất có tư cách trị
lí quốc gia và lănh
đạo xă hội
Theo Dư Anh Thời,
trí thức Trung Quốc
khởi xuất từ một
cội nguồn văn hóa
khác hẳn với Phương
Tây.
Bắt đầu từ thời
Khổng Tử, trí thức
tự gánh lấy “đạo”,
mà thứ “đạo’ này chỉ
riêng có ở Trung
Quốc.
Ba học phái lớn thời
Tiên Tần, là Nho,
Mặc, Đạo, mặc dù đều
có đạo riêng của
ḿnh, nhưng cũng
không nằm ngoài sự
đại diện cho “đạo”
này.
Trí thức Phương Tây
thời cận đại về cơ
bản là những nhân
vật “thế tục”
(Secular) đă thoát
li khỏi tôn giáo
Trung cổ.
Họ ít nhiều đều có
xuất thân tôn giáo,
song khi phê phán xă
hội, họ lại khỏi cần
dựa vào tín ngưỡng
tôn giáo hoặc lí
luận Thần học.
Trái lại, chỗ dựa
của họ thường chỉ là
“lí tính” hoặc
“lương tâm trí thức”
cá nhân.
Mặt khác, “đạo” của Phương Tây thời Trung cổ là được kí thác ở Cơ đốc giáo, đó là “đạo” được Thượng đế khải thị; kẻ đại diện cho nó là tăng lữ Giáo hội và nhà thần học – quyền uy tinh thần ngang hàng với quyền uy chính trị thế tục.
The Tribute
Money – tranh của
họa sĩ Phục hưng Ư
Masaccio vẽ
về điển tích “Render
unto Caesar the
things which are
Caesar’s, and unto
God the things that
are God’s”
V́ thế, trí thức Phương Tây thời cận đại không chịu tự nhận ḿnh khởi nguồn từ truyền thống tôn giáo này, bởi v́ họ đă không c̣n tuân thủ nguyên tắc “Cái ǵ của Caesar th́ trả lại cho Caesar, cái ǵ của Thượng đế th́ trả lại cho Thượng đế” nữa, thứ mà họ muốn quản là cái của Caesar.
Trí thức Trung Quốc
khởi xuất từ trực
tiếp kế thừa truyền
thống Tam Đại.
Xuân Thu Chiến Quốc
là một thời đại “lễ
băng nhạc hoại”; lễ
nhạc đă không xuất
từ thiên tử, mà là
xuất từ chư hầu, thế
nên Khổng Tử mới quở
trách là “thiên hạ
vô đạo”. Tầng lớp
thống trị vừa không
thể đảm trách “đạo”,
cái gánh “đạo” bèn
rơi vào tay “sĩ”
được hiểu một cách
đúng đắn là “lễ ư”.
Xét về nghĩa này,
có thể nói Khổng
Tử là bậc trí thức
hàng đầu xuất hiện
sớm nhất trong lịch
sử Trung Quốc.
“Sĩ” trước Khổng Tử
chỉ là một tầng ớp
cố định trong xă hội
quí tộc cổ đại.
Sau Khổng Tử, nguồn
gốc xuất thân của
“sĩ” bắt đầu thay
đổi.
Khổng Tử trước tiên
bèn giới thuyết thêm
cho “sĩ”.
Ông nói: “Sĩ trí vu
đạo, nhi sỉ ố y ố
thực giả, vị túc ư
nghị dă”(…). “Luận
ngữ” . Lí nhân lại
nói: “Sĩ nhi hoài
cư, bất túc dĩ vi sĩ
hĩ”(…). Loại “sĩ”
mới này (cùng với
“Hiến vấn” ở trên)
chính là nguyên mẫu
trí thức mà chúng ta
nói tới.
“Đạo” thời thượng cổ
chứa đựng thành phần
(“thiên đạo”) mang
tính tôn giáo,
truyền thống này tới
tay Khổng Tử đă
không c̣n đi theo
hướng “thiên đạo”
(đạo trời) nữa mà đă
chuyển sang lĩnh vực
“nhân đạo” (đạo
người).
Sau Khổng Tử, bách
gia ư khởi, tuy giữa
các “đạo” khác nhau,
nhưng về đại thể vẫn
đều lấy việc tạo
dựng lại trật tự
chính trị xă hội làm
cái đích cuối cùng.
Cho nên, tính cách
lịch sử của trí thức
Trung Quốc đă chịu
sự qui định của
truyền thống văn hóa
mà ḿnh kế thừa; nếu
xét theo kiểu “cái
của Xêda”, th́ tiếp
cận với trí thức
Phương Tây thời cận
đại; c̣n nếu xét
theo kiểu đại diện
cho “đạo”, th́ lại
tiếp cận với tăng lữ
và nhà thần học
Phương Tây thời
Trung cổ.
Trí thức, nếu xét
theo ư nghĩa của
Trung Quốc thời cận
đại, xuất hiện ở
Trung Quốc sau Chiến
tranh Nha phiến,
chịu sự ảnh hưởng
của nền văn minh
Phương Tây, đi kèm
với việc phế bỏ khoa
cử, chấn hưng tân
học, thoát thai từ
giới sĩ đại phu
phong kiến trong quá
tŕnh chuyển từ xă
hội phong kiến sang
xă hội thực dân nửa
phong kiến.
Họ hoặc là truyền bá
tư tưởng mới, kiến
thức mới, hoặc là
làm các nghiên cứu
học thuật thời cận
đại, hoặc là mở các
xí nghiệp thời cận
đại, hoặc là dồn sức
vào công cuộc xây
dựng hiện đại hóa.
Nghiêm Phục, Lương
Khải Siêu, Chiêm
Thiên Hựu… có thể
được coi là đại diện
cho trí thức thế hệ
đầu của Trung Quốc.
Ngày nay, khi chúng
ta sử dụng từ “trí
thức” th́ hàm nghĩa
của nó đă khác xa so
với “sĩ” của Trung
Quốc thời cổ đại, và
hoàn toàn khác với
cách dùng của Phương
Tây, nó thường được
dùng để chỉ những
người lao động trí
óc đă qua học chuyên
ngành ở một tŕnh độ
nhất định, có kiến
thức chuyên môn, làm
công việc kĩ thuật
chuyên môn đồng thời
có chức danh tương
ứng.
II. Trí thức điển h́nh có những đặc tính cơ bản nào
Theo quan điểm duy
vật Mác-xít,
trí thức là sản
phẩm của lịch sử xă
hội đă phát triển
đến một giai đoạn
nhất định.
