Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
Khuấy động dậy sóng Biển Đông
Biển Đông là một trong những vùng biển chiến lược trên thế giới.
Một phần ba tải trọng hàng hải của thế giới lưu chuyển qua vùng biển này, khiến nó trở thành hải lộ bận rộn thứ nh́ trên thế giới. Nhật Bản và những quốc gia lân bang Đông Nam Á đều phụ thuộc vào sự lưu chuyển hàng hóa ngang qua vùng biển này. Có khoảng 500 triệu nhân mạng phụ thuộc vào vùng biển này để t́m nguồn lương thực và phương kế mưu sinh. Bên cạnh là một vùng biển có ngư trường phong phú, nó c̣n được cho là có nguồn trữ lượng dầu hỏa và khí thiên nhiên khổng lồ ở dưới đáy.
Chính những nguồn tài nguyên phong phú này đă phần nào gây nên những tranh chấp giành giật chủ quyền đối với những hải đảo nằm rải rác trên Biển Đông. Sáu quốc gia – Brunei, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philipines và Việt Nam – đều đă có tuyên bố phần sở hữu. Trung Quốc và Việt Nam đă nhiều lần đụng độ nhau để giành chủ quyền quần đảo Trường Sa; trận chiến năm 1988 đă cướp đi hơn 70 sinh mạng của Việt Nam. Những bên đối địch đă cho xây dựng nhiều cơ sở trên những khu vực họ kiểm soát – những “cḥi lá của ngư dân” trông rất giống những cơ sở quân sự. Nhu cầu bảo vệ những nơi chiếm giữ đă thúc đẩy h́nh thành những chính sách quốc pḥng bảo vệ thành quả thu được giữa các quốc gia tranh chấp và rất dễ dàng nhận thấy rơ nó giống như một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực.
Những bên đối địch lên tiếng tuyên bố những tranh chấp của ḿnh đă gần hai thập kỷ nay. Vào năm 2002, Trung Quốc và những thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đă kư kết một bản Tuyên bố về nguyên tắc ứng xử cho vấn đề Biển Đông, ràng buộc các bên kư kết không nên có những hành động làm t́nh h́nh thêm căng thẳng và nên t́m cách giải quyết trong ḥa b́nh. Thật đáng lưu ư là, thỏa thuận năm 2002 không phải là bản quy tắc hành xử, tuy vậy, bản tài liệu này kêu gọi các bên kư kết nên cố gắng chuyển nó thành bản nguyên tắc ứng xử. Giữa “bản tuyên bố” và bản nguyên tắc ứng xử tồn tại một lỗ hổng; do vậy chính phủ mỗi bên đă nỗ lực bằng nhiều cách khác nhau đưa ra tuyên bố chủ quyền riêng của ḿnh đối với những khu vực biển đảo khác nhau.
Trong khi đă có nhiều những tuyên bố chủ quyền và thậm chí một số lại chồng lấp lên nhau, Trung Quốc vẫn muốn đàm phán song phương hơn là đa phương. Điều đó thật dễ hiểu: với cách dàn xếp song phương, Trung Quốc dễ dàng chế ngự đối tác đàm phán của ḿnh. Trong khi các quốc gia ASEAN thấy rơ nhu cầu cần kết hợp với nhau thành như một để làm đối trọng đối với Trung Quốc, cám dỗ muốn tách ra riêng để đánh quả đơn lẽ có lợi hơn đă thắng thế áp đảo - và trên thực tế đă chứng tỏ thất bại.
