Fax: +493046795841Email: thongtinberlin@gmail.comTel. +4917678132650 www.thongtinberlin.de - www.thongtinberlin.net - www.dvtnradio.com - www.dvtnradio.de
|
ĐI T̀M ĐƯỜNG BAY ƯU VIỆT CỦA THI CA.
Thái Tú Hạp.
Bài nói chuyện với đề tài "Khái Quát Văn Học Ba Miền và Những Áng Thơ Tiêu Biểu" với các khóa sinh tham dự Khóa Huấn Luyện & Tu Nghiệp Sư Phạm Kỳ XXII - 2010 do Ban Đại Diện các Trung Tâm Việt Ngữ Nam California tổ chức tại Coastline Community College, Le-Jao Center, Westminster) vào thứ Bảy ngày 14-08-2010
Qua những nguồn tài liệu sưu tập tham khảo từ những quyển sách Thi Nhân Việt Nam của Hoài Chân Hoài Thanh_Thi Ca Việt Nam Hiện Đại của Trần Tuấn Kiệt-Tổng Quan Văn Học Miền Nam của nhà văn Vơ Phiến-Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến do Trần Hoài Thư chủ trương... Những bài viết của các nhà văn, nhà thơ, trên các tạp chí Văn học trong nước và hải ngoại. Tác Giả Việt Nam, sưu tập của Luân Hoán. Chúng ta chỉ tính từ thời điểm khi bài thơ T́nh Già của Phan Khôi được xem như một tuyên ngôn khai sinh thơ mới hiện đại Việt Nam xuất hiện đầu tiên trên Phụ Nữ Tân Văn Số 132 vào ngày 10 tháng 3 năm 1932_Saigon.
Trong khoảng thời gian gần nửa thế kỷ nếu tính từ năm 1932 đến năm 1975 căn cứ theo những nguồn tài liệu nêu trên chúng ta có thể ước tính số lượng thi sỹ có những bài thơ được tuyển chọn lên đến vài trăm người được đánh giá "trăm hoa đua nở" v́ thế với thời lượng quy định của ban tổ chức yêu cầu quả thật khó khăn để chọn một số bài thơ hay của ba miền đất nước thân yêu. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ cố gắng nêu lên vài nhà thơ tiêu biểu qua hai điều kiện đă được đăi lọc thử thách qua thời gian cũng như sự thẩm định yêu thích của đa số quần chúng một cách khách quan và tương đối. Trước khi bước vào sự việc thẩm định thế nào là một bài thơ hay? Và địa vị của thơ trong Văn Học Việt Nam. Chúng tôi xin đan cử một vài kinh nghiệm về thơ của nhà giáo Nguyễn Sỹ Tế: "Thơ là một ngành nghệ thuật ngôn ngữ khó khăn vào bậc nhất. Thơ dễ vào mà khó ra. Làm thơ thật là dễ, nhưng làm thơ cho hay lại là thật khó. Thơ là một siêu nghệ thuật về ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một cái thiên tài sáng tạo của một dân tộc. Ngôn ngữ của thi ca là một thứ ngôn ngữ siêu đẳng xôn xao âm hưởng và ấm áp sâu đậm sắc màu. Nắm được con ngựa thần bất kham chúng ta đă có điều kiện căn bản để trở thành một bài thơ hay rồi vậy!".