K.Marx nói: “Khi
hiệu suất lao động
sản xuất của con
người vẫn c̣n cực
thấp, chỉ có thể tạo
ra mức thặng dư hết
sức ít ỏi ngoài
những tư liệu sinh
hoạt cần thiết, th́
việc nâng cao sức
sản xuất, mở rộng
trao đổi hàng hóa,
phát triển nhà nước
và luật pháp, mở
mang nghệ thuật và
khoa học, đều chỉ có
thể thực hiện được
bằng một sự phân
công lớn hơn, nền
tảng của sự phân
công này là làm một
cuộc đại phân công
giữa quần chúng lao
động thể lực đơn
thuần với thiểu số
những người cầm
quyền quản lí lao
động, kinh doanh
buôn bán, quản lí
quốc sự cùng làm
nghệ thuật và khoa
học sau này”.
Điều này có nghĩa
trí thức là sản phẩm
của sự phân công xă
hội chia tách lao
động trí óc với lao
động thể lực..
Như vậy có thể nói,
đặc tính cơ bản của
trí thức là “người
lao động trí óc”.
Nhà xă hội
học đương đại
T.Parsons đă xuất
phát từ chủ nghĩa
kết cấu chức năng để
t́m ra cội nguồn văn
hóa sản sinh ra trí
thức.
Theo quan điểm của
T.Parsons, trí thức
được sinh ra dựa vào
hai điều kiện: Một
là sự xuất hiện của
văn tự, hai là “sự
đột phá của triết
học”.
Cái gọi là sự đột
phá của triết học
được dùng để chỉ con
người đă có được một
sự nắm bắt khái niệm
hóa đối với môi
trường tự nhiên và
thế giới vũ trụ mà
ḿnh dựa vào đó để
sinh tồn, tức đă ư
thức được mối quan
hệ giữa cái tôi với
thế giới.
Con người không chỉ
là một sự tồn tại
mang tính sinh học,
mà ngoài những nhu
cầu mang tính sinh
học ra, anh ta c̣n
có những nhu cầu
mang tính tâm lí,
tức sự truy cầu ư
nghĩa cuộc sống, sự
truy cầu giá trị lớn
nhất, sự truy cầu
tiếp xúc được với
thế giới vũ trụ.
Nói một cách khác,
anh ta có một loại
nhu cầu là hiểu được
“Tại sao?”.
Để đáp ứng cho nhu
cầu ấy mà đă xuất
hiện chuyên gia về
văn hóa, tức trí
thức xét về một ư
nghĩa nào đó.
Chức năng chủ yếu
nhất của trí thức
chính là trăn trở để
giải đáp những
vấn đề ấy.
Đó chính là nguyên
nhân cắt nghĩa
v́ sao hầu hết
trí thức đều khởi
nguồn từ giáo sĩ,
nhà tiên tri, nhà
triết học.
V́ thế, chức năng
của trí thức chủ yếu
mang tính văn hóa,
những làm có liên
quan đến các hoạt
động mang tính văn
hóa như giá trị,
quan niệm, kí hiệu…,
nhằm thiết lập một
hệ thống ư nghĩa
mang tính văn hóa
cho xă hội.
Ở buổi đầu của sự
phát triển xă hội,
văn tự là thứ kí
hiệu tượng trưng mà
chỉ có một số ít
người nắm được, v́
thế mà mang tính
chất “thần thánh”.
Trong một xă hội mà
văn tự được quần
chúng cả xă hội sùng
bái, th́ trí thức
mới có thể trở thành
một tầng lớp, một
nhóm được nhận dạng.
Xét từ góc độ này,
trí thức cần là
“chuyên gia về văn
hóa”, chứ không chỉ
là “người lao động
trí óc” chung chung,
hoặc trí thức là một
bộ phận người quan
tâm đến đồng thời
tạo ra, làm sáng tỏ
và truyền bá các giá
trị văn hóa trong số
“người lao động trí
óc”.
Chức năng của
trí thức một khi đă
là giải thích thế
giới ngoại tại,
th́ lẽ dĩ nhiên là
bao giờ cũng có
thiên hướng hoài
nghi và phê phán,
cách nghĩ và quan
điểm bao giờ cũng có
khoảng cách so với
hiện trạng xă hội.
Không có một xă hội
hiện thực nào là
tṛn trĩnh cả, v́
thế mà trí thức luôn
tỏ ra không hài ḷng
với hiện trạng xă
hội, bao giờ cũng
phê phán cái xă hội
mà anh ta đang ở
vào, bao giờ cũng có
ư muốn cải tạo hoặc
làm cho xă hội tốt
đẹp hơn theo lí tính
và theo lí tưởng của
ḿnh.
Đây có lẽ là h́nh
ảnh của người trí
thức điển h́nh nhất
trên thế giới từ xưa
đến nay. Nhờ h́nh
ảnh này mà anh ta
được đánh đồng một
cách lăng mạn với
lương tâm của xă
hội.
K.Marx và F.Engels
có thể được xem là
đại diện điển h́nh,
họ sáng lập ra học
thuyết về chủ nghĩa
xă hội khoa học, làm
rơ được qui luật
khách quan chủ nghĩa
tư bản phát sinh,
phát triển rồi cuối
cùng đi đến diệt
vong, kêu gọi giai
cấp vô sản lănh sứ
mệnh đào mồ chôn chủ
nghĩa tư bản, đánh
hồi chuông cầu
nguyện cho chế độ
cũ.
K.Marx và F.Engels
được suy tôn là
“người thầy dẫn dắt
cách mạng vô sản”,
song họ lại không
phải xuất thân từ
giai cấp vô sản,
thành phần xă hội
thực chất của họ là
trí thức. Qua đây có
thể thấy, trí thức
c̣n là lực lượng tự
phê phán và là người
có tiếng nói đại
diện cho quần chúng
trong xă hội.
Do trí thức bao
giờ cũng phê phán
xă hội anh ta đang
ở vào, cho nên anh
ta bao giờ cũng có
mối quan hệ căng
thẳng mang tính bẩm
sinh với giới quyền
uy chính trị.
Một mặt, trí thức
muốn tạo một khoảng
cách với giới quyền
uy chính trị, để giữ
được tư cách là
người phê phán riêng
biệt của ḿnh; mặt
khác, giới quyền uy
chính trị cũng chẳng
ưa ǵ trí thức, sợ
rằng quyền uy của
ḿnh sẽ bị hoài nghi
và chỉ trích.
Xét về điểm này, trí
thức c̣n có chiều
hướng lánh xa giới
quyền uy chính trị.