Hoa Kỳ đă duy tŕ thái độ không “nhúng tay vào” suốt một thời gian khá dài, và chỉ tái xác định quyền tự do thông thương của ḿnh trong vùng mà không ngă về bên nào giữa các bên tranh chấp (mặc dù thực tế Hoa Kỳ có Philipines là đồng minh có nghĩa là nếu lănh thổ của Philipines bị xâm phạm hay chiếm đóng th́ Hoa Kỳ sẽ can thiệp). Lập trường có vẻ như không can thiệp đó thực sự chấm dứt khi bà Ngoại trưởng Hillary Clinton nhắc lại rằng “Hoa Kỳ có quyền lợi quốc gia tự do thông thương, đi vào những vùng hải phận chung của châu Á và tôn trọng luật pháp quốc tế tại vùng biển Biển Đông”. Gọi đích danh việc t́m giải pháp giải quyết tranh chấp lănh thổ trong vùng là “ưu tiên ngoại giao hàng đầu,” Bà Clinton lên tiếng đề nghị trợ giúp t́m giải pháp cho vấn đề tranh chấp mà đă tồn tại một thời gian khá dài.
Có nhiều cách lư giải cho sự thay đổi trong quan điểm của Hoa Kỳ. Trung Quốc đă từ lâu tuyên bố chủ quyền toàn bộ vùng biển này: Nhiều bản đồ Trung Quốc chỉ định vùng biển này như cái “ao làng” của Trung Quốc. Trung Quốc đă tỏ ra hung hăn trong nỗ lực muốn kiểm soát toàn bộ khu vực, khuấy rối những tàu khảo sát của Hoa Kỳ hoạt động trên vùng biển thuộc hải phận quốc tế. Từ đầu năm nay, Trung Quốc nhiều lần khẳng định Biển Đông là một trong số những vùng “lợi ích cố lơi” của họ; và điều này đă thúc đẩy Hoa Kỳ tái khẳng định quyền lợi riêng của ḿnh. Những công ty Hoa Kỳ được báo cáo là bị Bắc Kinh đe dọa v́ hợp tác khai thác khoáng sản với đối thủ của nó trong khu vực.
Quan điểm
mới này là một thắng lợi đối với Việt Nam, một trong
những quốc gia đứng mũi chống lại Trung Quốc. Mười quốc
gia tham gia diễn đàn ARF khác cũng lên tiếng ủng hộ
những phát biểu của bà Ngoại trưởng Hillary Clinton.
Sự kiện này
đă khiến Trung Quốc nổi giận. Ngoại trưởng Trung Quốc
ông Dương Khiết Tŕ gọi những phát biểu của bà Clinton
là nhằm “tấn công” chống Trung Quốc. Sự kiện 12 quốc gia
cùng có chung một lập trường chống lại Trung Quốc như
vậy đă góp sức tạo nên cái quan điểm của Bắc Kinh cho
rằng cuộc tấn công ngoại giao đó đă được dự tính trước.
Thái độ biện bach chống chế đó bộc lộ ra nhiều điều. Nếu Trung Quốc thực ḷng muốn giải quyết vụ tranh chấp này trên tinh thần ḥa b́nh và công minh, th́ nó nên hoan nghênh vai tṛ trung gian của quốc tế và sự trợ giúp từ một quốc gia như Hoa Kỳ, quốc gia không hưởng được lợi ích trực tiếp nào từ kết quả giải quyết tranh chấp. Nếu Washington bị xem là có ư đồ xấu, th́ những quốc gia tranh chấp nên rất thể hiện đồng thuận với một trọng tài trung lập nào đó mà có thể giúp ḿnh đạt được một giải pháp khả dĩ chấp nhận được cho tất cả các bên. Một thỏa thuận như thế sẽ củng cố luật pháp quốc tế liên quan đến tranh chấp chủ quyền lănh thổ, thiết dựng niềm tin giữa các bên tranh chấp và làm giảm căng thẳng. Có lẽ phải mất một thời gian dài để Trung Quốc có thể phô diễn niềm tin hữu hảo của ḿnh đối với các quốc gia lân bang. Quả thật rất khó lư giải được lư do tại sao Trung Quốc lại chống đối một giải pháp như thế.
Hồ Kim
Sơn
dịch
Nguồn: Japantimes