Trong tiến tŕnh văn học Việt Nam chưa bao giờ dân tộc lại sản sinh ra nhiều nhà thơ như trong thời điểm vài ba thập niên vừa qua cũng như hiện nay từ trong nước đến hải ngoại. Chúng ta bị ảnh hưởng sâu xa về phát biểu của Ngô Thời Nhậm: "Việt Nam đáng hănh diện là một nước thơ. Và mỗi người Việt nam là một thi sĩ...". Chỉ có thể đúng một phần qua nhận định ở lớp b́nh dân sáng tạo những gịng văn học mang tính nhân gian trong sinh hoạt của đời sống thường nhật. Hay v́ tâm lư muốn được người đời gọi ḿnh là thi sỹ. Chính từ những tư duy thiếu khiêm tốn nên rất khó đồng thuận hợp nhất tiêu chuẩn đi t́m đường bay tuyệt đỉnh của thi ca. Trong cuốn Thi Nhân Việt Nam của Hoài Chân_Hoài Thanh cũng chưa phải là một nhà phê b́nh hoàn hảo đáng tin cậy mặc dù hai ông được giới trí thức đánh giá nhiều ưu điểm giới thiệu trên 40 nhà thơ với mấy trăm bài thơ đính kèm. Tuy nhiên Hoài Chân_Hoài Thanh vẫn không thoát ra những thành kiến khắt khe đối với thi sĩ Đinh Hùng, Nguyễn Bính, Vũ Hân, một số nhà thơ khác và nhóm Xuân Thu Nhă Tập....mặc dù cho đến nay đă hơn nửa thế kỷ qua ở hải ngoại vẫn có nhiều người c̣n thuộc thơ Nguyễn Bính yêu thơ Đinh Hùng...Từ suy nghiệm này chúng tôi đề cập đến trường hợp vua Tự Đức sáng tác rất nhiều thi phẩm nhưng chỉ được nhân gian nhắc đến bài thơ "Khóc Bằng Phi" với hai câu cuối cùng: "Đập cổ kính ra t́m lấy bóng/Xếp tàn y lại để dành hơi...
Quá tuyệt vời và tôn vinh ông là một nhà thơ lẫy lừng trong thi đàn Việt Nam. Một trường hợp điển h́nh khác chúng tôi muốn đan cử đến bài thơ "Cáo Tật Thị Chúng" của thiền sư Măn Giác với hai câu cuối bài:
"Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/Đ́nh tiền tạc dạ nhất chi mai/... Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết.../Đêm qua sân trước một cành mai..."
Hai câu cuối đă vượt trội xuất sắc, mang tư tưởng nhân sinh quan hiện thực, tăng giá trị bài thơ và được thẩm định là một bài thơ hay vượt qua thời gian. Cũng như trường hợp chỉ mấy câu thơ của dũng tướng Lư Thường Kiệt trước quân nhà Tống phương Bắc cũng đủ nói lên ư chí của người quân tử nước Nam: "Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư/Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/Như Hà nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhử đẳng hành khan thủ bại hư....Sông Núi nước Nam vua Nam ở/Rành rành định phận tại sách Trời/Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.." đă trở thành một bài thơ tuyệt tác lưu truyền cả ngàn năm trong lịch sử. Những nhà phê b́nh thi ca chưa hẳn có một thần trí siêu việt dễ thấu triệt những ẩn ư sâu xa bài thơ của mỗi thi sĩ như sự nhạy cảm tuyệt vời giữa Bá Nha với Chung Tử Kỳ nên đôi khi cảm nhận bài thơ có thể lạc hướng về cái nh́n chủ quan. Qua tài liệu của Hoàng Duy Từ "Đường Thi Tuyển Dịch" chúng tôi khám phá câu chuyện lư thú về thi ca. Nhân vật tiêu biểu đại thi hào Tô Đông Pha đă dám cậy tài làm thơ sửa thơ Tể Tướng Vương An Thạch cũng là một nhà thơ lừng lẫy vào đời nhà Tống bên Trung Hoa. Có một ngày đẹp trời Tô Đông Pha ghé đến thư pḥng của Vương An Thạch nh́n lên vách thấy có hai câu thơ:
"Minh Nguyệt sơn đầu khiếu/Hoàng Khuyển ngọa hoa tâm"
Tô Đông Pha chê là vô lư bởi v́:
"Trăng sáng sao lại hót ở đầu núi?/Chó vàng sao lại nằm giữa ḷng hoa?"
nên lấy bút sửa lại:
"Minh nguyệt sơn đầu chiếu/Hoàng khuyển ngọa hoa âm"
với ư nghĩa: " Trăng chiếu ở đầu núi"/ "Chó vàng nằm dưới hoa".
Sửa xong Tô Đông Pha cảm thấy đắc ư và cảm nghĩ cho dù Vương An Thạch tuy là tể tướng nhưng chưa chắc tài làm thơ hơn ḿnh. Sau đó một thời gian Tô Đông Pha có tội với triều đ́nh nên bị đày ải đến nơi rừng thiêng nước độc. Một hôm vào mùa xuân dạo trong rừng nghe tiếng chim hót rất hay mới hỏi dân địa phương cho biết "Tiếng chim hót hay đó có tên là Minh Nguyệt và loài sâu chuyên t́m ăn ngụy hoa có tên là Hoàng Khuyển..." Tô Đông Pha giật ḿnh tỉnh ngộ và ân hận về sự thiếu hiểu biết và sự ngạo mạn lố bịch của ḿnh.