Bởi trí thức không chỉ nắm tri thức mà không chiếm hữu tư liệu sản xuất, cho nên sẽ không chiếm hữu một vị trí độc lập trong hệ thống quan hệ sản xuất của xă hội, không phải là một giai cấp độc lập, trong một vài thời ḱ lịch sử nhất định của xă hội thậm chí c̣n không gắn kết thực sự với bất cứ một giai cấp hoặc tầng lớp nào trong xă hội.
Mao Trạch Đông từng ví trí thức của nước Trung Quốc thực dân nửa phong kiến với lông mao, cho là họ phụ bám trên da bọn đế quốc, giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản quan liêu, giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp tiểu tư sản, cách mạng dân chủ đă lột sạch 3 tấm da đầu, c̣n cách mạng xă hội chủ nghĩa lột sạch 2 tấm da sau. “Da đă bị lột, lông c̣n biết bám vào đâu”, kết quả là chỉ c̣n biết bám vào thân giai cấp vô sản.
Karl
Mannheim, nhà sáng
lập môn xă hội học
tri thức th́ cho
rằng, một đặc tính
cơ bản của trí thức
là tự do bay bổng (free-floating).
Xét từ điểm này, bản
thân trí thức chẳng
phải là một giai cấp
và tầng lớp xă hội
độc lập, cũng chẳng
gắn kết thực sự với
gia cấp hoặc tầng
lớp nào khác trong
xă hội, mà là một
tập hợp người tương
đối tự do bay bổng
trong xă hội.
Xét về đại thể,
trong ngữ cảnh
Phương Tây hiện đại,
trí thức có 3 đặc
tính cơ bản:
Một: Đă qua đào tạo
chuyên ngành, nắm
được kiến thức
chuyên ngành, biết
cách sử dụng những
kí hiệu tượng trưng
để giải thích vũ trụ
nhân sinh;
Hai: Lấy tri thức
làm thủ pháp mưu
sinh, lấy lao động
trí óc làm nghề
nghiệp, h́nh thành
nên một tầng lớp xă
hội không gắn kết
thực sự với giai cấp
khác, không lệ thuộc
vào thể chế hiện
tại, “tự do bay
bổng”, tương đối độc
lập;
Ba: Có ư thức về
trách nhiệm xă hội
mạnh mẽ, có thái độ
phê phán đối với
chính trị đương
thời, thường tỏ ra
không hài ḷng với
hiện trạng.
Michael Confino |
Đặc tính thứ ba, sau
khi qua Michael
Confino tổng hợp ư
kiến của các nhà
khoa học, đă được
qui tụ lại thành 5
điểm sau:
1) Quan tâm sâu sắc
đến tất cả mọi vấn
đề thuộc lợi ích
chung – bao gồm
những vấn đề về các
phương diện xă hội,
kinh tế, văn hóa,
chính trị;
2) Tầng lớp này
thường tự có cảm
giác ḿnh mắc tội,
v́ cho rằng việc
giải quyết quốc gia
đại sự và những vấn
đề nói trên đều có
trách nhiệm cá nhân
của họ;
3) Có thiên hướng
xem tất cả những vấn
đề về chính trị, xă
hội là thuộc vấn đề
đạo đức;
4) Bất luận là về
mặt tư tưởng hay về
mặt đời sống, những
người thuộc tầng lớp
này đều cảm thấy
ḿnh có nghĩa vụ t́m
ra lời giải đáp mang
tính logic cuối cùng
cho mọi vấn đề;
5) Họ tin chắc rằng
hiện trạng xă hội
bất hợp lí, cần phải
thay đổi.
Năm điểm do
M.Confino tổng hợp
về đại thể là phù
hợp với truyền thống
trí thức Trung Quốc,
nhất là về mặt tinh
thần trách nhiệm và
quan tâm thế sự. Từ
“nhân dĩ vi kỉ
nhiệm” của Tăng Sâm
đến “dĩ thiên hạ vi
kỉ nhiệm” của Phạm
Trọng Yêm đều hiển
thị điều trí thức
Trung Quốc có tinh
thần trách nhiệm sâu
sắc đối với những
vấn đề thuộc các
phương diện đạo đức,
chính trị, xă hội.
Nói về mặt quan tâm
thế sự, lại càng nên
dẫn câu sau trong bộ
câu đối của Đông Lâm
Đảng Cố Hiến Thành
cuối đời Minh: “Gia
sự, quốc sự, thiên
hạ sự, sự sự quan
tâm”.
Cho đến khi nước
Trung Quốc mới được
thành lập, tinh thần
của truyền thống
“quan tâm” này vẫn
tràn đầy sức sống
trong sinh mệnh của
trí thức Trung Quốc.
Đặng Thác bèn viết
một thiên tạp văn
“Sự sự quan tâm”
trong “Yến Sơn dạ
thoại”. Ông c̣n viết
trong bài thơ có tên
“Ca xướng Thái Hồ”:
“Đông Lâm giảng học
kế qui sơn, sự sự
quan tâm thiên địa
gian. Mạc vị thư
sinh không nghị
luận, đầu lô trịch
ngoại huyết ban
ban”. Đây chính là
minh chứng cho sự
diên miên bất tuyệt
của truyền thống trí
thức Trung Quốc.
Người trí thức đại
diện cho “lương tâm
xă hội” tồn tại cả
trong xă hội Phương
Tây lẫn xă hội Trung
Quốc..
Song, nếu quan sát
từ góc độ lịch sử,
th́ truyền thống này
ở Phương Tây là một
hiện tượng hiện đại.
Nh́n chung, tầng lớp
trí thức được h́nh
thành không trước
thế kỷ 17, 18.
Nhà tư tưởng (philosopher)
trong phong trào
Khai sáng ở Tây Âu
dại thể có thể đại
diện cho nguyên h́nh
trí thức Phương Tây;
nguồn gốc xa xưa
intellegentsia của
nước Nga cũng chỉ có
thể tính ngược ḍng
đến thế kỉ 18.
So với Phương Tây,
truyền thống trí
thức Trung Quốc có
thể được coi là xa
xưa hơn, ít nhất
cũng được tính từ
thời Xuân Thu Chiến
Quốc, đă có lịch sử
hơn 2000 năm, và
dường như có thể nói
là chưa từng bị gián
đoạn.
Từ xưa đến nay,
Trung Quốc luôn có
một nhóm người không
đông về cơ bản là xử
lí văn tự, tức là
“đọc thư nhân” hoặc
“sĩ” như vẫn thường
nói, họ có cả một
truyền thống được
hun đúc bằng Nho
học.
Theo ư kiến của Tiền
Mục, “sĩ” do học lễ
mà dẫn đến phê phán
tất cả những thứ phi
lễ trong giới quí
tộc đương thời,
Khổng Tử là đại diện
điển h́nh.
Bách gia chư tử có
thể nói là lần đầu
tiên tỏ rơ nhất sự
bất măn đối với xă
hội và giới quí tộc
đương thời. Sau khi
chế độ khoa cử được
thiết lập, “sĩ” của
Trung Quốc tỏ ra hết
sức bạc nhược trước
sự cám dỗ của con
đường tấn thăng đă
thành chế độ cùng
với sự đè nén của
thể chế chính trị
quân quyền chí
thượng.
Trong t́nh h́nh ấy,
đặc tính của “sĩ”,
dưới sự dẫn dắt của
tinh thần nhân văn,
lấy thành tựu đạo
đức cá nhân theo
kiểu nội phát làm
nền, là chăm chút tu
dưỡng cá nhân, lấy
thành tựu làm qui
phạm luân lí đạo đức
phổ biến, từ đó mà
suy diễn sang hệ
chính trị, chứ không
phải là lấy thành
tựu tri thức làm chủ
đề.
V́ thế, “sĩ” của
Trung Quốc cổ đại về
mặt truy cầu tinh
thần trước sau vẫn
không quên được
chính trị, cho dù là
Lăo Tử hay Trang Tử,
th́ khi viết sách
dạy học vẫn hết sức
hào hứng với chính
trị.
Xét về đại thể, “sĩ”
của Trung Quốc cổ
đại có 2 điểm khác
cơ bản với trí thức
của Phương Tây thời
cận đại:
Một, “sĩ” của Trung
Quốc không truy cầu
tri thức như trí
thức Phương Tây, mà
lấy tư tưởng Nho gia
là cốt lơi, chú
trọng luân lí đạo
đức, truy cầu sức
mạnh đạo đức nội hóa
để ràng buộc ḿnh,
nhào nặn nên nhân
cách cho ḿnh, bằng
đạo “nội thánh ngoại
vương” của “tu thân,
tề gia, trị quốc,
b́nh thiên hạ”, bằng
“vi thiên địa lập
tâm, vi sinh dân lập
mệnh”, “vi vương giả
sư”, dùng Nho học để
giáo hóa thiên hạ.
Hai, trí thức Phương
Tây thời cận đại là
sản phẩm của chủ
nghĩa tư bản, họ lấy
“xă hội thị dân” làm
môi trường sinh tồn,
có thể dựa vào tri
thức và kĩ năng của
ḿnh để t́m chỗ đứng
trong đời, làm nghề
tự do, mưu sinh độc
lập, được tương đối
tự do bay bổng trong
một môi trường như
vậy th́ sẽ không có
được bao nhiêu mối
liên hệ tất yếu nội
tại với thể chế cùng
giai cấp thống trị
chiếm địa vị chi
phối.
“Sĩ” của Trung Quốc
cổ đại th́ lệ thuộc
và phục vụ, theo
tính chế độ, cho thể
chế hiện tồn, họ vừa
là sản phẩm của thể
chế hiện tồn lại vừa
tạo ra đồng thời bảo
vệ thể chế ấy, hơn
nữa chỉ có làm một
thành viên hoặc quân
hậu bị của giai cấp
thống trị th́ mới có
giá trị để tồn tại.
“Học nhi ưu tắc sĩ”
chính là biểu trưng
điển h́nh của tính
lệ thuộc này.
Dù “sĩ” của Trung
Quốc cũng coi trọng
“hồng nghị”, coi
trọng “dĩ thiên hạ
vi kỉ nhiệm”, nhưng
cũng chỉ khi ở vào
thuận cảnh th́ mới
thể hiện được tinh
thần tiến thủ tích
cực của Nho gia, c̣n
một khi đă bị rơi
vào nghịch cảnh, th́
lại chuyển hướng Lăo
Trang, lui về điền
viên, tức điều gọi
là “Nho Đạo hỗ bổ”.
III. Trong đời
sống hiện thực, trí
thức trên thực tế
chỉ những người nào
Căn cứ theo các đặc
tính của trí thức,
người trí thức điển
h́nh bao gồm nhà
triết học, nhà khoa
học, nhà văn, nghệ
sĩ, nhạc sĩ…
Ở đây, trí thức
không phải là người
lao động trí óc được
hiểu theo cách thông
thường, mà là chỉ
một bộ phận người
quan tâm đến các giá
trị văn hóa của nhân
loại, có ư thức
trách nhiệm đối với
xă hội nằm trong số
người lao động trí
óc, về đại thể tương
đương với “nhà tư
tưởng”.
Nếu một nhà khoa học
kiệt xuất vắt kiệt
cuộc đời ḿnh, không
từ gian khổ để phát
minh ra bom nguyên
tử, điểm xuyết thêm
một nội dung quan
trọng cho văn hóa
nhân loại, song
trong quá tŕnh phát
minh lại không hề
t́m hiểu xem hậu quả
có thể đem lại của
bom nguyên tử là ǵ,
th́ nhà khoa học như
thế tuy là nhà sáng
chế, nhưng lại không
thuộc về trí thức
điển h́nh.
Do sự phân công xă
hội, chức năng xă
hội của mọi người
ngày càng đi vào
chuyên sâu hơn,
khiến cho mối quan
hệ giữa con người
với xă hội có chiều
hướng lấy mối quan
hệ nghề nghiệp đơn
thuần làm cốt lơi,
sự phát triển của
khoa học kĩ thuật đă
đem lại tính chuyên
biệt hóa ngành nghề.
Chúng ta có được
những chuyên gia lăo
luyện, họ có thể
mang lại lối sống
tiện nghi hơn, đời
sống vật chất thịnh
vượng hơn cho mọi
người, nhưng có thể
nhận thức xă hội của
họ lại nông cạn, sự
hiểu biết về sinh
mệnh có thể c̣n đơn
thuần; điều mà họ
quan tâm là làm sao
để phát huy được tài
năng của ḿnh vào
chuyên môn, và
thường xem nhẹ nội
dung văn hóa của
những thứ họ sáng
tạo ra.
V́ thế, một nhà khoa
học hoặc một học giả
không nhất thiết là
trí thức, trừ phi
anh ta quan tâm đến
những vấn đề lớn
liên quan đến xă hội
và đến cả nhân loại
(như chiến tranh,
nghèo đói, phát
triển bền vững…);
một nhà viết tiểu
thuyết hoặc đạo diễn
điện ảnh cũng không
nhất thiết là trí
thức, trừ phi những
thứ anh ta viết ra,
đạo diễn không đơn
thuần là mang tính
giải trí, mà hoặc mờ
hoặc tỏ có đề cập
đến những vấn đề xă
hội đă tương đối sâu
rộng.