Xuyên qua sự kiện vừa dẫn chứng chúng ta nên suy ngẫm về sự thẩm định đánh giá một bài thơ hay có tính cách chủ quan không hiểu sâu nghĩa lư là một sự lầm lỡ đáng tiếc.
TIÊU CHUẨN VỀ MỘT BÀI THƠ HAY
Bởi vậy, chúng ta rất khó phân biệt để cùng đồng ư MỘT BÀI THƠ NHƯ THẾ NÀO CHO LÀ HAY và MỨC ĐỘ HAY CỦA MỘT BÀI THƠ? Chúng tôi xin trích dẫn qua một số nhà thơ, phát biểu chân thật về nguyên nhân sáng tạo nên những tác phẩm thi ca của họ. Đó cũng là ư niệm tốt để giúp cho chúng ta thẩm định giá trị một bài thơ hay.
1. Nhà thơ Nguyên Sa(Đă từ trần)
... Làm thơ, với tôi, bao giờ cũng cần có cảm hứng, có cảm hứng mới làm được bài thơ đắc ư, không có cảm hứng th́ chịu thua. Cảm hứng đưa tôi vào thơ, thời gian này, cũng như hơn bốn thập niên, luôn luôn đến từ sự xúc động chân thực. Có rung động thực và rung động giả, cho nên có cảm hứng thực vả cảm hứng giả. Lúc hai mươi tuổi, đam mê t́nh ái mang thơ lại cho tôi. Tôi nghĩ thơ t́nh thời học tṛ mà tôi nói chuyện suy tư về hữu thể và hư vô là xúc động giả, sâu xa giả, thơ làm dáng không phải thơ. Khi tuổi già đă tới, không c̣n đam mê t́nh ái, cánh cửa của tuổi đời sắp khép lại. Những xúc động của những ngày tháng đối diện với sự thật của kiếp người, một cuộc t́nh hồi tưởng lại, một cuộc t́nh mơ ước, giọt sương mai mong manh, cơn mưa đến muộn, buổi hoàng hôn nơi quê người, người bạn thâm niên bỏ xứ vĩnh viễn...là nguồn cảm hứng thật hôm nay của tôi.
(Trả lời nhà văn Nguyễn Anh Nam tạp chí Văn số 13 & 14, Xuân Mậu Dần 1998)
2. Nhà thơ Đỗ Quư Toàn(Hoa Kỳ)
Nếu phải xếp hạng thứ thơ nào tôi thích hơn, th́ tôi sẽ xếp theo thứ tự như sau:
1/Thơ hay tự nhiên là thứ nhất
2/Thơ hay và khéo cũng tốt
3/Thơ hay mà không khéo th́ dễ thương
4/Thơ khéo không thôi th́ hơi thường
5/Thơ khéo mà không hay xin miễn
Nói xếp hạng cho vui, chứ mỗi người sẽ nhận diện cái khéo và cái hay một cách khác nhau. Có những câu thơ nghe rất tự nhiên nhưng chỉ người làm thơ mới biết đă mất bao lần gọt giũa mới thành. Độc giả không cùng một kinh nghiệm thẩm mỹ, không được đào luyện trong các ḷ ngôn ngữ như nhau, th́ cách thưởng thức sẽ khác nhau. Có những lời tự nhiên thanh thoát ở đời này, sang đời khác lại có vẻ cầu kỳ, không thích hợp.
...
Tôi đề nghị chúng ta nên đọc thơ như thể ḿnh đang sáng tạo. Vừa đọc vừa mở ra một thế giới, trong đó lời và cảm thọ do lời gây ra được tự do phát triển. Ta đọc lại như đọc lần đầu, khám phá bài thơ một lần nữa để t́m cảm xúc mới.