Đồng thời, trí thức
có một hàm nghĩa
riêng biệt được xem
là giới thuyết căn
bản, đó là trí thức
là một nhà phê phán
và là người phát
ngôn có quan tâm đến
xă hội và thời đại
mà ḿnh đang ở vào.
Nhưng trong đời sống
hiện thực, loại trí
thức điển h́nh này
rút cục chỉ là một
thiểu số cực ít, trí
thức như chúng ta
thường nói không
phải chỉ h́nh ảnh
của loại trí thức lí
tưởng hóa này.
Trong tiếng Hán hiện
đại, người ta thường
giải thích trí thức
là “người lao động
trí óc có vốn kiến
thức văn hóa khoa
học nhất định.
Như người làm công
tác khoa học kỹ
thuật, người làm
công tác nghệ thuật,
giáo viên, bác sĩ…”
Theo mục “Trí thức”
trong “Giản minh
triết học từ điển”
do Rosenthal và
Eugene chủ biên, trí
thức là “tầng lớp xă
hội được cấu thành
bởi những người lao
động trí óc”. “Kĩ
sư, công tŕnh sư
cùng đại diện của
các nhân viên kĩ
thuật khác, bác sĩ,
luật sư, người làm
công tác nghệ thuật,
giáo viên, người làm
công tác khoa học và
phần lớn công chức
đều thuộc về tầng
lớp xă hội này”.
Trong các thao tác
cụ thể, Trung Quốc
lâu nay vẫn xếp
những người có tŕnh
độ trung học trở lên
và làm lao động trí
óc vào loại trí thức.
Trong các công việc
thực tế có liên quan
đến trí thức, khái
niệm được sử dụng ở
các bộ phận không
giống nhau, bộ phận
tổ chức gọi là “cán
bộ khoa học kĩ
thuật”, bộ phận nhân
sự gọi là “nhân
tài”.
Việc phân chia ranh
giới cho khái niệm ở
các bộ phận cũng
thường là xác định
dựa theo phạm vi
công tác của ḿnh,
chẳng hạn Vụ Công
tác mặt trận giới
định đối tượng làm
công việc loại trí
thức của ḿnh là trí
thức ngoài Đảng có
tính đại diện, có
tác động ảnh hưởng.
Có một điểm cần phải
làm rơ, không phải
cứ những người đă
qua học hành nhất
định, có kiến thức
chuyên môn, làm lao
động trí óc th́ đều
là trí thức.
Chẳng hạn, ở Trung
Quốc, công chức nhà
nước không thuộc về
phạm trù trí thức.
Công chức nhà nước
là cán bộ chính đảng
như thường nói.
Do việc thực hiện
tri thức hóa, chuyên
môn hóa đă được tiến
hành từ Hội nghị
toàn thể Trung ương
của Đảng cộng sản
Trung Quốc lần thứ
11 khóa 3 mà một bộ
phận tương đối lớn
trong đội ngũ này
hiện đă có tŕnh độ
đại học chuyên ngành
trở lên, số thạc sĩ,
tiến sĩ cũng không
phải là ít.
Nếu chỉ xét ở góc độ
bối cảnh học hành và
tŕnh độ kiến thức
chuyên môn, th́ rơ
ràng họ chẳng khác
ǵ mấy với trí thức,
hơn nữa nhiều người
vốn lại là trí thức.
Song, trí thức mà
chúng ta nói đến có
một đặc tính quan
trọng, đó là làm
công tác chuyên môn
kĩ thuật, tức nội
dung cốt lơi trong
công việc của trí
thức là sáng tạo,
t́m hiểu, truyền bá
hoặc vận dụng tri
thức.
Công chức nhà nước
tuy trong công việc
cũng phải vận dụng
các loại kiến thức
chuyên môn, nhưng họ
chủ yếu vẫn là quản
lí xă hội, có sự
khác nhau căn bản về
nội dung và tính
chất với công việc
của trí thức.
Mặt khác, trí thức
của Trung Quốc với
tư cách là đối tượng
chính sách mà được
xếp là tầng lớp xă
hội đặc thù.
Như vậy có thể thấy,
công chức là người
chế định và người
thực hiện chính
sách, bản thân họ dĩ
nhiên không thể trở
thành đối tượng của
chính sách.
Hiện nay, trong công
tác tổ chức cán bộ
quản lí nhân sự của
Trung Quốc đă xếp
công chức và nhân
viên chuyên môn kĩ
thuật vào loại quản
lí.
V́ thế, nếu xét theo
t́nh h́nh của Trung
Quốc hiện nay, th́
tất cả những cán bộ
được xếp vào loại
công chức hoặc được
quản lí theo kiểu
công chức trong các
cơ quan chính đảng,
bất luận tŕnh độ
cao thấp, và cũng
bất luận trong công
việc phải động chạm
đến bao nhiêu kiến
thức chuyên môn, đều
không nằm trong phạm
vi trí thức.
Nguồn: zhidao baidu
-----------------------------------------------------------------------
Nguyên văn: 什么是知识分子?
关于知识分子的定义,国外的主流看法是,知识分子是受过专门训练,掌握专门知识,以知识为谋生手段,以脑力劳动为职业,具有强烈的社会责任感的群
体,是国外通称“中产阶级”的主体。目前,国内学术界一般认为,知识分子是具有较高文化水平的,主要以创造、积累、传播、管理及应用科学文化知识为职业的
脑力劳动者,分布在科学研究、教育、工程技术、文化艺术、医疗卫生等领域,是国内通称“中等收入阶层”的主体。知识分子作为一个政治性的概念和一个相对独
立的社会阶层将长期存在,最终将随着生产力的高度发展以及工农之间、城乡之间、脑力劳动与体力劳动之间差别的消失而消失。
1)知识分子是中国社会中四大劳动者之一:工人、农民、士兵、知识分子,即知识分子是脑力劳动者、专业技术劳动者。如:教师、医生、工程师和科学家都是典型的知识分子。
2)知识分子是古代读书人,或古代“士”的现代延续。古代读书人的抱负是要以天下为己任,为国(帝)分忧,为民请愿,并且皇帝也确实会礼遇和尊重他们。从这个角度,现代中国社会已无知识分子。
3)现代社会仍然有喜欢以知识分子自居的人,或以知识分子为敬语的习惯,一般指学历较高、读书较多的人。
4)知识分子的别名是臭老九,反映在元、文革及以后时期知识分子政治和经济地位的低下。
知识分子条目补充
知识分子是一个历史的文化的范畴。作用一个社会阶层,它是在人类发展的一定历史阶段和一定的文化条件下产生的。在不同历史时期和文化背景下,人们对
知识分子的理解和界说颇为不同。在我国特定的历史文化背景和政治语境中,知识分子又是中国共产党的特殊政策的对象,其中的党外人士还是统一战线工作的对
象,除了一般理论上的界说外,还有特定的操作性界定。
厘清“知识分子”这个概念,可以从三个不同层面入手:第一,“知识分子”这个词指称的对象是什么?第二,典型的知识分子具有那些基本特征?第三,在现实生活中,知识分子实际上包括那些人?
一、“知识分子”这个词指称的对象是什么?
不少中国学者认为“知识分子”这个词是西文的译语。台湾大学社会系的叶启政教授对此有比较详尽的讨论。按照叶启政的看法,“知识分子”这个概念来自
西方。欧洲有关知识分子的概念有两个,就现行较常用的英文来说,一个是intelligentsia,
另一个是intellectual。这两个词分属东欧和西欧,含有不同的历史意义。intelligentsia来自俄国,1860年由作家波波里金
(Boborykin)提出,专指19世纪30到40年代把德国哲学引进俄国的一小圈人物。当时的沙皇俄国相当落后,留学生带回西欧社会思想及生活方式,
不满当时俄国的状况,或者满怀乌托邦的理想高谈阔论并模仿西欧上流社会的生活方式,或者着手实际的社会改革,他们当中后来产生出不同的思想群体,如民粹主
义、马克思主义、自由主义、新康德主义等。另有学者认为,intelligentsia这个词源于波兰,1844年即由李贝尔特(Karol
Libelt)使用。当时的波兰有一个文化上同质性很高的社会阶层,他们的心理特征、生活方式、社会地位、价值体系都独具特色。这个阶层是拥有土地的城市
贵族,与正在兴起的中产阶级有别,为了维持其独具特色的生活方式,设立了一套自己的教育体系。在此体系中,学生学习各方面的知识,突出培养强烈的领导意识
与社会责任。由此环境培养出来的人非常重视自己的学历并以此为荣。后来这种贵族式的精神为波兰受高等教育的人所继承,他们勇于批判社会,以国家大事为己
任。当波兰被列强分割时,这批人成为救国和反抗统治者的主要力量。因此,从intelligentsia这个词的历史含义来看,知识分子是一群受过相当教
育、对现状持批判态度和反抗精神的人,他们在社会中形成一个独特的阶层。这个阶层及其传统特性在十月革命后已经逐步瓦解消失。苏联时代以及在十月革命影响
下先后发生无产阶级革命的社会主义国家,都把知识分子定义为从事脑力劳动的专业人才,不再指具有强烈社会意识及批判态度的特殊阶层。西欧“知识分子”一词
的来源与东欧不同。Intellectual来自法国,起源于1898年的德雷弗斯(Dreyfus)案件。左拉在1898年1月13日以《我控诉!》为
题给总统写了一封公开信,呼吁重审德雷弗斯被诬案。第二天,这封公开信在《曙光》报上刊出,主编克雷孟梭用“知识分子宣言”(Manifeste
des intellectuels)几个字来形容它。此后,只要一提intellectuels,人们就理解为主张或同情为德雷弗斯平反的作家、教授、新闻记者
们,他们对时政和时局多所指陈訾议,是政治上激进色彩很浓的人。因此,法文中的intellectuels专指一群在科学或学术上杰出的作家、教授及艺术
家,他们批判政治,成为当时社会意识的中心。这种传统渊源于法国大革命后一批受过教育的人。他们反抗当时社会既有的标准及措施,谈论、鼓吹实证哲学,具有
相当浓厚的革命气息。这些人大都不在学术界,而是长年逗留在咖啡馆中高谈阔论,带有波西米亚圣徒(Messianic
Bohemians)式的精神,以天下为己任。就此传统来看,intellectual没有社会阶层的含义,而注重个人心态及其在社会上所扮演的角色。由
于这两个词的历史含义有所不同,因而在现代英语中通常intellectual泛指“知识分子”,而intelligentsia则专指“知识阶层”。
在中国古代,与近代西方“知识分子”涵义相近的概念是“士”或“士大夫”。“士”在中国传统社会结构中占据着中心位置,位居士、农、工、商“四民之
首”。荀子有“儒者在本朝则美政,在下位则美俗”的说法,道出了“士”的政治和社会文化功能。中国历史上,自秦汉以降,在比较安定的时期,政治秩序和文化
秩序的维持都落在“士”的身上;在比较黑暗或混乱的时期,“士”也往往负起政治批评或社会批评的任务。通过汉代的乡举里选和隋唐以降的科举制度,“士”可
以通过考试进入官僚集团,即所谓“学而优则仕”,整个官僚系统大体上是由“士”来操纵的。通过宗族、学校、乡约、会馆等社会组织,“士”成为民间社会的领
导阶层。因此,在一般社会心理中,“士”是“读书明理”的人;他们所受的道德和知识训练(以儒家经典为主)使他们成为唯一有资格治理国家和领导社会的人
选。
余英时指出,中国知识分子来自一个与西方截然不同的文化源头。从孔子开始,知识分子就以“道”自任,而这个“道”是中国所特有的。先秦三大学派——
儒、墨、道——尽管各道其所道,但他们在代表“道”说话这一点上却并无例外。西方近代知识分子基本上是脱离中古宗教的“俗世”(Secular)人物。他
们尽管多少都有宗教背景,但是他们批评社会则不必根据宗教信仰或神学理论。相反地,他们的凭藉往往只是个人的“理性”或“知识良心”。另一方面,西方中古
的“道”寄托在基督教。这是上帝所启示的“道”;其代理人是教会僧侣与神学家——和世俗政治权威并立的精神权威。因此,近代西方知识分子不肯自承源于这个
宗教传统,因为他们已不复遵守“凯撒之事归之凯撒,上帝之事归之上帝”的原则,他们要管的正是凯撒的事。中国古代知识分子直接承三代的传统而起。春秋战国
是一个“礼崩乐坏”的时代;礼乐已不再出自天子,而出自诸侯,故孔子斥之为“天下无道”。统治阶级既不能承担“道”,“道”的担子便落到了真正了解“礼
意”的“士”的身上。在这个意义上,孔子可以说是中国史上最先出现的第一位知识分子。孔子以前的“士”只是古代贵族社会中的一个固定阶层,孔子以后,士的
处境开始变化。孔子首先便对“士”重新加以界说。他说:“士志于道,而耻恶衣恶食者,未足与议也。”(《论语》“里仁”)又说:“士而怀居,不足以为士
矣。”(同上“宪问”)这种新的“士”就是我们所说的知识分子的原型。上古的“道”具有宗教性(“天道”)的成分,这个传统到了孔子手中却并没有走上“天
道”的方向而转入了“人道”的领域。孔子以后,百家竞起,虽所持之“道”不同,但大都以政治社会秩序的重建为最后归宿。所以,中国知识分子的历史性格受到