(T́m Thơ Trong Tiếng Nói của Đỗ Quư Toàn)
3. Nhà Thơ Luân Hoán (Canada)
Thơ hay chính là thơ mới. Theo tôi nghĩ nên làm mới thi ca, nhưng làm mới như thế nào, ra sao th́ tôi đang dọ dẫm thí nghiệm, chưa đạt được kết quả nào. Điều cần thiết là phải làm cách nào để cho cái mới đó có hồn, có vía đàng hoàng, phổ biến được đón nhận rộng răi. Tuy nhiên kỹ thuật và h́nh thức là những điểm tất yếu phải có của một bài thơ. Nhưng nếu chú trọng quá đáng, có lẽ loăng bớt nội dung, đó là chưa kể nếu quá màu mè, bài thơ lại dễ biến ra một họa phẩm siêu thực...
(Trích Đặc San Quảng Đà năm 1999. Phỏng vấn của Nguyễn Mạnh Trinh)
4. Nhà thơ Tô Thùy Yên
Đối với tôi thực sự làm thơ không khó, làm thơ hay mới là chuyện khó, rất khó. Khó đến độ nhiều khi từ cái ư muốn khởi đầu cho đến khi hoàn tất bài thơ, không tưởng tượng ḿnh có thể đạt tới được ngoài trí lực của ḿnh. Nói chung làm bất cứ việc ǵ trong bất cứ lĩnh vực nào mà làm cho tốt làm cho hay thật là khó, rất khó, chớ làm lơ mơ, bất kể, được chăng hay chớ th́ ai làm chẳng được. Một bài thơ có hồn mới chuyển đạt xúc cảm đến người khác...
5. Nhà thơ Yên Thao(Hà Nội-Việt Nam)
Tác giả bài thơ "Nhà Tôi" nổi tiếng.
Hiện nay rất nhiều người làm thơ nhưng thơ hay th́ hiếm. Thơ t́nh yêu lạm phát. Không nên nghĩ t́nh yêu là tất cả của thơ và thơ chỉ viết về t́nh yêu lứa đôi.
Thơ là tinh hoa của tiếng nói, tiếc có những bài thơ từ ngữ quá trần truồng, thô kệch, song lại được các báo chí đăng tải như một cái ǵ mới mẻ, dám nghĩ dám viết(?!!).
Gom từng hạt bụi phấn
góp từng phân tử đường
con ong làm nên mật
cho cuộc đời lên hương
người làm thơ chúng ta
hơn con ong cần mẫn
càng phải biết chọn hoa
đừng làm ra mật đắng!
6. Nhà thơ Hoàng Hương Trang (Huế-Việt Nam)
Thơ hiện nay nhiều người làm, số lượng thi sĩ đông đảo hơn bao giờ hết, số lượng thơ cũng rất nhiều. Nhưng những bài thơ đi sâu vào ḷng người, gây ấn tượng mạnh, làm người đọc yêu và nhớ th́ quả thật rất ít, không bằng được những bài thơ gọi là "thơ tiền chiến". V́ sao? Theo tôi, thơ bây giờ dùng ngôn ngữ quá xa lạ với người đọc, làm cho người đọc không thể hiểu nổi tác giả nói ǵ, có nhiều bài đọc lên tôi cứ tưởng không phải thơ Việt! Bí hiểm, khổ độc, ẩn dụ, làm dáng thời thượng, khoe chữ, đánh đố...đó là những yếu tố làm thơ xa người đọc, có đọc cũng chẳng nhớ lâu nổi. Tôi thích loại thơ "để nhớ suốt đời" như "Chiều" của Hồ Dzếnh, "Hai Sắc Hoa Ti Gôn" của T.T. Kh, như "Lỡ Bước Sang Ngang" của Nguyễn Bính, như "Nhớ Rừng" của Thế Lữ, như "Đây Thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử v.v.. hay xa hơn nữa, như thơ Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm. Ước mong thế hệ chúng ta sẽ để lại nhiều bài thơ "nhớ suốt đời" cho thế hệ sau như chính chúng ta đă được thừa hưởng những áng thơ tuyệt tác của các thế hệ trước.