他们所承继的文化传统的规定:就要管凯撒的事这一点来说,接近西方近代的知识分子;但是就代表“道”而言,则又接近西方中古的僧侣和神学家。
中国近代意义上的知识分子,是鸦片战争后,在西方文明的影响下,伴随着废科举、兴新学而出现的,是在中国从封建社会向半殖民地半封建社会转变过程
中,从封建士大夫中脱胎而来的。他们或传播新思想、新知识,或从事近代学术研究,或创办近代企业,或致力于现代化建设。严复,梁启超,张謇,詹天佑等人可
以算作中国第一代知识分子的代表。
今天我们在使用“知识分子”这个词时,它的涵义早已远远超出中国古代的“士”,与西方的用法也不完全相同,通常是指受过一定程度的专门教育、具有专业知识、从事专业技术工作并具有相应职称的脑力劳动者。
二、典型的知识分子具有那些基本特征
根据马克思的唯物史观,知识分子是社会历史发展到一定阶段的产物。恩格斯指出:“当人的劳动生产率还非常低,除了必需的生活资料只能提供微少的剩余
的时候,生产力的提高、交换的扩大、国家和法律的发展、艺术和科学的创立,都只有通过更大的分工才有可能,这种分工的基础是,从事单纯体力劳动的群众同管
理劳动、经营商业和掌管国事以及后来从事艺术和科学的少数特权分子之间的大分工。”这就是说,知识分子是社会分工即脑力劳动和体力劳动分离的产物。由此而
论,知识分子的基本特征就是“脑力劳动者”。
当代社会学大师帕森斯(T.Parsons)从结构功能主义出发,揭示了知识分子产生的文化根源。按帕森斯的看法,知识分子的产生有赖于两个条件:
一是文字的出现,一是“哲学的突破”。所谓哲学的突破是指人对赖以生存的自然环境、宇宙世界有了一个概念化的掌握,即意识到人之自我与世界的关系。人不只
是一个生物性的存在,他除了生物性的需求之外,还有心理性的需求,即对于生命意义的追求,对终极价值的追求,同宇宙世界接触的追求。一言以蔽之,他有一种
了解“为什么”的需求。为了满足这种需求,出现了文化事务专家即某种意义上的知识分子。知识分子最主要的功能就是思索解答这些问题。这就是知识分子的起源
几乎都是教士、先知、哲学家的原因。因此,知识分子的功能主要是文化性的,他们所从事的是有关价值、观念、符号等文化性的活动,为社会建立一个文化性的意
义系统。在社会发展的早期,文字是极少数人能够掌握的象征符号,因此具有“神圣的”性质。在一个文字被社会大众崇拜的社会里,知识分子才能成为一个阶层,
一个身份集团。从这个角度看,知识分子应当是“文化事务专家”,而不仅仅是一般的“脑力劳动者”,或者说知识分子是“脑力劳动者”中关心并从事创造、阐
发、传播文化价值的那一部分人。
知识分子的功能既然在解释外在世界,自然总是倾向怀疑与批判,他的想法和看法与社会现状总有距离。没有一个现实社会是圆满的,因此知识分子总是对社
会现状不满足,总是批判他身处其中的社会,总是企图按照理性和自己的理想改造或改良社会。这也许是古今中外最典型的知识分子的形象。由于这个形象,他们被
浪漫地认同为社会的良心。马克思和恩格斯可算是典型代表,他们创立了科学社会主义学说,揭示了资本主义社会发生、发展以至最终灭亡的客观规律,号召无产阶
级充当资本主义的掘墓人,敲响旧制度的丧钟。马克思和恩格斯被尊奉为“无产阶级革命导师”,但是他们并非来自无产阶级,其真正的社会成分是知识分子。就此
而言,知识分子又是社会的自我批判力量及大众的代言人。
由于知识分子总是批判他身处的社会,因此,他与政治权威总是具有先天性的紧张关系。一方面知识分子要与政治权威保持距离,以保持他特殊的批判者的身份;另一方面政治权威也不喜欢知识分子,害怕自己的权威受到怀疑和批判。就这点说,知识分子又具有同政治权威疏离的倾向。
因为知识分子仅仅掌握知识而不占有生产资料,所以在社会生产关系体系中并不占有独立的地位,不是一个独立的阶级,在某些社会的特定历史时期,甚至也
不同任何一个社会阶级或阶层充分整合。毛泽东曾把半殖民地半封建中国的知识分子比作毛,认为他们附在帝国主义者、封建阶级、官僚资产阶级、民族资产阶级和
小资产阶级五张皮上,民主革命革掉了前三张皮,社会主义革命革掉了后两张皮,“皮之不存,毛将焉附”,结果只能附在无产阶级身上。知识社会学的创始人曼海
姆(Karl
Mannheim)则认为,知识分子的一个基本特征是自由飘游、无所依附(free-floating)。从这里看,知识分子本身不是一个独立的社会阶级
和阶层,也不与其他社会阶级或阶层充分整合,而是一个社会中相对自由飘游的集团。
大体说来,在现代西方语境中,知识分子有三个基本特征:第一,受过专门训练,掌握专门知识,懂得使用象征符号来解释宇宙人生;第二,以知识为谋生手
段,以脑力劳动为职业,形成一个与社会中其他阶级不充分整合的、不依附于现存体制的、“自由飘游”的、相对独立的社会阶层;第三,具有强烈的社会责任意
识,对时政采取批判态度,对现状往往不满。对于第三个特征,以色列的康菲诺(Michael
Confino)综合各家的意见,归结为以下的五点:①对于公共利益的一切问题——包括社会、经济、文化、政治各方面的问题——都抱有深切的关怀;②这个
阶层常自觉有一种罪恶感,因此认为国家之事以及上述各种问题的解决,都是他们的个人责任;③倾向于把一切政治、社会问题看作道德问题;④无论在思想上或生
活上,这个阶层的人都觉得他们有义务对一切问题找出最后的逻辑的解答;⑤他们深信社会现状不合理,应当加以改变。
康菲诺综合出来的五点,大体和中国知识分子的传统相符,特别在责任感和关心世事方面。从曾参的“仁以为己任”到范仲淹的“以天下为己任”,都显示出
中国知识分子对道德、政治、社会各方面的问题具有深刻的责任感。谈到关心世事,更有到明末东林党顾宪成的一副对联的下句为证:“家事、国事、天下事、事事
关心。”直至新中国成立后,这种“关心”的传统精神仍然跃动在中国知识分子的生命之中。邓拓在《燕山夜话》中便写过一篇“事事关心”的杂文。他在一首名为