7. B́nh luận gia Nguyễn Hưng Quốc(Úc Đại Lợi)
Ở miền Nam, trong thời kỳ 1954-1975, tương đối tự do hơn, không ai buộc thơ phải là công cụ cho chính trị, tuy nhiên, tận trong thâm tâm mỗi người, dường như họ vẫn coi thơ như một phương tiện, với nó, họ dấn thân vào thời cuộc. Người ta dùng thơ để phát ngôn lập trường, một quan điểm, một thái độ. Chỉ có thời gian ngắn, sau hiệp định Geneve, một số nhà thơ c̣n say mê theo đuổi cái Đẹp, nhưng ngay sau đó, không khí chính trị và xă hội càng lúc càng bức bối, người ta bỗng quên bẵng thơ đi, chỉ nhớ đến thời cuộc. Theo nhà văn Vơ Phiến, thơ miền Nam thời kỳ này có thể chia thành hai giai đoạn: giai đoạn đầu từ 1954 đến 1963; giai đoạn sau từ 1964 đến 1975. Đặc điểm của giai đoạn đầu là sự hục hặc phá phách về h́nh thức, cầu kỳ tối tăm trong ngôn ngữ, khắc khoải dằn vặt trong tâm t́nh; đặc điểm của giai đoạn sau là trở về truyền thống, trở về khuôn khổ, trở về những vần điệu êm đềm quen thuộc cũ, thơ, do đó, trở thành nhẹ nhàng, trong sáng và dễ hiểu hơn. Nếu nhận định của Vơ Phiến đúng, tôi nghĩ sự thay đổi ấy là điều đáng tiếc: thực chất đó là sự quy hàng của con người nghệ sĩ trước con người công dân; sự quy hàng của ư thức thẩm mỹ trước ư thức trách nhiệm. Cuối cùng, cái ông 'nhà nho' tưởng đă chết trong tâm hồn mỗi người lại được hồi sinh.
(Biên Khảo về Thơ của Nguyễn Hưng Quốc)
Sở dĩ chúng tôi nêu lên những phát biểu của các nhà thơ đă thành danh trên Thi Đàn Việt Nam trước 1975 ở quê nhà với mục đích để gợi ư quư vị tự thẩm định chọn lựa tác phẩm thi ca nào mà quư vị cảm nhận cho là hay nhất một cách công bằng hợp lư và khách quan. V́ khó giải thích hết ư nghĩa của mỗi bài thơ, cảm nhận mỗi người mỗi khác, nhiều khi tương phản. Không nên đặt vấn đề lư giải về thơ để t́m sự đồng thuận hợp nhất.
Như quư vị đă biết sau biến cố đau thương trên quê hương miền Nam thân yêu. Ḍng Văn Học diệu kỳ như dải lụa rực rỡ trên trường giang Văn Học Sử thể hiện T́nh Tự Quê Hương Dân Tộc, Sáng Ngời Lư Tưởng Tự Do, Nhân Bản Khai Phóng và Sáng Tạo của một thời lừng lẫy vàng son giá trị khởi sắc và phong phú nhất của miền Nam đă hoàn toàn bị triệt hủy tận t́nh sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đau thương của lịch sử Dân Tộc.
Những nhà hoạt động Văn Học miền Nam bị đưa vào các trại cải tạo đày đọa nghiệt ngă.
Trong số thi văn nhân này đă có một số người đă bỏ xác trong trại tù và tử nạn trên đường vượt biển t́m Tự Do.
Sau hơn 35 năm Cộng Sản Việt Nam thống trị trên quê hương họ vẫn cứ tin đă đốt hết kho tàng văn học miền Nam nhưng trên thực tế điều đó chỉ là hoang tưởng v́ sự thật bạo tàn đă được lịch sử lưu truyền đến mai sau thấu hiểu sự kinh hoàng trong kư ức dân tộc. Những tác phẩm thể hiện đạo lư nhân bản dân tộc đó vẫn khắc sâu trong tim óc của dân chúng miền Nam và khoảng 3 triệu người Việt lưu vong nơi hải ngoại. Cho dù mọi biến cố lịch sử đă thuộc về quá khứ nhưng quá khứ vẫn tích lũy những kinh nghiệm quư báu cho cuộc hành tŕnh hướng đến tương lai. Chính nhờ vào bản chất truyền thống văn hóa dân tộc hiền ḥa nhân ái nên ngay trong thời gian hai miền Nam Bắc đối nghịch nhau về ư thức hệ, nhưng trong giới sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật, trí thức, sinh viên học sinh ở Miền Nam đều có thiện cảm say mê những tác phẩm thi ca của các thi sĩ Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Anh Thơ, Vũ Đ́nh Liên, Thâm Tâm...của thời tiền chiến trữ t́nh lăng mạn, khởi sắc thăng hoa, dĩ nhiên có nhiều bài thơ hay đến bây giờ vẫn c̣n được yêu thích. Đại khái như: Lưu Trọng Lư: "Em không nghe mùa thu/Lá thu kêu xào xạc/Con nai vàng ngơ ngác/Đạp trên lá vàng khô...". Hay Hồ Dzếnh: "T́nh chỉ đẹp khi c̣n là dang dở/Đời mất vui khi đă vẹn câu thề/Thơ viết đừng xong thuyền trôi chớ đỗ/Cho ngh́n sau lơ lửng với ngh́n xưa." Xuân Diệu với câu thơ ai cũng nhớ: "Yêu là chết trong ḷng một ít/V́ mấy khi yêu mà chắc được yêu?/Cho thật nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu." Với bài thơ Ngậm Ngùi nhẹ nhàng quyến rũ mănh liệt của Huy Cận:
Nắng chia nửa băi; chiều rồi...
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giang mau;
Em ơi hăy ngủ...anh hầu quạt này;
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng b́nh thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ..
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...
Hồn em đă chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hăy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
Những hiện tượng ngưỡng mộ những bài thơ hay trong tinh thần bao dung tự nhiên đó chúng ta không thể phủ nhận. Mặc dù các nhà thơ này đang nắm giữ chức vị quan trọng trong chính quyền Cộng Sản và chính họ đă hèn nhát tự treo cổ tác phẩm của ḿnh như trường hợp của nhà văn Nguyễn Tuân. Hoặc khai tử đoạn tuyệt những đứa con tinh thần như thi sĩ Xuân Diệu, Huy Cận trong giai đoạn phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bùng vỡ khắp nơi trong giới văn nghệ sĩ miền Bắc.
Nói chung hầu như đa số những nhà thơ, văn tiền chiến đó đă thực sự thay đổi, khoác một chiếc áo khác để trở thành những công cụ phục vụ cho chế độ. Như nhà thơ Tế Hanh: "Hai mươi năm dưới ngọn cờ cách mạng/Ta đem câu thơ thành vũ khí chống quân thù..." hay Chế Lan Viên: "Hoan hô cái hầm chông. Ta yêu ngươi hơn vạn đóa hoa hồng.." những bài thơ có xác mà không có hồn. Tuy nhiên cũng có những nhà văn nhà thơ can trường thẳng thắn đầy hào khí của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm do nhà văn, thơ Phan Khôi chủ xướng phản kháng với chế độ độc tài đ̣i quyền tự do sáng tạo của người trí thức. Nổi bật nhất là thi sĩ Phùng Quán với bài thơ Lời Mẹ Dặn. Được giới sinh hoạt Văn Học Miền Bắc ca ngợi là một bài thơ xuất sắc:
"...Như lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Tôi muốn làm nhà thơ chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngă
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá..."
(năm 1957)
Những phản kháng quyết liệt của Hữu Loan (Màu Tím Hoa Sim) của Hoàng Cầm (Bên Kia Sông Đuống), Trần Dần (Nhất Định Thắng) tinh thần can trường kiên định của nhà thơ Lê Đạt. Nhất là thái độ cứng rắn can đảm với lư luận bướng bỉnh của Phan Khôi: "Làm sao cũng chẳng làm sao/Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi/Làm chi cũng chẳng làm chi/Dẫu có làm ǵ cũng chẳng làm sao!"
Nhưng chỉ là ngọn lửa bùng lên trong một thời gian ngắn để rồi tắt lịm, trước cơn băo hủy diệt tàn bạo của nhà cầm quyền Hà Nội.
Kính Thưa Quư Vị
Theo thiển ư và kinh nghiệm riêng của chúng tôi khi một bài thơ đạt những tiêu chuẩn như sau:
1. Cảm hứng xuất thần khi sáng tác (hồn thơ)
2. Thể hiện sự chân thật và tự nhiên
3. Tư tưởng chuyển đạt cảm xúc
4. Cấu trúc ngôn ngữ để tạo sự dễ nhớ
Hy vọng sẽ được đa số quần chúng và giới phê b́nh văn học đánh giá là một bài thơ hay.