“歌唱太湖”的诗中更写道:“东林讲学继龟山,事事关心天地间。莫谓书生空议论,头颅掷处血斑斑。”这是中国知识分子的传统延绵不绝的明证。
代表“社会的良心”的知识分子无论在西方社会或中国社会都是存在的。但是从历史的角度来观察,这个传统在西方是一个现代的现象。一般地说,其形成不
早于十七、十八世纪。西欧启蒙运动中的“思想家”(philosopher)大概可代表西方知识分子的原型;俄国的intellegentsia的远源也
只能上溯到18世纪。与西方相对照,中国知识分子的传统可算是源远流长,至少要从春秋战国时代算起,足足有2000多年的历史,而且几乎可以说是没有中断
过。
中国自古以来一直存在一群为数不多、基本上是处理文字的人,即通常所说的“读书人”或“士”,他们在儒学的熏陶下具有一套传统。根据钱穆的意见,早
期的“士”由习礼而至批评当时贵族的一切非礼,孔子是典型的代表。诸子百家可说是第一次最明显地表现出“士”在思想上对社会对贵族的不满。科举制度建立以
后,中国的“士”在制度化的晋升渠道引诱与君权至上的政治体制高压下,显得十分软弱无力。在这种情况下,“士”的特性在于以人文精神为指导,以内发式的个
人道德成就为基础,讲求个人修养,以成就普遍的道德伦理规范,进而推演到政治设施,而不以成就知识为主题。因此,中国古代的“士”在精神追求上始终忘不了
政治,即使是老子和庄子,著书讲学也对政治抱有很大的兴趣。
大致上讲,中国古代的“士”与西方近代知识分子有二点基本差异:第一,中国的“士”不象西方知识分子那样追求知识,而是以儒家思想为核心,注重伦理
道德,追求以内化的道德力量来约束自己、塑造自己的人格,通过“修身、齐家、治国、平天下”的“内圣外王”之道,“为天地立心,为生民立命”,“为王者
师”,以儒学教化天下。第二,西方近代知识分子资本主义的产物,他们以“市民社会”为其生存环境,可以依靠自己的知识和技能在民间立足,从事自由职业,独
立谋生,在这种环境中相对自由漂游,与现存占支配地位的体制及统治阶级没有多少内在的必然联系;中国古代的“士”则制度性地依附于、服务于现存体制,他们
既是现存体制的产物又造就并维护了现存体制,并且只有作为统治阶级的一员或者后备军才有存在的价值,“学而优则仕”正是这种依附性的典型表征。尽管中国的
“士”也讲求“弘毅”,讲求“以天下为己任”,但只是当处于顺境时,才表现出儒家的积极进取精神,一旦处于逆境,则转向老庄,退隐田园,即所谓“儒道互
补”。
三、在现实生活中,知识分子实际上指的是哪些人
根据知识分子的基本特征,典型的的知识分子可包含哲学家、科学家、作家、艺术家、音乐家等等。在这里,知识分子并不是通常所理解的脑力劳动者,而是
指脑力劳动者中关心人类文化价值、具有社会责任意识的那部分人,大体上相当于“思想家”。如果一个杰出的科学家竭其一生,不辞辛劳的发明了原子弹,为人类
文化添加了重要的内容,但是他却没有在发明过程中,探究原子弹可能带来的后果,那么,这样的科学家是创造者,但不属于典型的知识分子。由于社会分工,人们
的社会功能日益细化,使得人与社会的关系趋向以单纯的职业关系为核心,科技的发展带来了职业的专业化。我们有的是学有专长的专家,他们可以为社会大众带来
更便利的生活方式、更丰盛的物质生活,但他们对社会的认识可能是浅薄的,对生命的了解可能是单纯的;他们关心的是如何把自己的才干发挥在专业上,往往忽视
了他们所创造出来的文化内容。因此,一个科学家或学者不一定就是知识分子,除非他关注事关社会乃至整个人类的大问题(如战争、贫穷、可持续发展等);一个
小说家或电影导演也不一定就是知识分子,除非他写作、导演的东西不纯为感官娱乐而或明或暗地触及到较为广泛深入的社会问题。与此相关,知识分子有一个被认
为是基本界说的特殊涵义,即知识分子是一个关心他个人身处的社会及时代的批判者与代言人。
但是在现实生活中,这种典型的知识分子毕竟只是极少数,通常我们所说的知识分子并不是指这种理想化的知识分子形象。在现代汉语中,通常把知识分子解
释为“有一定文化科学知识的脑力劳动者。如科技工作者、文艺工作者、教师、医生等”。
照罗森塔尔和尤金主编的《简明哲学辞典》“知识分子”条目,知识分子是“由脑力劳动者所构成的社会阶层。”“工程师、技师及其他技术人员的代表、医生、律
师、艺术工作者、教师、科学工作者和大部分职员都属于这一社会阶层。”在具体操作中,我国长期以来是把具有中专以上学历并从事脑力劳动的人划定为知识分
子。在有关知识分子的实际工作中,各部门使用的概念不一样,组织部称“科技干部”,人事部称“人才”。各部门对概念的界定也往往根据自己的工作范围确定,
例如统战部就把自己知识分子工作的对象界定为有代表性、有影响的党外知识分子。
有一点需要明确,并非凡是受过一定教育、具有专业知识、从事脑力劳动人都是知识分子。例如,在我国,国家公务员就不属于知识分子的范畴。国家公务员
即通常所说的党政干部。由于中共十一届三中全会以来实行干部知识化、专业化,这支队伍中相当多的一部分人现在已经具有大专以上的学历,其中硕士、博士也不
在少数。如果仅从他们的教育背景和掌握的专业知识水平来看,无疑同知识分子没有什么差别,而且许多人原来就是知识分子。但是,我们所说的知识分子有一个重
要特征,即从事专业技术工作,就是说,知识分子的工作是以创造、阐发、传播或者运用知识为核心内容的。国家公务员虽然在工作中也要运用各种专业知识,但他
们主要是管理社会,同知识分子在工作的内容和性质上有根本的区别。另一方面,我国的知识分子主要是作为政策对象而被界定的特殊社会阶层。就此而论,国家公
务员是政策的制定者和执行者,他们本身自然不能成为政策的对象。目前,我国在干部组织人事管理中,已经将公务员和专业技术人员分类管理。因此,就我国目前
的情况而言,凡是党政机关纳入公务员序列或参照公务员来管理的干部,无论其具有多高的学历,也无论其在工作中涉及多少专业知识,都不在知识分子范围之内。