Với tiêu chuẩn vừa nêu trên, chúng tôi xin mạn phép đóng vai tṛ người phu già vực lên trong tro than của quá khứ để t́m những viên ngọc quư không bị hủy hoại của lửa phần thư và không bị thời gian làm phai mờ trong tiềm thức của chúng ta. Đó là những tác phẩm Văn Học dân tộc tuyệt vời trân quư của một thời rạng rỡ tinh hoa của những tên tuổi được yêu thích như Đinh Hùng, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Trần Dạ Từ, Lê huy Oanh, Du Tử Lê, Hoàng Trúc Ly, Hoài Khanh, Viên Linh, Cao Tiêu, Thanh Nam, Tô Thùy Yên, Trần Hoài Thư, Hoàng Anh Tuấn, Tuệ Nga, Kim Tuấn, Nguyễn Tất Nhiên, Vũ Hữu Định, Huy Phương, Diên Nghị, Cao Mỵ Nhân, Song Nhị, Hà Thượng Nhân, Nguyễn Bắc Sơn, Hoàng Lộc, Hà Thúc Sinh, Thành Tôn, Tạ Kư, Lâm Hảo Dũng, Lữ Quỳnh..v.v..
Trong thời lượng ngắn ngủi này, chúng tôi chỉ mạo muội đan cử một vài tác phẩm thi ca tâm đắc theo sở thích riêng tư, kính mong quư vị niệm t́nh thông cảm. Đó là những bài T́nh Già của Phan Khôi, Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Chào Nguyên Xuân của Bùi Giáng, Áo Lụa Hà Đông của Nguyên Sa, Tiếng Chuông Thiên Mụ của Nhă Ca, Đôi Mắt Người Sơn Tây của Quang Dũng và Nguyện Cầu của Vũ Hoàng Chương.
T̀NH GIÀ
Phan Khôi.
"Hai mươi bốn năm xưa,
Một đêm vừa gió lại vừa mưa.
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
Hai mái đầu xanh kề nhau than thở.
"Ôi! đôi ta t́nh thương nhau th́ vẫn nặng,
Mà lấy nhau hẳn là không đặng.
Để đến rồi t́nh trước phụ sau;
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!"
Hay! nói mới bạc làm sao chớ!
Buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng nấy,
Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngăi đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung?
Hai mươi bốn năm sau,
T́nh cờ nơi đất khách gặp nhau!
Đôi cái đầu đều bạc.
Nếu chẳng quen lung đố có nh́n ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi.
Liếc đưa nhau đi rồi!
Con mắt có đuôi".
TỐNG BIỆT HÀNH
Thâm Tâm
Đưa người ta không đưa sang sông,
Sao có tiếng sóng ở trong ḷng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giă gia đ́nh, một dửng dưng...
-Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ.
Chí lớn chưa về bàn tay không
Th́ không bao giờ nói trở lại
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Ta biết người buồn chiều hôm trước,
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cùng như sen
Khuyên nốt em trai ḍng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Trời chưa mùa thu, tươi thắm thay,
Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc
Gói tṛn thương nhớ chiếc khăn tay...
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay.
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
Hàn Mặc Tử.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ,
Nh́n nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Gịng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nh́n không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết t́nh ai có đậm đà.
CHÀO NGUYÊN XUÂN
Bùi Giáng.
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Th́ cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng: những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ c̣n nhớ nhau
Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nh́n xa có bóng áng mây nghiêng đầu
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
V́ sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá ǵ ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.
ÁO LỤA HÀ ĐÔNG
Nguyên Sa.
Nắng Sài G̣n anh đi mà chợt mát
Bởi v́ em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn c̣n nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây, tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vă vẽ chân dung
Bày vội vă vào trong hồn mở cửa
Gặp một bữa anh đă mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn
Thơ học tṛ anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
Em không nói đă nghe lừng giai điệu
Em chưa nh́n mà đă rộng trời xanh
Anh đă trông lên bằng đôi mắt chung t́nh
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng v́ đâu
Nhưng sao đi mà không bảo ǵ nhau
Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
Để anh giận mắt anh nh́n vụng dại
Giận thơ anh đă nói chẳng nên lời
Em đi rồi, sám hối chạy trên môi
Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng
Em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ t́nh lụa trắng
TIẾNG CHUÔNG THIÊN MỤ
Nhă Ca.
Tôi lớn lên bên này sông Hương
Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ
Cây trái Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ
Cửa từ bi vồn vă bước chân sông
Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng
Tháp cổ chuông xưa sông hiền sóng mọn
Những đêm tối bao la những ngày tháng lớn
Những sáng chim chiều dế canh gà
Tiếng chuông buồn vui dợn thấu trong da
Người với chuông như chiều với tối
Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn
Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy
Tiếng chuông đến và đi chỉ ḿnh tôi thấy
Chỉ ḿnh tôi nh́n thấy tiếng chuông tan
Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em
Tiếng chuông tan rời như lệ mẹ hiền
Tiếng chuông tan lâu như mưa ngoài phố
Tiếng chuông tan dài như đêm không ngủ
Tiếng chuông tan tành như tiếng vỡ trong tôi
Từ dạo xa chuông khôn lớn giữa đời
Đổi họ thay tên viết văn làm báo
Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo
Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư
Tháp cổ chuông xưa, sông nhỏ sương mù
Ḍng nước cũ trong mắt nh́n ẩm đục
Con đường cũ trong hồn nghe cỏ mọc
Chuông cũ giờ đây bằn bặt trong da
Tuổi hồng sa chân chết đuối bao giờ
Ngày tháng cũ cầm bằng như nước lũ
Nhưng sao chiều nay bỗng bàng hoàng nhớ
Tiếng chuông xưa bừng sống lại trong tôi
Tiếng chuông xưa ḱa tuổi dại ta ơi
Chuông ̣a vỡ trong tôi ngh́n tiếng nói
Những mảnh đồng đen như da đêm tối
Những mảnh đồng đen như tiếng cựa ḿnh
Những mảnh đồng đen như máu phục sinh
Những mảnh đồng đen kề nhau bước tới
Tôi thức dậy rồi đây chuông ơi chuông hỡi
Tôi thức dậy đây tôi thức dậy rồi
Thức dậy thực sự rồi
Thức dậy cùng dông băo, thức dậy cùng tan vỡ
Thức dậy cùng lịch sử
Mẹ hiền ơi thành phố cũ chiều nay
Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay
Trên mặt nước trên mặt người mặt lộ
Cho con trở về đừng mê sảng ngó.
ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
Quang Dũng.
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba V́
Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em d́u dịu buồn Tây Phương
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương.
Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan?
Mẹ tôi em có gặp đâu không?
Những xác già nua ngập cách đồng
Tôi cũng có thằng con bé dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây...
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
Đường hoa khô ráo lệ
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh b́nh chắc nở hoa
Đă hết sắc màu chinh chiến cũ
Em có bao giờ nhớ đến ta.
NGUYỆN CẦU
Vũ Hoàng Chương.
Ta c̣n để lại ǵ không?
Ḱa non đá lở, này sông cát bồi...
Lang thang từ độ luân hồi,
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về.
Trông ra bến Hoặc bờ Mê,
Ngàn thu nửa chớp, bốn bề một phương.
Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch, đừng vương gót này.
Để ta tṛn một kiếp say,
Cao xanh liều một cánh tay níu trời.
Thơ ta chẳng viết cho đời,
Không vang nhịp khóc dây cười nào đâu!
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi,
Đêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phen đă nín cung đàn,
Nghĩ chi c̣n mất hơi tàn thanh âm.
(Hà Nội 1950)
Chúng ta ai cũng hiểu, thời gian rồi sẽ qua đi, tất cả mọi hiện tượng vật chất rồi sẽ tan biến vào cơi vô thường.
Nhưng cái c̣n lại chúng ta mang theo trong tâm thức nơi viễn xứ là nét văn hóa đặc thù của dân tộc. Không có nguồn văn chương lưu vong nào không cưu mang Tổ Quốc
Hiện trạng của chúng ta là những nạn nhân của một chế độ thiếu tự do nhân bản. Cho dù định cư ở nơi nào trên thế giới chúng ta đều phải kiên tŕ vượt qua những khó khăn đối diện với đời sống thực tế. Tuy nhiên chúng ta hăy nhận thức vai tṛ và bổn phận cao quư hơn nữa là phải quyết tâm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa cội nguồn của Dân Tộc, chuyển đạt đến các thế hệ mai sau niềm tự hào là người Việt Nam chúng ta cũng có một nền Văn Hóa đầy T́nh Tự Quê Hương, Nhân Bản và Sáng Tạo bằng trái tim từ ái ưu viễn tôn vinh t́nh người, thăng hoa hướng tới Chân Thiện Mỹ của nhân loại.
THÁI TÚ HẠP.